Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hoàn thiện pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển bền vững tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.09 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SITTHIDETH LATTANNAMANY

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VÌ MỤC TIÊU
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI NƯỚC CHDCND LÀO

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ĐÌNH VINH

HÀ NỘI- 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học TS. Lê Đình Vinh, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo
và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.


Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Sitthideth LATTANNAMANY


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Sitthideth LATTANNAMANY


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

PTBV

: Phát triển bền vững



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ
PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ............................. 6

1.1. Khái niệm và yêu cầu của phát triển bền vững ................................ 6
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững ...................................................... 6
1.1.2. Mục đích và yêu cầu của phát triển bền vững ............................... 8
1.2. Pháp luật đầu tư trong mối liên hệ với phát triển bền vững ......... 11
1.2.1. Khái niệm đầu tư ........................................................................ 11
1.2.2. Mối liên hệ giữa pháp luật đầu tư và phát triển bền vững ............ 12
1.2.3. Các đảm bảo của pháp luật đầu tư với phát triển bền vững ......... 15
1.3. Kinh nghiệm pháp luật đầu tư của các quốc gia trên thế giới vì
mục tiêu phát triển bền vững ................................................................. 18
1.3.1. Kinh nghiệm của pháp luật đầu tư Singapore .............................. 18
1.3.2. Kinh nghiệm của pháp luật đầu tư Việt Nam .............................. 20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 24

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG TẠI NƯỚC CHDCND LÀO .......................................................... 26

2.1. Nội dung pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển bền vững tại
nước CHDCND Lào ............................................................................... 26
2.1.1. Các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư vì
mục tiêu phát triển bền vững ................................................................ 26
2.1.2. Các quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực
đầu tư ................................................................................................... 37
2.2. Thành tựu và hạn chế của các quy định pháp luật đầu tư nhằm

phát triển bền vững ................................................................................ 44
2.2.1. Những thành tựu của pháp luật đầu tư nhằm mục tiêu phát triển
bền vững............................................................................................... 44


2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của pháp luật đầu tư nhằm mục
tiêu phát triển bền vững ........................................................................ 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 57

CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU
TƯ VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI NƯỚC CHDCND LÀO......... 58

3.1. Quan điểm về phát triển bền vững và hoàn thiện pháp luật đầu tư
vì mục tiêu phát triển bền vững tại CHDCND Lào .............................. 58
3.1.1. Quan điểm về phát triển bền vững .............................................. 58
3.1.2. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển bền
vững ..................................................................................................... 59
3.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư vì mục
tiêu phát triển bền vững ......................................................................... 61
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển
bền vững............................................................................................... 61
3.2.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển
bền vững............................................................................................... 62
KẾT LUẬN.................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 71


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, PTBV là một đòi hỏi tất yếu của hầu hết các
quốc gia trên thế giới và CHDCND Lào không phải là một ngoại lệ. Khi vấn
đề PTBV trở nên thực sự là mối quan tâm đặc biệt, một vấn đề sống còn trong
chính sách phát triển của các quốc gia thì Đảng, Nhà nước và Chính phủ nước
CHDCND Lào cũng có những cách tiếp cận về quan điểm PTBV phù hợp với
điều kiện của nước CHDCND Lào. Quan điểm về PTBV được đề cập lần đầu
tiên trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng nhân dân cách mạng Lào
tháng 3 năm 2006. Sau đó, quan điểm PTBV đã được thể chế hóa trong nhiều
văn kiện của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Lào. Để thực hiện
mục tiêu PTBV trên cả ba trụ cột là tăng trưởng về kinh tế, giải quyết các vấn
đề xã hội và bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước Lào coi pháp luật là một
trong những công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu nói trên, trong đó
có việc lồng ghép các yêu cầu PTBV vào pháp luật đầu tư.
Tăng trưởng về kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường luôn gắn bó mật thiết với các hoạt động đầu tư. Do vậy, việc bảo đảm
các yêu cầu PTBV của các hoạt động đầu tư luôn nằm trong tổng thể về
PTBV. Các hoạt động đầu tư nếu không bảo đảm các yêu cầu về PTBV sẽ tác
động tiêu cực đến cả ba trụ cột của PTBV, trong đó hậu quả lớn nhất là sức
khỏe của cộng đồng và vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Nước CHDCND Lào là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú. Tuy nhiên, nếu các hoạt động đầu tư không bảo đảm các yêu cầu
về PTBV, pháp luật đầu tư không vì mục tiêu PTBV sẽ kiến tình trạng cạn
kiệt về tài nguyên, suy thoái môi trường diễn ra nhanh chóng. Sự đánh đổi
giữa tăng trưởng kinh tế nhanh để sớm thoát khỏi tình trạng kinh tế kém phát
triển với sức khỏe của người dân và ô nhiễm môi trường đang là một thách
thức lớn. Do vậy, pháp luật nói chung và pháp luật đầu tư nói riêng của nước



