Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án theo pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm đối với xây dựng pháp luật Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.59 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SAISAVAD SAYASOMBATH

CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG
TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM
ĐỐI VỚI XÂY DỰNG PHÁP LUẬT LÀO
Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG

HÀ NỘI- 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.


Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Quý Trọng, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

SAISAVAD SAYASOMBATH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

SAISAVAD SAYASOMBATH


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự


CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

TAND

: Tòa án nhân dân

TCTM

: Tranh chấp thương mại

TTDS

: Tố tụng dân sự


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ
CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN

6

1.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp thương mại và yêu cầu của
việc giải quyết tranh chấp thương mại


6

1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại

6

1.1.2. Đặc điểm và phân loại tranh chấp thương mại

8

1.1.3. Giải quyết tranh chấp thương mại và ý nghĩa của việc giải quyết
tranh chấp thương mại

10

1.1.4. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại

12

1.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại

14

1.2.1. Thương lượng

14

1.2.2. Hòa giải


15

1.2.3. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại

16

1.2.4. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án

17

1.3. Khái quát về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án 18
1.3.1. Khái niệm và lịch sử hình thành

18

1.3.2. Đặc điểm cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án 20
1.3.3. Bản chất của giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

22
24

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN

25

2.1. Quy định về nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp thương mại
bằng Tòa án


25

2.1.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự

26

2.1.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật

28


2.1.3. Nguyên tắc Toà án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ

29

2.1.4. Nguyên tắc hoà giải

30

2.1.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời

32

2.1.6. Nguyên tắc xét xử công khai

32

2.2. Chức năng và nhiệm vụ của Toà kinh tế trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại


33

2.2.1. Chức năng của Toà kinh tế

34

2.2.2. Nhiệm vụ của Toà kinh tế

35

2.3. Quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
thương mại của Tòa án

36

2.3.1. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

36

2.3.2. Thẩm quyền theo cấp Tòa án

37

2.3.3. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn

40

2.3.4. Thẩm quyền theo vụ việc


40

2.4. Quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng trong giải quyết tranh
chấp thương mại tại Tòa án

41

2.4.1 Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh tế

41

2.4.2. Chuẩn bị xét xử

44

2.4.3. Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án kinh tế và xem xét vụ việc
kinh tế theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm

46

2.4.4. Một số quy định khác

50

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

51

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG XÂY
DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG

MẠI CỦA NƯỚC CHDCND LÀO

53

3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình áp dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án tại Việt Nam
3.1.1. Thuận lợi

53
53


3.1.2. Khó khăn

56

3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng Tòa án của nước CHDCND Lào

58

3.2.1. Vai trò của giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án đối với
hoạt động kinh doanh thương mại tại nước CHDCND Lào

58

3.2.2. Thực trạng các quy định pháp luật nước CHDCND Lào về giải
quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án còn nhiều hạn chế

60


3.3. Bài học kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật cho
nước CHDCND Lào rút ra từ cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại
bằng Tòa án tại Việt Nam

63

3.3.1. Về phương diện lập pháp

63

3.3.2. Về cơ cấu tổ chức và nhân sự Tòa án

66

3.3.3 Về tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân
dân
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

68
70

KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

72



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra
ngày càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan
hệ kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến
sự phát triển của các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế của nước CHDCND Lào đang trên đà
phát triển và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới. Tuy nhiên,
kinh tế Lào vốn đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn
thiếu thốn và yếu kém rất nhiều. Trong những năm trở lại đây, Đảng, Nhà
nước và Chính phủ Lào đã có những chủ trương phát triển nền kinh tế hàng
hóa, khuyến khích nền kinh tế trong nước phát triển đồng thời thúc đẩy mạnh
quá trình hợp tác kinh tế với các quốc gia khác trên thế giới. Đứng trước một
nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh những cơ hội mà kinh tế Lào có được để phát
triển thì Lào cũng gặp phải không ít những khó khăn, vướng mắc trong công
cuộc hội nhập ấy. Kinh tế phát triển, đa dạng hóa các ngành nghề, các doanh
nghiệp trong nước được thành lập ngày một nhiều, quan hệ quốc tế mở rộng,
đòi hỏi Lào phải có một hành lang pháp lý vững chắc, bao quát, nhằm điều
tiết nền kinh tế, đặc biệt là các quy định về giải quyết tranh chấp kinh tế.
Thực tế trong những năm qua, khi sự giao lưu hợp tác kinh tế giữa các
nước ngày một nhiều thì các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh là tất yếu khách
quan.Song khi có tranh chấp phát sinh, các bên trong tranh chấp thường lúng
túng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp nào cho phù hợp.
Để giải quyết những tranh chấp này một cách hiệu quả, đòi hỏi mỗi quốc gia
phải có những quy định và cơ quan thực thi hiệu quả.
Việt Nam là quốc gia có mối quan hệ lịch sử gắn bó tốt đẹp với Lào, là
nước láng giềng có sự tương đồng về nhiều mặt như chính trị, kinh tế, văn hóa,

