TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
VỀ CHỨNG MINH TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: LH - 2012 - 09/ĐHL - HN
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH
HÀ NỘI - 2012
DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI THỰC HIỆN
STT
Họ và tên
Nơi công tác
Nội dung
thực hiện
1.
TS.NGUYỄN CÔNG BÌNH
Giảng viên chính Trƣờng Chuyên đề 2 & 7
Đại học Luật Hà Nội
2.
TS.NGUYỄN TRIỀU DƢƠNG
Giảng viên Trƣờng Đại Chuyên đề 3
học Luật Hà Nội
3.
TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ
Giảng viên Trƣờng Đại Chuyên đề 5, 13
học Luật Hà Nội
4.
TS.NGUYỄN MINH HẰNG
& 14
Giảng viên Học viện Tƣ Chuyên đề 1
pháp
5.
TS.BÙI THỊ HUYỀN
Giảng viên chính Trƣờng Chuyên đề 6 & 10
Đại học Luật Hà Nội
6.
ThS.LÊ THỊ BÍCH LAN
Thẩm phán Tòa án nhân Chuyên đề 8
dân Thành phố Hà Nội
7.
TS.TRẦN PHƢƠNG THẢO
Giảng viên Trƣờng Đại Chuyên đề 4 & 9
học Luật Hà Nội
8.
TS.TRẦN ANH TUẤN
Giảng viên chính Trƣờng Chuyên đề 11
Đại học Luật Hà Nội
9.
CN.NGUYỄN SƠN TÙNG
Giảng viên Trƣờng Đại Chuyên đề 12
học Luật Hà Nội
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
BLTTDSN
Bộ luật tố tụng dân sự của Cộng hòa liên bang Nga
BLTTDSNB
Bộ luật tố tụng dân sự của Nhật Bản
BLTTDSP
Bộ luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp
BLTTDSTH
Bộ luật tố tụng dân sự của Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
BPKCTT
Biện pháp khẩn cấp tạm thời
HĐTPTANDTC
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
HĐXX
Hội đồng xét xử
LSĐBSBLTTDS
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
LTCVKSND
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
PLTTGQCTCLĐ
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
PLTTGQCVADS
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
VKS
Viện Kiểm sát
VKSND
Viện Kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện Kiểm sát tối cao
MỤC LỤC
Trang
1.
Tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài
6
2.
Các quan điểm về chứng minh trong tố tụng dân sự
63
3.
Các đặc điểm của chứng minh trong tố tụng dân sự
93
4.
Các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự
105
5.
Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
124
6.
Chứng minh trong tố tụng dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
136
7.
Chứng minh trong tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm
147
8.
Pháp luật đối với việc chứng minh trong tố tụng dân sự
155
9.
Thẩm phán đối với việc động chứng minh của đƣơng sự trong tố
170
tụng dân sự
10. Luật sƣ đối với việc chứng minh của đƣơng sự trong tố tụng dân
187
sự
11. Viện kiểm sát đối với việc chứng minh của đƣơng sự trong tố
199
tụng dân sự
12. So sánh chứng minh trong tố tụng dân sự với chứng minh trong
209
tố tụng hình sự
13. Bảo đảm quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan và tổ chức cung cấp
220
chứng cứ của đƣơng sự
14
Chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật
223
một số nƣớc
15
Kết quả điều tra xã hội học về chứng minh và giải pháp bảo đảm
245
việc chứng minh của các chủ thể trong tố tụng dân sự
Danh mục tài liệu tham khảo
275
MỤC LỤC TỔNG THUẬT
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
1
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2
1.3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu đề tài
3
1.4. Nhu cầu kinh tế xã hội, địa chỉ áp dụng
3
1.5. Phạm vi nghiên cứu
3
1.6. Nội dung nghiên cứu
4
1.7. Phƣơng pháp nghiên cứu
4
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Khái niệm, cơ sở và đặc điểm của chứng minh trong tố tụng dân sự
4
4
2.1.1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng dân sự
4
2.1.2. Cơ sở phƣơng pháp luận của chứng minh trong tố tụng dân sự
7
2.1.3. Các đặc điểm của chứng minh trong tố tụng dân sự
8
2.2. Chủ thể chứng minh và việc phân định nghĩa vụ chứng minh trong tố
12
tụng dân sự
2.2.1. Các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự
12
2.2.2. Việc phân định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
12
2.3. Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
15
2.3.1. Hoạt động cung cấp chứng cứ
15