2

CHDCND Lào phải thể hiện được vai trò định hướng, vai trò lồng ghép các
yêu cầu PTBV trong hoạt động đầu tư, vừa đảm bảo sự tăng trưởng nhanh về
kinh tế, vừa giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Để
làm được điều này, hệ thống các quy định của pháp luật đầu tư vì mục tiêu
PTBV cần phải được rà soát, đánh giá một cách toàn diện, chỉ ra những tồn
tại, bất cập và đưa ra những giải pháp hoàn thiện trong điều kiện kinh tế- xã
hội của nước CHDCND Lào trên cơ sở kế thừa các kinh nghiệm quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài: “Hoàn
thiện pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển bền vững tại nước CHDCND
Lào” để nghiên cứu và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học tại
Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy PTBV là một vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay nhưng vẫn là
một chủ đề chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Dưới góc độ pháp lý, vấn đề hoàn thiện pháp luật nói chung và và hoàn thiệnp
háp luật đầu tư nói riêng vì mục tiêu PTBV lại càng là một chủ đề mới mẻ.
Ở Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu vấn đề PTBV dưới góc
độ pháp lý như sau:
1. Bộ Tư pháp, “Đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong hoạt động
xây dựng pháp luật- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đề tài NCKH cấp
Bộ năm 2008, Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Nguyễn Văn Động;
2. Nguyễn Văn Động, “Cách thức xác định các yếu tố phát triển bền
vững của pháp luật và lồng ghép chung vào quá trình xây dựng pháp luật”,
Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 5/2010;
3. Bộ Tư pháp, “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật đảm bảo lồng ghép
yêu cầu phát triển bền vững trong các dự án đầu tư”, Đề tài NCKH cấp Bộ
năm 2012, Chủ nhiệm đề tài: GS.TS. Lê Hồng Hạnh.
Từ các công trình nghiên cứu khoa học kể trên, có thể rút ra một số

nhận xét sau đây:


3

- Thứ nhất, các công trình nghiên cứu này là những công trình nghiên
cứu pháp lý về PTBV nhưng ở phương diện nghiên cứu tổng thể về pháp luật
trong việc lồng ghép các yêu cầu PTBV vào pháp luật nói chung hoặc cách
thức lồng ghép các yêu cầu PTBV vào pháp luật, chứ đi sâu vào khía cạnh
lồng ghép các yêu cầu PTBV vào pháp luật đầu tư.
- Thứ hai, các công trình này chỉ nghiên cứu về lồng ghép các yêu cầu
PTBV vào pháp luật ở Việt Nam chứ ít đề cập đến kinh nghiệm của các nước.
Do vậy, kết quả nghiên cứu của các đề tài này chỉ có tính chất tham khảo chứ
không áp dụng được cho việc lồng ghép các yêu cầu PTBV vào pháp luật đầu
tư của nước CHDCND Lào.
Ở nước CHDCND Lào cũng đã có một số công trình nghiên cứu về
lồng ghép PTBV vào xây dựng pháp luật sau đây:
1. Viện nghiên cứu pháp luật- Bộ Tư pháp nước CHDCND Lào, “Sự
cần thiết trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật vì mục tiêu phát triển bền
vững ở nước CHDCND Lào”, Đề tài NCKH cấp Bộ năm 2010, Chủ nhiệm đề
tài: Phimmason Saysomvath.
2. Tổ chức phát triển Nhật Bản (JICA), “Báo cáo rà soát hệ thống
pháp luật vì mục tiêu PTBV tại nước CHDCND Lào”, Viêng Chăn, tháng
12/2011.
Từ các công trình nghiên cứu khoa học trên, có thể rút ra một số nhận
xét sau đây:
- Thứ nhất, đây là các công trình nghiên cứu pháp lý có tính tổng thể
với phạm vi nghiên cứu là toàn bộ hệ thống pháp luật của nước CHDCND
Lào vì mục tiêu PTBV.
- Thứ hai, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về hoàn thiện

pháp luật đầu tư vì mục tiêu PTBV tại nước CHDCND Lào.
Do đó, đề tài mà tác giả lựa chọn nghiên cứu trong luận văn này không
chỉ có tính cá biệt, tính mới mẻ mà còn thể hiện tính thời sự rất cao khi thực


4

trạng đầu tư bất chấp những yêu cầu về PTBV đang diễn ra phổ biến ở nước
CHDCND Lào hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu tổng quát của đề tài là
nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật đầu tư vì
mục tiêu PTBV tại nước CHDCND Lào. Cụ thể: (i) Xác định vai trò của pháp
luật đầu tư với các yêu cầu PTBV; các yêu cầu của PTBV; kinh nghiệm quốc
tế về lồng ghép các yêu cầu PTBV vào pháp luật đầu tư. (ii) Tìm hiểu, đánh
giá các quy định pháp luật đầu tư hiện hành của nước CHDCND Lào vì mục
tiêu PTBV. (iii) Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư vì mục tiêu
PTBV tại nước CHDCND Lào.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là giải quyết
những vấn đề lý luận về PTBV, tìm hiểu thực trạng và đánh giá thực trạng
pháp luật đầu tư vì mục tiêu PTBV để qua đó đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật đầu tư vì mục tiêu PTBV tại nước CHDCND Lào.
* Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định
pháp luật đầu tư hiện hành của nước CHDCND Lào thể hiện mục tiêu PTBV.
Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu nội dung pháp luật đầu tư vì mục tiêu
PTBV của một số quốc gia như Việt Nam, Singapore,.v.v…
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau đây: (i) Cơ sở lý luận là Chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mác- Lênin; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước Lào. (ii) Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: Phương pháp
phân tích được sử dụng để phân tích các vấn đề lý luận về PTBV, vai trò của
pháp luật đầu tư với PTBV; Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh
các quy định của pháp luật đầu tư nước CHDCND Lào vì mục tiêu PTBV với
các quy định tương ứng của pháp luật các nước trên thế giới như Việt Nam,
Singapore; Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các kết quả