xã hội,… Vì vậy trong quan hệ hợp tác quốc tế Lào luôn chú trọng hợp tác
đồng thời học hỏi kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển đất nước của Việt


2

Nam, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quá trình hoàn thiện pháp luật
của Việt Nam luôn là những kinh nghiệm quý đối với CHDCND Lào.
Từ nhiều năm nay, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật
kinh tế nói riêng của Việt Nam đang ngày một hoàn thiện hơn, không chỉ đáp
ứng được nhu cầu quản lý trong nước mà còn phù hợp với pháp luật quốc tế.
Trong lĩnh vực giải quyết TCTM, pháp luật Việt Nam cũng thể hiện sự hoàn
thiện với pháp luật quốc tế trong các phương thức giải quyết TCTM. Một
trong những phương thức đạt được hiệu quả cao và nhiều doanh nghiệp lựa
chọn khi có tranh chấp xảy ra đó là: giải quyết TCTM bằng Tòa án. Việc giải
quyết TCTM bằng Tòa án có nhiều nội dung pháp lý phức tạp, mà việc
nghiên cứu pháp luật về phương thức giải quyết TCTQT nói chung và
phương thức giải quyết TCTM bằng Tòa án nói riêng là điều hết sức cần thiết
đối với những sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, bên cạnh đó từ việc nghiên
cứu quy định của pháp luật Việt Nam, sẽ rút ra được những bài học kinh
nghiệm quý báu trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật Lào.
Với cơ sở khoa học và thực tiễn như trên tác giả đã lựa chọn đề tài:
“Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án theo pháp luật Việt
Nam và kinh nghiệm đối với xây dựng pháp luật Lào”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về TCTM và giải quyết TCTM bằng Tòa án là vấn đề đã
được quy định từ lâu trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên việc giải quyết
TCTM bằng Tòa án từ trước luôn được nhìn nhận dưới góc độ luật Dân sự
cho tính chất của nền kinh tế và sự hội nhập kinh tế thị trường chưa thực sự
sâu sắc. Do đó việc nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án

theo pháp luật Việt Nam mới được nghiên cứu ở một số các công trình khoa
học như: Nguyễn Thị Kim Vinh (2002), “Pháp luật giải quyết tranh chấp
kinh tế bằng con đường Tòa án ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện
nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; Đào Văn Hội (2003), “Giải quyết tranh
chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ


3

Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Vũ Hồng Vân (2006), “Về mở rộng
thẩm quyền của Tòa án cấp huyện trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại theo quy định của BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát; “Về điều
kiện khởi kiện tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, năm 2008; Phạm Thị Ban (2012), “Giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân – thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Trần Anh Sáng (2012), “Giải quyết tranh chấp thương mại
bằng Tòa án và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
Trường Đại học Luật Hà Nội,…
Khi nghiên cứu về vấn đề giải quyết TCTM bằng Tòa án theo quy định
của pháp luật Lào hay so sánh với pháp Luật Việt Nam để rút ra bài học kinh
nghiệm cho pháp luật Lào thì chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nổi
bật, mới chỉ có một khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội, năm 2006 của
sinh viên Chănsúc Sihakhot với đề tài “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
thương mại của Tòa án theo pháp luật Việt Nam và Lào”.
Việc nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố này cho
thấy, với những mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau, những công trình nghiên
cứu này chủ yếu nghiên cứu về pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án của Việt Nam mà chưa có công trình nào đi sâu phân
tích so sánh để đưa ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng pháp luật

của Lào. Chính vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam để đưa ra những
bài học kinh nghiệm cần thiết cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Lào
là một đòi hỏi cấp bách và thiết thực.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
+ Cơ sở lý luận và thực tiễn của cơ chế giải quyết TCTM bằng Tòa án.
+ Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam về cơ chế giải quyết
TCTM bằng Tòa án