2.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ
16
2.3.3. Hoạt động nghiên cứu chứng cứ
17
2.3.4. Hoạt động đánh giá chứng cứ
17
2.4. Chứng minh trong tố tụng dân sự ở các cấp xét xử
2.4.1. Chứng minh trong tố tụng dân sự ở cấp xét xử sơ thẩm
17
17
2.4.2. Chứng minh trong tố tụng dân sự ở cấp xét xử phúc thẩm
2.5. Các yếu tố bảo đảm việc chứng minh trong tố tụng dân sự
20
22
2.5.1. Pháp luật đối với việc chứng minh trong tố tụng dân sự
22
2.5.2. Thẩm phán đối với việc chứng minh trong tố tụng dân sự
25
2.5.3. Luật sƣ đối với việc chứng minh trong tố tụng dân sự
28
2.5.4. Viện kiểm sát đối với việc chứng minh trong tố tụng dân sự
31
2.5.5. Bảo đảm quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
32
chứng cứ của đƣơng sự
2.6. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về chứng minh
33
trong tố tụng dân sự
2.6.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chủ thể chứng minh trong tố
34
tụng dân sự và phân định rõ quyền, nghĩa vụ chứng minh của họ
2.6.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về đối tƣợng chứng minh và các
34
tình tiết, sự kiện không cần chứng minh trong tố tụng dân sự
2.6.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về phƣơng tiện chứng minh trong
35
tố tụng dân sự
2.6.4. Sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục, trình tự chứng minh
36
trong tố tụng dân sự
2.6.5. Sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập chứng cứ của Tòa án
38
trong tố tụng dân
2.6.6. Sửa đổi, bổ sung các quy định thẩm quyền của thẩm phán trong
38
việc ấn định cho đƣơng sự một thời hạn để giao nộp chứng cứ
2.6.7. Sửa đổi, bổ sung các quy định đƣơng sự có quyền yêu cầu Toà
39
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trƣớc khi khởi kiện để bảo
toàn chứng cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn Toà án án dụng
2.6.8. Sửa đổi, bổ sung quy định thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm,
40
phúc thẩm dân sự
2.6.9. Sửa đổi, bổ sung quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự mà ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
41
đƣơng sự đƣợc áp dụng để thu thập chứng
2.6.10. Sửa đổi, bổ sung quy định Tòa án phải gửi quyết định áp dụng
41
biện pháp thu thập chứng cứ cho Viện kiểm
2.6.11. Sửa đổi, bổ sung các quy định về cá nhân, cơ quan, tổ chức có
42
trách nhiệm cung cấp chứng cứ cả cho ngƣời đại diện và ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự khi nhận đƣợc yêu cầu và ban
hành quy định hƣớng dẫn quy định về thẩm quyền, thủ tục xử phạt và
mức phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự
2.6.12. Sửa đổi, bổ sung các quy định về địa vị pháp lý của luật sƣ
43
trong tố tụng dân
2.6.13. Sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện Viện kiểm sát
kháng nghị bản án, quyết định của Toà án và việc Viện kiểm sát tham
gia các phiên toà, phiên họp dân sự
44
1
PHẦN THỨ NHẤT
TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
-------------*****------------1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Chứng minh trong tố tụng dân sự là một trong những vấn đề cơ bản của tố
tụng dân sự. Việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án có đúng đắn và có hiệu
quả hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào việc chứng minh của các chủ thể tố
tụng dân sự. Vì vậy, chứng minh trong tố tụng dân sự luôn đƣợc quan tâm quy định
trong pháp luật tố tụng dân sự. Để tạo hành lang pháp lý cho việc giải quyết các vụ
việc dân sự trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, mở rộng các quan hệ quốc tế, quán triệt đƣờng lối đổi mới của Đảng về xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp, tại kỳ họp thứ 5, ngày 15 tháng 6
năm 2004 Quốc hội khoá XI nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005.
Chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự đã đƣợc quy định trong Chƣơng 8
của Bộ luật này và Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/09/2005 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) hƣớng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTDS về chứng minh và chứng cứ.