5

nghiên cứu, kết quả đánh giá thực trạng pháp luật đầu tư của nước CHDCND
Lào vì mục tiêu PTBV.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn khi hoàn thành sẽ đóng góp những giá trị sau đây cho nghiên
cứu khoa học nói chung và nghiên cứu khoa học pháp lý nói riêng: (i) Lý luận
về PTBV, vai trò của pháp luật đầu tư trong việc bảo đảm lồng ghép các yêu
cầu PTBV; (ii) Từ việc đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật và chỉ ra
những điểm hạn chế, bất cập, luận văn sẽ đề xuất các giải pháp để cơ quan có
thẩm quyền của nước CHDCND Lào tham khảo nhằm hoàn thiện pháp luật
đầu tư hiện hành vì mục tiêu PTBV. (iii) Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp
những kiến thức lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho những đề tài nghiên cứu
sau trong cùng lĩnh vực.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài, Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia thành 03 chương như sau:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững và
pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển bền vững;
- Chương 2. Thực trạng pháp luật đầu tư vì mục tiêu phát triển bền
vững tại nước CHDCND Lào;
- Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư vì

mục tiêu phát triển bền vững tại nước CHDCND Lào.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm và yêu cầu của phát triển bền vững
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Quan điểm về PTBV được ra đời trong bối cảnh nhân loại nhận thức
ngày càng rõ hơn về mâu thuẫn giữa sự phát triển kinh tế với các vấn đề xã
hội và môi trường. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, đặc biệt là
từ khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, loài người đã phải đánh đổi sự phát
triển kinh tế bằng các vấn đề xã hội như tình trạng nghèo đói, bất công và ô
nhiễm môi trường. Khi mối mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt thì con
người buộc phải có ý thức tìm kiếm những giải pháp để dung hòa. Các tài liệu
lịch sử đã cho thấy việc tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết hài hòa mâu
thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội và môi trường đã diễn ra
khá sớm. Những năm 60 của thế kỷ XX các cuộc thảo luận của Câu lạc bộ
Roma đã dẫn đến các diễn đàn thảo luận và hình thành các tư tưởng về PTBV.
Năm 1972, tại Xtốckhôm (Thụy Điển) Hội nghị lần thứ nhất về môi trường
của Liên hợp quốc đã đưa ra Tuyên ngôn, trong đó nêu nổi bật mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là văn bản pháp lý quốc tế
đầu tiên đề cập đến vấn đề này [4, tr.17-18]. Một nội dung quan trọng của
Tuyên ngôn này là đã khái quát và mô phỏng hóa quá trình tăng trưởng toàn
cầu từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, từ tăng
trưởng về lượng sang tăng trưởng về chất.
Tiếp đó, vào khoảng giữa những năm 70 của thế kỷ XX, Chương trình Môi
trường của Liên hợp quốc đã sử dụng thêm những khái niệm mới như: “phát triển

không phá hủy”, “phát triển sinh thái”… với nội dung cơ bản là phát triển nhung
không phá vỡ sự cân bằng sinh thái, phát triển trong trạng thái giảm nhẹ tác động
xấu vào môi trường tự nhiên [4, tr.18]. Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, thuật
ngữ PTBV lần đầu tiên được sử dụng trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn thế


7

giới” do Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên Quốc tế công bố.
Tuy nhiên, thuật ngữ PTBV trong văn kiện này được diễn giải rất đơn giản, đó là
“Sự phát triển của nhân loại không thể chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn
phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường
sinh thái học” [4, tr.18].
Khái niệm PTBV tiếp tục được hoàn thiện và sử dụng khá nhiều trong Báo
cáo Brundrland của Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) năm 1987.
Theo Báo cáo này thì, PTBV được hiểu là: “Sự phát triển có thể đáp ứng được
những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai…” [2, tr.5]. Hay nói cách khác, thì sự kết
hợp giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường một cách hài
hòa, hợp lý sẽ tạo ra sự PTBV. Nếu như, việc phát triển kinh tế- xã hội là nhằm
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại, thì bảo vệ môi trường là yếu tố ảnh hưởng
quyết định đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai vì sự tồn tại và
phát triển con người không thể tách rời môi trường và xã hội.
Kể từ đó trở đi, khái niệm PTBV ngày càng được hoàn thiện về nội hàm,
được sử dụng phổ biến và trở thành kim chỉ nam cho các quốc gia trong việc
hoạch định chiến lược phát triển của mình. Cho đến nay, mặc dù chưa có một
định nghĩa thống nhất trên phạm vi toàn cầu nhưng khái niệm PTBV được nhận
thức với nội hàm là sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Nói cách khác, bản chất của PTBV là bảo
đảm quyền phát triển của các quốc gia, cộng đồng trong mối liên hệ tổng hòa với

sự duy trì và phát triển các giá trị xã hội và bảo vệ môi trường.
Ở Việt Nam, chủ đề PTBV cũng đã nhận được sự quan tâm đáng kể của
giới nghiên cứu và những nhà hoạch định chính sách, pháp luật. Quan niệm về
PTBV ở Việt Nam thường được tiếp cận từ hai khía cạnh: (i) PTBV là phát triển
dựa trên nền tảng duy trì những giá trị xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, coi
đây là những giá trị cao nhất cần hướng tới của sự phát triển. (ii) PTBV là sự