4

- Phạm vi nghiên cứu của luận văn này chủ yếu tập trung vào tìm hiểu,
phân tích các quy định của Luật thương mại 2005 , Bộ Luật dân sự 2005, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Luật Trọng tài thương mại 2010 và các văn
bản pháp luật có liên quan quy định về cơ chế giải quyết TCTM bằng Tòa án.
Từ việc tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả có
so sánh với một số quy định của pháp luật Lào trong cơ chế giải quyết TCTM
bằng Tòa án, từ những đánh giá so sánh tác giả đề xuất bài học kinh nghiệm
trong việc xây dựng pháp luật Lào.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được viết trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác- Lênin về Nhà
nước và pháp luật, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình nghiên
cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
so sánh, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử…
Trong đó phương pháp chủ yếu là so sánh, phân tích tổng hợp.
5. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là: Làm rõ cơ chế pháp lý trong giải
quyết TCTM bằng Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam, làm rõ và

đánh giá những ưu điểm, khó khăn trong cơ chế giải quyết TCTM bằng Tòa
án. Từ đó, luận văn đi sâu nghiên cứu phương hướng và bài học kinh nghiệm
trong thời gian tới để hoàn thiện pháp luật Lào trong giải quyết TCTM, tạo
hành lang pháp lý vững chắc, thúc đẩy kinh doanh trong nước và hợp tác kinh
tế quốc tế.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Về vấn đề lý luận: Luận văn đã nghiên cứu một cách khái quát về
TCTM, cơ chế giải quyết TCTM bằng Tòa án.
Về vấn đề luật thực định: Luận văn đã nghiên cứu một cách tổng quan,
phân tích một cách hệ thông các khía cạnh pháp lý trong cơ chế giai quyết


5

TCTM bằng Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam,…để rút ra bài học
kinh nghiệm cho CHDCND Lào..
Về vấn đề thực tiễn: Luận văn có nghiên cứu những ưu điểm, hạn chế trong
cơ chế giải quyết TCTM bằng Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam; luận
văn cũng chỉ ra những bất cập trong pháp luật Lào khi quy định về cơ chế giải
quyết TCTM bằng Tòa án, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật Lào trên cơ sở học hỏi những điểm tiến bộ của pháp luật Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn cơ cấu gồm: Lời nói đầu, phần nội dung, phần kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo. Trong dó, phần nội dung của luận văn kết cấu 3
chương, gồm:
Chương 1. Những vấn đề chung về tranh chấp thương mại và cơ chế
giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án.
Chương 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại bằng Tòa án.
Chương 3. Một số đánh giá và bài học kinh nghiệm trong xây dựng và

hoàn thiện pháp luật nước CHDCND Lào.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ CƠ
CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp thương mại và yêu cầu
của việc giải quyết tranh chấp thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ
quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm
này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở Việt Nam trong những năm gần
đây cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái
niệm quen thuộc trong cơ chế kinh doanh kế hoạch hoá đã ăn sâu trong tiềm
thức và tư duy pháp lí của người Việt Nam.
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày
càng có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong
nhiều ngành nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh
tranh nhau đang ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp
tác, những giao kết “thuận buồm xuôi gió” vẫn còn tồn tại khá nhiều những
mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả nền kinh tế thị
trường. Chính vì vậy, thuật ngữ “tranh chấp thương mại” hay “tranh chấp
kinh doanh” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các
nước trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở Việt Nam trong
mấy năm gần đây.Vậy TCTM là gì?
Dưới góc độ kinh tế, tranh chấp kinh doanh, thương mại là sự mâu thuẫn
hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản

phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy
tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và
tái sản xuất xã hội. Dù tồn tại dưới hình thức nào và bắt nguồn từ nguyên nhân
khách quan hay chủ quan thì đặc trưng chung của tranh chấp kinh doanh, thương