So với các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
(PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
(PLTTGQCVAKT)và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
(PLTTGQCTCLĐ) đƣợc ban hành trƣớc đó, các quy định của BLTTDS có nhiều
tiến bộ nên đã tạo đƣợc nhiều thuận lợi cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự và việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Tuy vậy, sau 5 năm thực
hiện cho thấy các quy định Bộ luật này vẫn còn nhiều bất cập. Thực hiện Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, tại
Kỳ họp thứ 9 ngày 29/03/2011 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự (LSĐBSBLTTDS). Việc ban hành
LSĐBSBLTTDS đã làm cho pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hoàn thiện hơn
nhƣng vẫn còn nhiều quy định vẫn chƣa đƣợc sửa đổi, trong đó có các quy định về
chứng minh trong tố tụng dân sự. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề lý
luận về chứng minh trong tố tụng dân sự” là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
2
1.2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, vấn đề chứng minh trong tố tụng dân sự đã đƣợc quan
tâm nghiên cứu và có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có đề cập đến
vấn đề này đã đƣợc công bố. Về đề tài nghiên cứu khoa học, có đề tài cấp bộ “Một
số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”
do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996, đề tài cấp bộ “Những
quan điểm cơ bản về Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam” do Viện Nhà nƣớc và pháp
luật của Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện năm 2002, đề tài cấp cơ sở “Thu
thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự thực trạng
và giải pháp” Viện Khoa học xét xử của TANDTC thực hiện năm 2002, đề tài cấp
cơ sở “Thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm của các Tòa án phúc thẩm của Tòa án nhân
dân tối cao” do Viện Khoa học xét xử của TANDTC thực hiện năm 2006; đề tài
cấp bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam
hiện nay” do Viện Nhà nƣớc và pháp luật của Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực
hiện năm 2010; đề tài cấp cơ sở “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải
quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp” do Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội thực hiện năm 2010 và đề tài cơ sở “Tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt
Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” do Trƣờng Đại học Luật Hà Nội thực hiện
năm 2011… Về giáo trình, có Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học viện Tƣ pháp
do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2007, Giáo trình Luật tố tụng dân
sự Việt Nam do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2011, Giáo trình Luật tố tụng
dân sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân
dân xuất bản năm 2012 ...Về luận văn, luận án, có luận án tiến sỹ luật học “Chế
định chứng minh trong tố tụng dân sự” của nghiên cứu sinh Nguyễn Minh Hằng
bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009, luận văn thạc sỹ luật học
“Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của học viên
Tăng Hoàng My bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2012, luận văn thạc
sỹ luật học “Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” của học viên
Nguyễn Hà Giang bảo vệ tại Khoa Luật của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012…
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý và cho các
hội thảo về pháp luật tố tụng dân sự nhƣ bài “Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa
vụ chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Phan Hữu Thƣ đăng trên Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 9/1998; bài “Xác định địa vị tố tụng của đương sự và
đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự” của luật sƣ Nguyễn Thế Giai đăng trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số 9/2000, bài “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự” của tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh đăng trên Tạp chí Luật học số đặc san góp ý
dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự tháng 4/2004, bài “Chế định chứng minh và chứng
3
cứ trong BLTTDS” của tác giả Nguyễn Công Bình đăng trên Tạp chí nhà nƣớc và
pháp luật số 2/2004, bài “Các quy định về chứng minh trong tố tụng dân sự” của
tác giả Nguyễn Công Bình đăng trên Tạp chí Luật học năm 2005 Số đặc san về
BLTTDS, bài “Chứng cứ và chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Tƣởng Duy Lƣợng cho Hội thảo: “Bộ luật tố
tụng dân sự - Những điểm mới và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành” do
Học Viện Tƣ Pháp tổ chức tại Hà Nội ngày 25/12/2004 v.v…Tuy nhiên, do mục
đích và giới hạn của việc nghiên cứu nên các công trình nghiên cứu này chủ yếu
mới đi vào phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về chứng minh trong tố
tụng dân sự và thực tiễn thực hiện chúng tại các Toà án nên chƣa làm rõ đƣợc nhiều
vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng dân sự.