8

phát triển dài hạn, cho hôm nay và mai sau; phát triển hôm nay không làm ảnh
hưởng đến các thế hệ mai sau [8, tr.19].
Trong mục 4 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam, PTBV được
định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ
tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hóa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu
bật những yêu cầu và mục tiêu quan trọng nhất của PTBV, phù hợp với tình hình
thực tế của Việt Nam.
Ở nước CHDCND Lào, nghiên cứu về PTBV chưa thực sự được đặt ra
cấp thiết trong thời gian qua. Điều này được thể hiện ở chỗ trong các văn bản
pháp lý, đặc biệt là Luật Môi trường năm 1999 chưa đề cập đến khái niệm
PTBV. Tuy nhiên, nước CHDCND Lào đã trở thành thành viên chính thức của
Ủy ban Môi trường và Phát triển quốc tế (WCED), do đó Lào đã thừa nhận khái
niệm về PTBV của WCED được đưa ra trong báo cáo Brundrland năm 1987.
Tựu chung lại, quan điểm về PTBV của thế giới cũng như tại các quốc gia
như Việt Nam, Lào,… đặt sự phát triển trong mối quan hệ tổng hòa giữa yếu tố
kinh tế, văn hóa- xã hội và môi trường. Phát triển kinh tế không được hủy hoại
các giá trị văn hóa, tạo ra sự bất công xã hội, gia tăng cách biệt giàu nghèo và tàn
phá môi trường. Các chính sách phát triển phải được thiết kế trong tầm nhìn tổng

thể, dài hạn, có tính đến đến các khía cạnh kinh tế, văn hóa- xã hội và môi
trường, sao cho sự phát triển của ngày hôm nay phải là tiền đề cho sự phát triển
của ngày mai, chứ không phải là sự tàn phá, hủy hoại văn hóa- xã hội và môi
trường hậu quả của nó thế hệ tương lai phải gánh chịu.
1.1.2. Mục đích và yêu cầu của phát triển bền vững
1.1.2.1. Mục đích
Nội dung chủ yếu của PTBV là nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa phát
triển kinh tế với các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Để đạt được nội
dung này, thì PTBV phải được thực hiện nhằm các mục đích sau đây:


9

Thứ nhất, PTBV phải nhằm thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu về vật chất và
tinh thần của người dân; sự bình đẳng của công dân và sự đồng thuận của xã
hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên [4, tr.19];
Thứ hai, PTBV là đáp ứng yêu cầu của các thế hệ hiện tại nhưng không
gây ra những cản trở cho việc đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu của các thế hệ
tương lai trên cả ba phương diện là kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể:
- Bền vững về kinh tế. Một nền kinh tế được coi là bền vững khi nó thỏa
mãn các yếu tố sau:
+ Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Các nước phát
triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng ổn định, Các nước
đang phát triển và nước nghèo có thu nhập thấp và trung bình thì càng phải
tăng trưởng ở tốc độ cao. Theo tính toán, các nước đang phát triển trong điều
kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem
là có sự PTBV về kinh tế [2, tr.6-7].
+ Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu
người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
+ Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công

nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trường mới có thể
được xem là bền vững.
+ Tăng trưởng kinh tế là sự tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
- Bền vững về xã hội. Tính bền vững của về phát triển xã hội ở mỗi quốc
gia được đánh gia bằng các chỉ tiêu, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ
tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về
xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng
trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không cao quá và có
xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn [2, tr.7].
- Bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,…đểu


10

tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự
nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng
môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch
về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan... Chất lượng của các yếu
tố trên luôn được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo
những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế [2, tr.7].
1.1.2.1. Yêu cầu
Để đạt được những mục đích của PTBV, thì các chủ thể có trách nhiệm
thực hiện các hoạt động liên quan đến PTBV phải thực hiện các yêu cầu nhất
định. PTBV đòi hỏi sự tham gia và phối hợp của rất nhiều chủ thể trên diện rộng.
Cụ thể là: Cộng đồng quốc tế, quốc gia, các nhà đầu tư (pháp nhân) và cộng
đồng dân cư.
- Đối với cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế phải xây dựng và tổ chức
kí kết các điều ước quốc tế; tổ chức các hội nghị, diễn đàn về phát triển kinh tế,

xã hội và môi trường nhằm tạo ra những cơ sở pháp lý, sự đồng thuận, liên kết
giữa các quốc gia và các chủ thể khác trong PTBV [4, tr.20].
- Đối với quốc gia. Với vị trí, chức năng và vai trò của mình Nhà nước
phải xây dựng chính sách; xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội; bảo vệ môi trường nhằm
mục tiêu PTBV. Để đạt được mục tiêu PTBV thì vai trò của quốc gia là rất lớn,
bởi chỉ có Nhà nước mới có đủ thẩm quyền, khả năng để thực hiện một cách
hiệu quả các mục tiêu của PTBV [4, tr.20].
- Đối với các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động phát triển. Đây là
nhóm chủ thể trực tiếp tạo ra sự phát triển cũng như trực tiếp gây tác động xấu
đến môi trường. Để hoàn thành các mục tiêu PTBV, thì yêu cầu dành cho nhóm
chủ thể này là phải bảo đảm PTBV trong các hoạt động đầu tư từ khâu lập dự án,
tổ chức thực hiện và khai thác, sử dụng kết quả đầu tư. Trong quá trình đầu tư,
nhóm chủ thể này ngoài việc phải chú trọng đến bảo đảm lợi ích cho mình còn
phải chú trọng đến phát triển kinh tế- xã hội ở bình diện chung cũng như quan