7

mại là luôn gắn với hoạt động kinh doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các cá
nhân, đơn vị kinh doanh. Về bản chất mỗi tranh chấp xét đến cùng đều phản ánh
những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia vào quan hệ kinh tế đó.
Tiếp đó, đến năm 2004, BLTTDS năm 2004 tại khoản 1 Điều 29 quy
định rõ những tranh chấp về kinh doanh thương mại là những tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các cá nhân, tổ chức có
đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Những tranh chấp
đó bao gồm: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại kí,
kí gửi, thuê, cho thuê, thuê mua…và các tranh chấp khác về kinh doanh,
thương mại mà pháp luật có quy định.
Dưới góc độ luật học, tranh chấp kinh doanh, thương mại được hiểu
khác nhau qua từng thời kỳ bằng việc các quy định giải thích khái niệm này ở
mỗi văn bản trong các giai đoạn khác nhau có sự khác nhau.
Ngay từ năm 1994, hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại cũng
đã đưa ra một số khái niệm khác nhau để biểu đạt loại tranh chấp này. Tuy
không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế nhưng
cũng đã liệt kê được các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án kinh tế và Trọng tài kinh tế.
Khái niệm TCTM lần đầu tiên được đề cập trong Luật Thương mại
năm 1997; theo văn bản này thì TCTM là tranh chấp phát sinh do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại
(Điều 238 Luật Thương mại năm 1997). Quan niệm về TCTM và hoạt động

thương mại theo Luật Thương mại năm 1997 đã loại bỏ nhiều tranh chấp
không được coi là TCTM mặc dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi là các
TCTM trong hoàn cảnh lúc đó [3]. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp
luật giữa luật quốc gia và luật quốc tế.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại được ban hành ngày 25/2/2003 tuy không
đưa ra định nghĩa về TCTM nhưng thông qua khái niệm về “hoạt động thương
mại” đã tạo được sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh


8

chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật
và thông lệ quốc tế. Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại, hoạt động thương mại
là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh
doanh bao gồm: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lí
thương mại…(Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003).
Luật Thương mại 2005 không có quy định về tranh chấp kinh doanh,
thương mại mà chỉ đưa ra định nghĩa khái niệm hoạt động thương mại là:
“hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác” (khoản 1 Điều 3) và tại Điều 4 khoản 2 có quy định “kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”. Vậy tranh chấp kinh doanh, thương mại được hiểu
là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ
giữa các chủ thể trong các quan hệ được đề cập đến tại khoản 1 Điều 3 Luật
Thương mại 2005 và khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005.
Như vậy, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau và cũng chưa có một quy
định chính thức nào đưa ra khái niệm TCTM là gì? Xong từ những quy định giải
thích nội hàm khái niệm trong các quy định pháp luật liên quan nhìn chung có

thể hiểu: TCTM là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về lợi ích, quyền
và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.
Các TCTM chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân với
nhau; ngoài ra trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức (không
phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của TCTM như: tranh chấp giữa
công ty và thành viên công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau...
1.1.2. Đặc điểm và phân loại tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại có những đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, về nội dung của tranh chấp kinh doanh, thương mại: Nội dung
của các tranh chấp kinh doanh thương mại chủ yếu là mâu thuẫn về lợi ích


9

kinh tế. Bởi mục đích cơ bản mà các chủ thể mong muốn đạt tới khi tham gia
hoạt động kinh doanh thương mại là lợi nhuận hoặc đối tượng đầu tư. Do vậy,
trong quá trình thực hiện xung đột về lợi ích kinh tế là nội dung cơ bản của
mọi tranh chấp kinh doanh thương mại [3].
Hai là,về chủ thể của TCTM: Các quan hệ tranh chấp kinh doanh, thương
mại phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân. Bởi chủ thể của các quan hệ kinh
doanh thương mại hầu hết là các thương nhân, trong quan hệ kinh doanh, thương
mại này quyền và nghĩa vụ của các chủ thể luôn tương xứng với nhau trên cơ sở
thoả thuận, bình đẳng với mục đích tối đa là lợi ích kinh tế, vì vậy khi thỏa thuận
kinh tế bị đe dọa thì có thể sẽ xảy ra những tranh chấp giữa các chủ thể đó [3].
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chủ thể của TCTM có thể là giữa thương
nhân với cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân.
Ba là, TCTM thường gắn liền với tài sản có giá trị lớn. Khác với tranh
chấp trong dân sự, tranh chấp trong thương mại thường có giá trị rất lớn, mức
độ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh rất lớn, thậm chí có thể tác
động tới hoạt động của cả hệ thống kinh doanh của nền kinh tế. Do đó, việc

giải quyết thỏa đáng, nhanh gọn, hiệu quả, kịp thời là yêu cầu hết sức cần
thiết [4; tr10-12].
Tranh chấp thương mại phát sinh từ hoạt động kinh doanh thương mại
do đó về tính chất và hình thức tranh chấp phụ thuộc vào sự đa dạng của
chính hoạt động kinh doanh thương mại. Việc phân loại TCTM được dựa trên
các tiêu chí như sau:
Thứ nhất, theo nội dung tranh chấp (lĩnh vực phát sinh tranh chấp).
Theo quy định tại Điều 29 BLTTDS, TCTM bao gồm:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận
bao gồm: Mua bán hàng hóa; cung cấp dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký
gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kĩ thuật; vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nổi địa; vận chuyển