1.3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu là những vấn đề lý luận về chứng minh trong
tố tụng dân sự. Ngoài ra, để đối chiếu, so sánh giữa lý luận với thực tiễn nhằm nhận
thức đƣợc sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng dân sự,
việc nghiên cứu cũng tiến hành đối với các quy định của pháp luật Việt Nam và
pháp luật một số nƣớc về chứng minh trong tố tụng dân sự và hoạt động chứng
minh của các chủ thể tố tụng dân sự tại các Tòa án Việt Nam.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ đƣợc một số vấn đề lý
luận cơ bản về chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ nhận thức lý luận soi rọi vào
thực tiễn phát hiện những bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành về chứng minh
trong tố tụng dân sự và đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật
về chứng minh trong tố tụng dân sự, đặc biệt các quy định về bảo đảm thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
giải quyết vụ việc dân sự.
1.4. Nhu cầu kinh tế xã hội và địa chỉ áp dụng
Kết quả của việc nghiên cứu đề tài có giá trị sau:
- Góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng dân sự,
đóng góp ý kiến cho việc hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về chứng minh trong
tố tụng dân sự theo định hƣớng cải cách tƣ pháp và góp phần tháo gỡ những vƣớng
mắc trong thực tiễn xét xử hiện nay.
- Bổ sung nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và nghiên
cứu khoa học pháp lý và làm cơ sở để hoàn thiện Giáo trình Luật tố tụng dân sự của
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nghiên cứu về một trong những vấn đề về lý luận cơ bản
của tố tụng dân sự nên bao gồm nhiều vấn đề và những vấn đề liên quan. Xuất phát
4
từ cấp độ của đề tài cấp cơ sở, việc nghiên cứu chỉ tập trung giải quyết một số vấn
đề lý luận cơ bản nhất về chứng minh trong tố tụng dân sự nhƣ khái niệm, đặc điểm
của chứng minh, các chủ thể chứng minh, các hoạt động chứng minh ở cấp xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm, các yếu tố bảo đảm chứng minh trong tố tụng dân sự. Trong
đó, việc chứng minh của các đƣơng sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nên việc
nghiên cứu các yếu tố bảo đảm chứng minh tập trung vào việc làm rõ các yếu tố
bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự. Những vấn đề
khác liên quan đến chứng minh trong tố tụng dân sự nhƣ chứng cứ, việc xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về chứng minh trong tố tụng dân sự v.v…sẽ không đƣợc
nghiên cứu trong đề tài này mà nghiên cứu trong các đề tài khác khi có điều kiện.
1.6. Nội dung nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài đƣợc tiến hành với các nội dung sau:
- Khái niệm, cơ sở và đặc điểm của chứng minh trong tố tụng dân sự;
- Chủ thể chứng minh và việc phân định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự;
- Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự;
- Chứng minh trong tố tụng dân sự ở các cấp xét xử;
- Các yếu tố bảo đảm chứng minh trong tố tụng dân sự;
1.7. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài đƣợc các tác giả tiến hành dựa trên cơ sở phƣơng
pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật và đƣờng lối, chủ trƣơng của
Đảng, Nhà nƣớc ta về cải cách tƣ pháp.
Để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, quá trình
nghiên cứu đề tài các tác giả cũng sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
truyền thống khác nhau nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh và
phƣơng pháp tổng hợp. Ngoài ra, các tác giả cũng sử dụng phƣơng pháp thực tiễn
nhƣ khảo sát, xã hội học để nghiên cứu đề tài nhằm minh hoạ, chứng minh cho
những luận điểm, kết luận khoa học.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Khái niệm, cơ sở và đặc điểm chứng minh trong tố tụng dân sự
2.1.1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tƣợng khác nhau
đòi hỏi con ngƣời phải nhận thức và đánh giá. Ở mỗi sự vật, hiện tƣợng lại có nhiều
đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một cách nhanh chóng, rõ
ràng bằng các giác quan nhƣng cũng có những đặc tính không thể nhận biết ngay
đƣợc bằng các giác quan mà phải trải qua một quá trình tƣ duy logic phân tích, tổng
5
hợp, móc nối các tình tiết, sự kiện liên quan đến chúng v.v… sau đó mới có thể đi
đến kết luận cuối cùng về sự vật, hiện tƣợng. Theo Từ điển tếng Việt, các hoạt
động này là chứng minh: “Chứng minh” là “làm cho thấy rõ là có thật, là đúng
bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ hoặc dùng suy luận logic vạch rõ một điều gì đó là
đúng”(1). Chứng minh là một dạng hoạt động phổ biến của con ngƣời trong đời sống
xã hội, đi đôi với sự khám phá, tìm tòi và là một trong những phƣơng thức cơ bản
để con ngƣời nhận thức tự nhiên và xã hội.