11

tâm đến bảo vệ môi trường bằng việc đầu tư trang thiết bị kĩ thuật hiện đại, đánh
giá tác động môi trường trong quá trình đầu tư, tìm kiếm và loại trừ những hạn
chế, khắc phục những tiêu cực của sự phát triển trong khi thực hiện các hoạt
động đầu tư [4, tr.20-21].
- Đối với cộng đồng dân cư. Đây là nhóm chủ thể trực tiếp thụ hưởng
những giá trị của sự phát triển nhưng cũng đồng thời là chủ thể trực tiếp gánh
chịu những hậu quả của sự phát triển, đặc biệt là hậu quả ô nhiễm môi trường do
phát triển gây ra. Yêu cầu đối với PTBV của cộng đồng dân cư là phải tham gia
vào xây dựng, hoạch định, hoàn thiện chính sách, pháp luật về PTBV; thực hiện
quyền giám sát của mình trong quá trình PTBV thông qua các tổ chức đại diện
của mình như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Tổ chức đại diện người lao động,…

Bên cạnh đó, cộng đồng dân cư ở trong những trường hợp cụ thể sẽ phải tham
gia thực hiện các mục tiêu PTBV [4, tr.21].
1.2. Pháp luật đầu tư trong mối liên hệ với phát triển bền vững
1.2.1. Khái niệm đầu tư
Theo cách hiểu thông thường, đầu tư được hiểu là “sự hi sinh các
nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho
người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên
nhiên, là sức lao động và trí tuệ” [5, tr.16].
- Ở góc độ kinh tế, “hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng
mọi nguồn lực phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay
cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội” [9, tr.5].
- Ở góc độ pháp lý thì đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các
hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm
mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác [4, tr.10].
+ Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà
đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài
sản tiến hành các hoạt động đầu tư”.


12

+ Ở nước CHDCND Lào, khái niệm đầu tư được hiểu rất rộng. Pháp luật
nước CHDCND Lào chưa đưa ra khái niệm chính thức về đầu tư mà chỉ xây
dựng hai khái niệm là đầu tư nước ngoài trong Luật khuyến khích và quản lý đầu
tư nước ngoài năm 1998 và khái niệm đầu tư trong nước trong Luật khuyến
khích và quản lý đầu tư trong nước năm 2004.Từ hai khái niệm này, có thể định
nghĩa về đầu tư theo pháp luật nước CHDCND Lào như sau: Đầu tư là việc nhà
đầu tư bỏ ra chi phí ban đầu vào một đối tượng nào đó, được sử dụng một cách
có mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ đầu tư.

- Ở góc độ môi trường thì đầu tư là hoạt động của tổ chức, cá nhân sử
dụng các nguồn nhân lực và thông qua các hình thức đầu tư để tác động vào môi
trường, có thể là môi trường nước (đối với dự án thủy điện, thủy lợi), môi trường
đất (đối với dự án trồng trọt, chăn nuôi), môi trường không khí (đối với dự án có
lượng phát thải khí) hoặc tổng hợp các yếu tố môi trường nêu trên (như dự án
sản xuất) nhằm tạo ra sự phát triển. Mọi hoạt động đầu tư đều diễn ra trong một
điều kiện môi trường cụ thể [4, tr.10-11].
Như vậy, khái niệm đầu tư là một khái niệm có ngoại diên rộng, hoạt
động đầu tư tương đối đa dạng, có thể tiếp cận ở rất nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, khái niệm đầu tư luôn gắn liền với khái niệm phát triển, khái niệm bảo vệ
môi trường.
1.2.2. Mối liên hệ giữa pháp luật đầu tư và phát triển bền vững
Một đặc điểm dễ nhận thấy là các hoạt động đầu tư của chủ đầu tư luôn vì
mục đích lợi nhuận hoặc mục đích chính trị- xã hội. Để đạt được những mục
đích này, các hoạt động đầu tư luôn có những tác động nhiều chiều đến đời sống
kinh tế, xã hội và môi trường. Khi thực hiện các hoạt động đầu tư, nhà đầu tư chỉ
quan tâm đến lợi ích cá nhân hoặc lợi ích nhóm thì chắc chắn môi trường kinh
doanh, môi trường tự nhiên sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Do đó, vấn đề đặt ra đối
với các chủ đầu tư là phải đảm bảo PTBV khi thực hiện các hoạt động đầu tư vì
mục đích chung của cộng đồng. Trong đó phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề môi


13

trường, bởi đây là một trong ba trụ cột của PTBV gánh chịu nhiều hệ quả nhất
khi thực hiện các hoạt động đầu tư.
Các hoạt động đầu tư không đương nhiên tạo ra sự PTBV và thực tế là các
nhà đầu tư luôn sẵn sàng bỏ qua vấn đề bảo vệ môi trường khi thực hiện các dự
án đầu tư. Trong khi đó, PTBV là một yêu cầu tất yếu trong sự phát triển của
nhân loại và do vậy, việc ràng buộc trách nhiệm PTBV cho nhà đầu tư là một

yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, trong các công cụ quản lý thì chỉ có công cụ pháp
luật có tính ràng buộc cao nhất đối với các chủ thể của quan hệ đầu tư là cơ quan
nhà nước quản lý về đầu tư và chủ đầu tư.
Trong các công cụ quản lý có thể sử dụng để áp đặt yêu cầu và trách nhiệm
PTBV lên chủ đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, pháp luật được coi là
công cụ quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa quyết định vì các lý do sau đây:
- Thứ nhất, pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý cho sự quản lý của nhà nước,
cũng như tạo cơ sở pháp lý cho chủ thể tham gia vào hoạt động đầu tư. Mọi hoạt
động của các chủ thể tham gia vào các dự án đầu tư đều phải phù hợp với pháp
luật và hoạt động quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư cũng đều phải
phù hợp với các quy định pháp luật liên quan [4, tr.25].
- Thứ hai, tất cả các công cụ khác của Nhà nước như quy hoạch, chiến
lược, kế hoạch cũng đều phải được thế chế hóa thành pháp luật; các quy hoạch, kế
hoạch, chiến lược thường bao gồm những giải pháp có tính định hướng và có giá
trị ràng buộc thông qua văn bản pháp luật ban hành, tức là biến nó trở thành pháp
luật, pháp luật thể các nội dung như quy hoạch, chiến lược, chính sách của Nhà
nước bằng những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm cụ thể của các chủ thể. Chiến
lược, quy hoạch được xác định cho giai đoạn dài hoặc nhiều giai đoạn, tuy nhiên
tính ràng buộc của nó lại không cao, trong khi đó đặc trưng của pháp luật là tính
ràng buộc cao bằng những quy định cụ thể. Do đó, so với các công cụ khác, pháp
luật có vai trò rõ ràng và cụ thể hơn trong việc lồng ghép mục tiêu PTBV.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, việc tăng trưởng kinh tế không phải lúc nào cũng
đồng nghĩa với sự phát triển, chứ chưa nói là PTBV và các yêu phải bảo đảm