10

hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ
phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo
hiểm; thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Thứ hai, theo tính chất quốc tế. Theo tính chất quốc tế, TCTM bao gồm
những tranh chấp sau:
- Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, là tranh chấp có một
trong các dấu hiệu pháp lý sau: Một trong các bên tranh chấp có quốc tịch
khác nhau, hoặc có nơi cư trú, hoặc có trụ sở đặt ở các nước khác nhau; Tài

sản là đối tượng của quan hệ tranh chấp tồn tại ở nước ngoài; Sự kiện pháp lý
phát sinh quan hệ tranh chấp xảy ra ở nước ngoài.
- Tranh chấp thương mại không có yếu tố nước ngoài là loại tranh chấp
không có dấu hiệu pháp lý kể trên.
Thứ ba, theo giá trị tranh chấp. Theo giá trị tranh chấp, TCTM bao gồm
2 loại: TCTM giá trị lớn, TCTM giá trị nhỏ. Tuy nhiên, việc phân loại TCTM
theo tiêu chí giá trị tranh chấp chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi hiện nay chưa có
điều luật cụ thể quy định giá trị tranh chấp bao nhiêu được coi là tranh chấp
có giá trị lớn, bao nhiêu là giá trị nhỏ.
Việc phân loại TCTM nhằm giúp cho việc lựa chọn hình thức giải
quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng để giải quyết một cách chính xác,
nhanh chóng và ít tốn kém nhất.
1.1.3. Giải quyết tranh chấp thương mại và ý nghĩa của việc giải
quyết tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh
doanh và vì vậy, giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân


11

trong nền kinh tế. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, duy trì
trật tự kinh tế cần phải có một cơ chế giải quyết tốt nhất. “Giải quyết tranh
chấp kinh tế, thương mại” được hiểu là việc lựa chọn các hình thức, các
phương pháp thích hợp nhằm giải tỏa các bất đồng mâu thuẫn, xung đột về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể có tranh chấp; tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà
các bên có thể chấp nhận được [13; tr.12-14].
Tranh chấp thương mại có thể giải quyết bằng một trong hai phương thức,
phương thức mang tính tài phán hoặc không mang tính tài phán. Tài phán là
quyền của các cơ quan hành chính và tư pháp của quốc gia thực hiện giải quyết

các vụ việc vi phạm pháp luật theo thẩm quyền của họ. Theo nghĩa thông
thường, quyền tài phán là quyền xử lý, xét xử đối với các hành vi vi phạm.
Trong giải quyết TCTM, hình thức này bao gồm trọng tài thương mại và toà
án.Các hình thức không mang tính tài phán bao gồm hoà giải và thương
lượng.Khác với các hình thức mang tính tài phán, các hình thức này đề cao sự tự
nguyện, tinh thần thiện chí của các bên. Quyết định trong hoà giải và thương
lượng không mang tính bắt buộc thi hành. Các bên có thể tự do áp dụng hoặc
khước từ. Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận hay sự nhất trí thì họ có
thể tiếp tục lựa chọn phương thức giải quyết mang tính tài phán [27].
Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại. Cùng với
sự phát triển của kinh tế, tính đa đạng và phức tạp trong quan hệ thương mại
làm cho TCTM cũng trở nên phức tạp về nội dung, gay gắt về mức độ tranh
chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại xuất phát từ lợi nhuận của các
bên và sự hấp dẫn của nền kinh tế, việc giải quyết tranh chấp là hết sức quan
trọng và cần thiết, thể hiện qua một số điểm sau:
Thứ nhất, đảm bảo việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng kịp thời,
chính xác, nghiêm minh, đúng pháp luật. Giải quyết tốt tranh chấp là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Muốn có một nền kinh tế phát triển thì
các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ kinh tế thương mại nói riêng phải


12

được điều chỉnh bằng pháp luật, phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên
là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng cách đặt ra các chế định và chế
tài tạo thành một “sân chơi” lành mạnh và công bằng. Khi tranh chấp xảy ra
phải có các thủ tục, biện pháp để giải quyết nếu không giải quyết kịp thời thì
hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và thiệt hại rất lớn. Điều đó không những làm thiệt
hại kìm hãm phát triển nền kinh tế mà còn gây nên một khiếm điểm lớn của
môi trường kinh doanh các chủ thể sau tranh chấp có thể quay lưng lại với

nhau đố kị và không tin tưởng lẫn nhau. Một tâm lí yên tâm làm ăn kinh tế,
mạnh dạn đầu tư sẽ góp phần cải thiện nền kinh tế.
Thứ hai, việc giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực
kì quan trọng trong việc quản lí xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn
cho các doanh nghiệp, vừa góp phần tạo môi trường pháp lí có kỷ cương.
Trong sản xuất kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng
cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Thực hiện sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
Thứ ba, đảm bảo các cho các phán quyết của Toà án được thực thi một
cách nghiêm chỉnh đúng pháp luật. Đồng thời, bảo đảm đến mức tối đa sự
gián đoạn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể tranh chấp.
1.1.4. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại
Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát
sinh tranh chấp. Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh
doanh, vì vậy giải quyết các tranh chấp phát sinh được coi là tự thân của các
quan hệ kinh tế. Ở góc độ khái quát chung, giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa
các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng
về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được.
Thực tế cho thấy, dù có là tranh chấp gì đi chăng nữa thì vì sự công
bằng và hiệu quả kinh tế mà cần thiết phải có một cơ chế để giải quyết tranh
chấp. Có nhiều cách thức khác nhau để giải quyết tranh chấp. tùy thuộc vào


13

phong tục tập quán, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà mỗi
quốc gia trên thế giới có các chế chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
rất khác nhau. Tuy nhiên, dù các phương thức giải quyết tranh chấp có khác
nhau nhưng tựu chung lại, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo được

những yêu cầu nhất định, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong
quan hệ thương mại làm cho TCTM cũng trở lên phức tạp về nội dung, gay
gắt về mức độ tranh chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại xuất phát từ
lợi nhuận của các bên và sự hấp dẫn của nền kinh tế, việc giải quyết tranh
chấp là hết sức quan trong và cần thiết. Giải quyết tranh chấp kinh doanh
trong điều kiện kinh tế thị trường phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc giải quyết nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế,
cản trở các hoạt động kinh doanh, loại trừ những rủi ro từ tác động của thị
trường. Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép
hạn chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt
ở mức chi phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu
quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh tế,
thương mại. Tính hiệu quả được xét ở hai góc độ hiệu quả chuyên môn và
hiệu quả kinh tế. Muốn vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh
chấp nào cũng phải tuân thủ các nguyên tắc giải quyết nhất định.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp giúp khôi phục và duy trì các quan
hệ hợp tác tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh. Trong hợp tác kinh
doanh, không doanh nghiệp nào mong muốn xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp.
Do đó, khi xảy ra tranh chấp, các bên đều mong muốn giải quyết thỏa đáng và
tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác đó. Bởi việc tìm được một đối tác hợp lý, thỏa
thuận, ký kết hợp đồng và đi đến thực hiện là cả một quá trình dài và tốn kém.
Do đó, yêu cầu khi giải quyết tranh chấp nhanh gọn, đảm bảo khôi phục và
duy trì được quan hệ hợp tác giữa các bên là yêu cầu quan trọng, thể hiện sự
tiến bộ và cần thiết của cơ chế giải quyết tranh chấp.