14

PTBV không phải lúc nào cũng được các nhà đầu tư quan tâm, vì đôi khi PTBV
sẽ mâu thuẫn với lợi ích của nhà đầu tư (để bảo đảm PTBV nhà đầu tư phải bỏ
vốn để bảo vệ môi trường xung quanh dự án đầu tư và phần vốn này không phát

sinh lợi nhuận cho chính nhà đầu tư đó). Việc ấn định nghĩa vụ phải bảo đảm
PTBV trong pháp luật là một trong những cách thức hiệu quả để nhà đầu tư phải
bảo đảm PTBV trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, để vai
trò của pháp luật với mục tiêu PTBV được thể hiện thì bản thân các quy định đó
phải có tính linh hoạt, năng động và liên tục thay đổi như để nhà đầu tư thực sự
quan tâm đến đầu tư công nghệ bảo vệ môi trường thì pháp luật phải có những
quy định liên quan đến lợi ích tài chính của nhà đầu tư khi đầu tư cho công nghệ
bảo vệ môi trường, đó là các quy định ưu đãi về thuế, ưu đãi về thuế nhập khẩu,…
Tuy nhiên, việc lồng ghép mục tiêu PTBV trong pháp luật nói chung và
pháp luật đầu tư nói riêng chỉ thực sự có hiệu quả thực tế khi có những quy định
pháp luật về nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể trong PTBV, bao gồm chủ
đầu tư, Nhà nước và cộng đồng dân cư. Do vậy, pháp luật phải thực sự trở thành
cơ sở nền tảng của PTBV. Chỉ trên cơ sở nền tảng pháp luật vững chắc, PTBV
mới có thể được đảm bảo.
Như vậy, có thể nhìn nhận vai trò của pháp luật trong việc lồng ghép các
mục tiêu PTBV trong thực hiện hoạt động đầu tư qua những khía cạnh mang
tính ưu thế của pháp luật sau:
- Thứ nhất, pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm PTBV
từ khâu xây dựng chiến lược, kế hoạch đến khâu tổ chức thực hiện. Đối với vấn đề
PTBV trong hoạt động đầu tư, pháp luật hầu hết các quốc gia đều có những quy
định cụ thể về vấn đề này. Đó là việc pháp luật xác định các yếu tố liên quan đến
PTBV cần quan tâm lồng ghép vào các giai đoạn thực hiện hoạt động đầu tư.
- Thứ hai, pháp luật điều chỉnh các hành vi, quá trình xã hội nhằm đạt
được các mục tiêu PTBV. Việc điều chỉnh hoạt động đầu tư bằng pháp luật
nhằm mục tiêu PTBV chính là quá trình chuyển các yêu cầu về PTBV thành các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và quá trình thực hiện các quy định đó. Quá


15


trình này diễn ra ở nhiều bước, thông qua các phương tiện, trình tự thủ tục được
pháp luật quy định và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế- xã hội,
chất lượng các quy phạm pháp luật, quy trình tổ chức thực hiện và ý thức pháp
luật của các chủ thể. Đối với PTBV, pháp luật tác động đến hành vi của chủ thể
ở hai phương diện: (i) Bảo đảm sự phát triển có kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa
giữa ba trụ cột: tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội; (ii)
Bảo đảm mục tiêu mà lĩnh vực trụ cột này cần đạt được để đảm bảo PTBV.
- Thứ ba, pháp luật tạo cơ chế pháp lý giải quyết các vấn đề nảy sinh trong
quá trình PTBV nói chung và trong các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư
phát triển. Pháp luật dự liệu các tình huống, vấn đề có thể xảy ra trong sự vận
động của xã hội, xác định các biện pháp, cách thức, trình tự, thủ tục giải quyết
nhằm ổn định các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực môi trường và xã hội.
- Thứ tư, pháp luật giữ vai trò định hướng sự phát triển các quan hệ xã hội
hướng tới sự PTBV. Sự ổn định của pháp luật đã hàm chứa yếu tố PTBV. Với
một dự án đầu tư, các quy định của pháp luật sẽ xác định rõ những yếu tố nào
cần lồng ghép, phải xử lý để đảm bảo PTBV.
Như vậy, so với các công cụ quản lý khác của Nhà nước thì pháp luật nói
chung và pháp luật đầu tư nói riêng là công cụ quan trọng, vượt trội trong việc
lồng ghép và thực hiện các mục tiêu PTBV.
1.2.3. Các đảm bảo của pháp luật đầu tư với phát triển bền vững
1.2.3.1. Các đảm bảo của pháp luật đầu tư liên quan đến các giai đoạn
của dự án đầu tư
Trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư, các yêu cầu liên quan đến
PTBV phải được đảm bảo. Một dự án đầu tư thông thường phải trải qua các giai
đoạn như: Lập dự án; triển khai dự án; vận hành, khai thác dự án. Giai đoạn lập
dự án chỉ là những ý tưởng, chuẩn bị các kế hoạch hay chỉ là những tính toán thì
yêu cầu đảm bảo PTBV cũng được đặt ra nhưng nó không cụ thể bằng giai đoạn
triển khai hay giai đoạn vận hành, khai thác dự án. Do vậy, để đảm bảo PTBV