14

Thứ ba, Việc giải quyết tranh chấp phải giữ được bí mật kinh doanh, uy

tín của các bên trên thương trường. Điều quan trọng trong giải quyết TCTM đó
là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên
khi tham gia vào kinh tế thương mại. Việc bảo đảm giữ được bí mật kinh doanh
cũng như uy tín của các bên trên thương trường khi giải quyết tranh chấp là một
trong những lợi ích chính đáng mà doanh nghiệp cần được bảo vệ. Không thể chỉ
vì một tranh chấp khi mang ra giải quyết lại làm ảnh hưởng đến bí mật và uy tín
của doanh nghiệp, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về sau.
Thứ tư, Việc giải quyết tranh chấp phải có chi phí hợp lý về thời gian,
cơ hội và chi phí về tiền bạc. Mỗi bên đều có quyền cân nhắc, so sánh những
cái được và những chi phí phải bỏ ra để giải quyết tranh chấp, lợi ích kinh tế
và sự ổn định quan hệ kinh doanh để từ đó lựa chọn phương thức và đưa ra
yêu cầu giải quyết tranh chấp [29].
Thực tế cho thấy, các phương thức giải quyết tranh chấp hiện nay mới
chỉ đáp ứng được một hoặc một số yêu cầu đặt ra trên đây. Do đó, tùy thuộc
vào sự cân nhắc của các bên trong tranh chấp mà họ sẽ lựa chọn cho mình
phương thức giải quyết phù hợp nhất, hạn chê tối đa những rủi ro có thể xảy
ra cho doanh nghiệp của mình.
1.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
1.2.1. Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các
bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát
sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của
bất kì bên thứ ba nào. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng
được thực hiện bởi cơ chế tự các bên thỏa thuận để tìm kiếm giải pháp trên
tinh thần tự nguyện.Trong quá trình thương lượng giữa các bên cũng không
chịu sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang
tính khuôn mẫu nào của Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Do đó, bên
tranh chấp cũng phải tự nguyện thi hành phương án thương lượng đã lựa chọn



15

mà không có bất kì cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa
thuận của các bên trong quá trình thương lượng.
Giải quyết TCTM bằng thương lượng không bắt buộc phải tuân theo
một thủ tục pháp lý nào, do đó quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra đơn
giản, nhanh chóng gọn nhẹ cả về mặt thời gian và tiền bạc. Với cơ chế giải
quyết nội bộ, nên uy tín cũng như bí mật kinh doanh được bảo đảm tối đa và
mức độ phương hại đến mối quan hệ hợp tác giữa các bên cũng thấp.
Bên cạnh những ưu điểm, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng cũng có
những hạn chế nhất định: Việc giải quyết tranh chấp có thể gặp khó khăn nếu các
bên không có sự nhận thức đầy đủ và đúng đắn các quy định của pháp luật hoặc
không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu thiện chí trong quá trình thương lượng thi
khả năng thành công của cuộc thương lượng là rất thấp. Phương án thỏa thuận mà
các bên đạt được không mang tính cưỡng chế thi hành với các bên. Nếu một bên
không tự nguyện thi hành thì kết quả thương lượng cũng không đạt được trên thực
tế.Trong nhiều trường hợp, một bên thiếu thiện chí thường lợi dụng thương lượng
để trì hoãn thời gian, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vục của mình, nhất là trong
các trường hợp thời hiệu khởi kiện không còn nhiều [2; tr.5].
1.2.2. Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ
ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các
giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh. Hòa giải khác với phương thức
thương lượng ở sự có mặt của bên thứ ba (hòa giải viên) và cũng khác với phương
thức trọng tài ở chỗ, hòa giải viên không có quyền xét xử và ra phán quyết như
trọng tài viên. Vai trò của hòa giải viên trong quá trình hòa giải chỉ dừng lại ở việc
khuyến khích và trợ giúp các bên tìm ra một giải pháp mang tính thực tế mà tất cả
các bên liên quan đều có thể chấp nhận sau khi xem xét, nghiên cứu những lợi ích
và nhu cầu của họ. Tùy thuộc nội dung, tính chất của vụ tranh chấp và sự thỏa
thuận của các bên, số lượng hòa giải viên có thể là một hoặc nhiều.



16

Phương pháp hòa giải có những ưu điểm của phương pháp thương
lượng. Bên cạnh đó, hòa giải còn một ưu điểm quan trọng, cũng là sự khác
biệt so với thương lượng, đó là sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa
giải, sự hỗ trợ của bên thứ ba trung gian hòa giải với uy tín và kiến thức sâu
pháp luật sâu rộng của mình sẽ giúp các bên tranh chấp dễ dàng tìm được
tiếng nói chung, dễ dàng đạt được thỏa thuận hơn. Ngoài ra, kết quả hòa giải
được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên mức độ tôn trọng và tự
nguyện tuân thủ các cam kết, thỏa thuận đã đạt được của các bên trong quá
trình hòa giải cũng cao hơn so với phương thức thương lượng.
Phương pháp hòa giải có những hạn chế như phương pháp thương lượng.
Và ngoài ra, phương pháp này còn có thêm những hạn chế như chi phí cho quá
trình giải quyết tranh chấp qua trung gian hòa giải tốn kém hơn thương lượng, vì
các bên phải trả một khoản phí dịch vụ cho bên thứ ba làm trung gian. Ngoài ra,
trong quá trình hòa giải, các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin cho bên thứ ba
vê hoạt động kinh doanh có liên quan nên uy tín cũng như bí mật kinh doanh của
mỗi bên dễ bị ảnh hưởng hơn phương thức thương lượng [2;tr.7].
1.2.3. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi
chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các TCTM. Trọng
tài chính là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp chọn ra để giúp các
bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự
định đoạt của các bên. Phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của
các bên trên cơ sở tự nguyện. Để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết, các bên
phải có thỏa thuận trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá giống với
phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Cả hai phương thức này đều
có sự xuất hiện của người thứ ba. Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải, vai trò

của người thứ ba chỉ mang tính hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau.
Còn trong phương thức Trọng tài, sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa
ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.


17

Giải quyết các TCTM bằng con đường Trọng tài có nhiều ưu điểm: Thủ
tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng; các bên tranh chấp có khả năng tác động
đến quá trình trọng tài; khả năng chỉ định trọng tài viên giúp các bên lựa chọn
được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang
tranh chấp, qua đó có điều kiện giải quyết tranh chấp hợp đồng nhanh chóng,
chính xác; nguyên tắc trọng tài không công khai giúp các bên hạn chế sự tiết
lộ các bí mật kinh doanh, giữ được uy tín của các bên trên thương trường;
trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của Nhà nước nên rất phù hợp
để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng có thể có một
số hạn chế nhất định: Trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của Nhà
nước nên có thể gặp khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp như xác
minh, thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…[1;tr.6-10].
1.2.4. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ
và bản án hay quyết định của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự
nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước.
Nếu như việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mang đặc điểm tôn
trọng quyền thỏa thuận hay ý chí của các bên tham gia để đưa ra phán quyết
thì đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là thông
qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực nhà nước để đưa
ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng

chế. Nhờ đó, việc giải quyết TCTM thông qua Tòa án còn trực tiếp góp phần
vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh doanh.
Thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án thường dài hơn so với giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Hơn nữa, nguyên tắc xét xử công khai tại Tòa
án không phù hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh và tâm lý của giới
doanh nghiệp (có thể làm sút giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ các


18

bí mật kinh doanh…). Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà
các bên có quyền kháng cáo khiếu nại nên thời gian kéo dài [3].
1.3. Khái quát về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án
1.3.1. Khái niệm và lịch sử hình thành
Chế định Toà kinh tế là một khái niệm mới xuất hiện trong hệ thống tư
pháp Việt Nam kể từ năm 1994. Trước đó để giải quyết các tranh chấp kinh tế
pháp luật Việt Nam có một hệ thống thiết chế riêng là “trọng tài kinh tế”. Khó
có thể biết chính xác phương thức Trọng tài xuất hiện từ khi nào nhưng có thể
khẳng định đây chính là hình thức tiền thân của việc hình thành các Toà án
sau này. Toà Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để giải
quyết bất hoà giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy
Lạp và La Mã cổ đại đã biết sử dụng phương thức này để giải quyết tranh
chấp. Quá trình sơ khai về Trọng tài trong luật mua bán hàng hoá cho phép
các lái buôn được tự phân xử bất hoà của mình mà không cần có sự can thiệp
của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp,
không chỉ trong biên giới lãnh thổ mà còn ở những nước La Mã có trao đổi
hàng hoá, nghĩa là trải rộng trên hầu hết lục địa châu Âu.
Trong hệ thống pháp luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về Trọng
tài phải kể đến là Luật Trọng tài năm 1697 nhưng vào thời điểm luật được
thông qua, đây đã là một phương thức rất phổ biến (phán quyết đầu tiên của

trọng tài ở Anh được đưa ra vào năm 1610). Tuy nhiên các quy định sơ khai
về Trọng tài trong hệ thống luật common law thể hiện một hạn chế cơ bản là
bất cứ bên tham gia tranh chấp nào cũng có thể khước từ việc thực hiện phán
quyết của trọng tài nếu thấy phán quyết đó bất lợi cho mình. Hạn chế này đã
được khắc phuc trong Luật năm 1697.
Trong Hiệp ước Jay năm 1794 Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn
đề còn đang tranh chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết
ở trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp này kéo dài 7 năm và được coi là kết
thúc thành công. Từ đầu thế kỷ XX các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt


×