16

đối với các hoạt động, dự án đầu tư, Nhà nước cần phải thiết lập những đảm bảo
của pháp luật cụ thể như sau:
- Giai đoạn trước khi triển khai dự án đầu tư. Đây được gọi là giai đoạn
tiền kiểm định, trước khi nhà đầu tư tiến hành triển khai dự án. Đây là giai đoạn
mà thực chất là kiểm tra các tài liệu về dự án có phù hợp với điều kiện kinh tếxã hội hiện tại cũng như các yêu cầu của PTBV hay không. Vai trò của giai đoạn
này là rất quan trọng, bởi nó sẽ loại bỏ ngay các nguy cơ ảnh hưởng đến PTBV.
Để đảm bảo những yêu cầu của PTBV trong giai đoạn này thì bên cạnh chuyên
môn của những người kiểm định, hiệu quả các công cụ kiểm soát khác thì pháp
luật phải xác định được những giới hạn pháp lý trong việc kiểm soát các hoạt
động đầu tư nhằm triệt tiêu những nguy cơ ảnh hưởng của nó đến việc PTBV
trước khi nó được thực hiện trên thực tế [4, tr.29-30].
- Giai đoạn triển khai dự án. Đây là giai đoạn mà các yếu tố PTBV sẽ
được thực hiện trên thực tế. Để những yêu tố đó được thực hiện một cách có
hiệu quả thì pháp luật cần phải có những ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với
nhà đầu tư trong việc thực thi các biện pháp đảm bảo PTBV [4, tr.30].
- Giai đoạn vận hành dự án (giai đoạn khai thác). Trong giai đoạn này,
các nhà đầu tư sẽ phải thực thi các nghĩa vụ pháp luật đã quy định nhằm tôn
trọng các quyền lợi kinh tế, xã hội và môi trường. Việc thực hiện các nghĩa vụ
này phải thường xuyên, liên tục thì các yêu cầu về PTBV mới được thực hiện có
hiệu quả. Và để nhà đầu tư thực hiện các nghĩa vụ PTBV một cách nghiêm túc,
pháp luật cần phải quy định trách nhiêm quản lý của cơ quan nhà nước và sự
giám sát của cộng đồng dân cư [4, tr.30-31].
1.2.3.2. Các đảm bảo của pháp luật đầu tư liên quan đến các chủ thể
tham gia hoặc liên quan đến dự án đầu tư
Trong hoạt động đầu tư có ba nhóm chủ thể cơ bản tham gia hoặc liên
quan đến các dự án đầu tư đó là: (i) Nhà đầu tư, (ii) Các cơ quan quản lý nhà
nước và (iii) Cộng đồng dân cư. Đối với các chủ thể này, pháp luật cũng cần có



17

những đảm bảo để các chủ thể này thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm PTBV
khi thực hiện các hoạt động đầu tư.
- Đối với các nhà đầu tư. Đây là nhóm chủ thể thực hiện các dự án đầu tư,
sử dụng các nguồn lực để hiện thực hóa các ý tưởng kinh doanh nhằm thu được
lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đó, trước khi quan tâm đến các lợi ích xã hội cũng
như bảo vệ môi trường. Vì vậy, để gắn các nhà đầu tư vào các mục tiêu PTBV,
pháp luật phải quy định trách nhiệm của họ đối với xã hội, đối với môi trường tự
nhiên trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư [4, tr.31].
- Đối với cộng đồng dân cư. Đây là nhóm chủ thể không trực tiếp triển
khai dự án, nhưng nhóm chủ thể này có mối liên hệ hết sức mật thiết với các
hoạt động đầu tư và các yêu cầu PTBV. Bởi lẽ: (i) Cộng đồng dân cư chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ các hoạt động đầu tư theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực;
(ii) Cộng đồng dân cư có thể là đối tượng hưởng lợi từ các hoạt động đầu tư đó
là các lợi ích về kinh tế, lợi ích về xã hội hoặc lợi ích về môi trường [4. tr.31].
Để đảm bảo PTBV thì cần phải tạo ra sự hài hòa về lợi ích giữa các chủ
đầu tư và cộng đồng dân cư nơi dự án được triển khai và khai thác. Để có thể
đảm bảo được sự hài hòa về lợi ích đó, cũng như phát huy vai trò của cộng đồng
dân cư trong đảm bảo PTBV thì pháp luật cần phải quy định chặt chẽ trách
nhiệm của các chủ đầu tư dự án đối với cộng đồng dân cư, cơ chế cần thiết để
phát huy vai trò và trách nhiệm của người dân địa phương.
- Đối với cơ quan nhà nước. Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
các cơ quan nhà nước là chủ thể giám sát, quản lý để đảm bảo cho các yêu cầu
về PTBV được thực thi trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư. Để làm
được điều đó, pháp luật cần phải quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình đầu tư, quy định các công cụ mới
mà cơ quan nhà nước được thực hiện để đảm bảo PTBV trong việc quản lý các
hoạt động đầu tư [4, tr.32].

Nói tóm lại, dưới góc độ chủ thể, để thực hiện các mục tiêu PTBV,
pháp luật đầu tư cần phải quy định đầy đủ các nội dung sau:


18

- Thứ nhất, quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ đầu tư trong thực
thi các yêu cầu, mục tiêu về PTBV khi triển khai các hoạt động đầu tư;
- Thứ hai, bảo đảm các lợi ích, đặc biệt là lợi ích về kinh tế và môi
trường cho cộng đồng dân cư cũng như phát huy vai trò giám sát của cộng
đồng dân cư đối với các hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo PTBV.
- Thứ ba, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá
trình quản lý các hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu PTBV.
1.3. Kinh nghiệm pháp luật đầu tư của các quốc gia trên thế giới vì
mục tiêu phát triển bền vững
Việc nghiên cứu pháp luật đầu tư của các quốc gia trên thế giới vì mục tiêu
PTBV của đề tài dựa trên các tiêu chí sự tương đồng về mục tiêu phát triển, điều
kiện địa lý, dân cư và các yếu tố khác của quốc gia đó với nước CHDCND Lào.
Do vậy, tác giả đã lựa chọn kinh nghiệm pháp luật đầu tư vì mục tiêu PTBV của
Singapore và Việt Nam, đây là những nước mà xét về trình độ phát triển kinh tếxã hội và pháp luật có thể là kinh nghiệm tốt để nước CHDCND Lào tham khảo.
1.3.1. Kinh nghiệm của pháp luật đầu tư Singapore
Singapore là một quốc gia nhỏ, không có nhiều tài nguyên thiên nhiên,
mức đô thị hóa cao, do đó vấn đề đầu tư được quốc gia này rất quan tâm. Tại
Singapore không có khái niệm pháp luật đầu tư chung như Việt Nam và Lào.
Khái niệm đầu tư được xây dựng ở các lĩnh vực, hình thức đầu tư. Pháp luật đầu
tư của Singapore được đánh giá là phát triển hàng đầu trong các quốc gia Đông
Nam Á, bởi lẽ, bên cạnh cách chế định truyền thống mà pháp luật đầu tư của các
quốc gia đều xây dựng như các chính sách đảm bảo và thu hút đầu tư, các hình
thức đầu tư,…thì pháp luật đầu tư của quốc gia này còn có các quy định về đảm
bảo PTBV, mà cụ thể là các quy định về hạn chế đầu tư, điều kiện đầu tư...nhằm

bảo đảm sự phát triển của Singapore trong một thời gian dài.
Ngay trong các quy định về đảm bảo và khuyến khích đầu tư của
Singapore cũng thể hiện rõ thể hiện rõ quan điểm PTBV. Cụ thể các chính sách
đảm bảo đầu tư bao gồm đảm bảo được đối xử bình đẳng, đảm bảo quyền sở hữu


19

tài sản hợp pháp, đảm bảo được chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp ra nước
ngoài, đảm bảo cơ chế giải quyết tranh chấp trong đầu tư,… Ở Singapore, pháp
luật không có sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, do vậy,
các nhà đầu tư đều bình đẳng với nhau. Trong quan hệ xuất nhập khẩu, chính
sách của quốc gia này là không biệt giữa các nhà đầu tư với nhau, do dù đó là
nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, các nhà đầu tư đều
được hưởng quyền tự do kinh doanh, tự do lựa chọn hình thức đầu tư, lĩnh vực
đầu tư. Sự khác biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài là nhà
đầu tư nước ngoài bị hạn chế đầu tư vào lĩnh vực nhạy cảm như viễn thông, phát
thanh truyền hình, dịch vụ tài chính, dịch vụ pháp lý,… Theo pháp luật đầu tư
của Singapore thì các nhà đầu tư có thể lựa chọn kinh doanh dưới các hình thức:
Doanh nghiệp một chủ; hợp danh và công ty (công ty tư nhân và công ty công
chúng) [1, tr 51-57], ngoài ra các chủ đầu tư có thể thành lập chi nhánh văn
phòng đại diện. Pháp luật cũng cam kết việc Chính phủ Singapore không tước
quyền tài sản hợp pháp của các chủ đầu tư, đặc biệt là tài sản của nhà đầu tư
nước ngoài. Bên cạnh đó, Singapore còn có một hệ thống chính sách thuế mang
tính khuyến khích đầu tư rất cao.
Bên cạnh các quy định đảm bảo và khuyến khích đầu tư thể hiện mục tiêu
PTBV thì cũng như pháp luật đầu tư của các quốc gia khác, pháp luật đầu tư
Singapore cũng đặt ra những hạn chế nhằm đảm bảo sự ổn định thị trường trong
nước và cũng vì mục tiêu PTBV. Những hạn chế này chủ yếu được quy định trong
các lĩnh vực đầu tư mà Chính phủ Singapore cho rằng cần thiết phải bảo hộ, hạn

chế để bảo đảm sự PTBV. Một trong những điển hình đó là, việc nhập khẩu gạo tại
Singapore bắt buộc phải có Giấy phép nhập khẩu để ổn định lương thực và bình ổn
giá cả. Trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng, Singapore duy trì sự phân biệt rõ ràng
giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước. Pháp luật ngân hàng và pháp
luật đầu tư Singapore quy định, nhà đầu tư nước ngoài không được phép thâu tóm
toàn bộ ngân hàng trong nước, việc nhà đầu tư nước ngoài mua lại quá ngưỡng 5%,
12% hoặc 20% cổ phần hoặc quyền biểu quyết ở một ngân hàng nội địa phải được


×