Trong tố tụng dân sự, để giải quyết vụ việc dân sự trƣớc hết Toà án phải cho
làm rõ đƣợc tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự sau đó mới áp
dụng các quy phạm pháp luật nội dung xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên
đƣơng sự. Các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự đều xảy ra trong quá
khứ trƣớc khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự nên
để tái hiện lại Toà án phải sử dụng các tin tức trong lời khai của những ngƣời tham
gia hoặc chứng kiến (nhƣ đƣơng sự, ngƣời làm chứng) và các đồ vật, tài liệu có
chứa đựng các dấu vết, thông tin về chúng. Qua nghiên cứu cho thấy, các phƣơng
tiện đƣợc Toà án sử dụng để xác định các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc
dân sự đƣợc gọi là phƣơng tiện chứng minh còn các hoạt động xác định tình tiết, sự
kiện liên quan đến vụ việc dân sự nhƣ hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập
chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ đƣợc gọi là chứng minh
trong tố tụng dân sự. Chứng minh trong tố tụng dân sự một mặt đƣợc tiến hành trên
quy luật của hoạt động nhận thức đối với các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc
dân sự, mặt khác đƣợc tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự. Vì vậy, chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố
tụng bằng những phƣơng tiện, theo thủ tục do pháp luật quy định làm rõ các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, Tòa án đều phải cho làm rõ đƣợc
các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự chỉ trừ những tình tiết đã rõ ràng
nhƣ tình tiết, sự kiện mọi ngƣời đều biết hoặc tình tiết, sự kiện đƣợc xác định trong
các bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền hoặc tình tiết,
sự kiện ghi trong các văn bản đã đƣợc công chứng, chứng thực hợp pháp. Vì vậy,
đối tƣợng của chứng minh trong tố tụng dân sự là tổng hợp những sự kiện, tình tiết
liên quan đến vụ việc dân sự cần đƣợc xác định trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự. Tuy vậy, do hiện nay vẫn còn các quan điểm khác nhau về chứng minh
trong tố tụng dân sự nên nội hàm khái niệm đối tƣợng chứng minh cũng đƣợc hiểu
khác nhau. Quan điểm thứ nhất, cho rằng chứng minh trong tố tụng dân sự phải
làm rõ đƣợc tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự, không kể nó
(1). Xem:
Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, trang 192.
6
có mối quan hệ nhƣ thế nào đối với vụ việc dân sự. Theo quan điểm này, thì đối
tƣợng chứng minh bao gồm tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự
cần đƣợc làm rõ trong quá trình tố tụng nhƣ các tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp
luật giữa các bên đƣơng sự phụ thuộc vào nó; các tình tiết, sự kiện chỉ có ý nghĩa
về tố tụng (nhƣ tình tiết, sự kiện xác định đƣơng sự vắng mặt tại phiên tòa là do gặp
trở ngại khách quan hoặc gặp trƣờng hợp bất khả kháng) và cả những tình tiết, sự
kiện để xác định lời khai của ngƣời làm chứng, kết luận của ngƣời giám định, kết
luận của hội đồng định giá, tổ chức thẩm định giá là có cơ sở. Và chủ thể chứng
minh không chỉ bao gồm các đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án mà còn
bao gồm cả ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch và ngƣời định giá
tài sản. Quan điểm thứ hai thì cho rằng hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
không phải làm rõ tất cả những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự mà
chỉ phải làm rõ những tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên
đƣơng sự phụ thuộc vào nó. Theo quan điểm này, thì đối tƣợng chứng minh chỉ bao
gồm những tình tiết, sự kiện mà các bên đƣơng sự đƣa ra làm cơ sở cho yêu cầu
của mình hay làm cơ sở cho sự phản đối của họ đối với yêu cầu của ngƣời khác và
những tình tiết, sự kiện khác có ý nghĩa cho việc xác định nội dung vụ việc dân sự.
Và chủ thể chứng minh chỉ bao gồm các đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự,
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, VKS và Tòa án. Qua nghiên
cứu, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi nếu hiểu chứng minh trong tố
tụng dân sự theo quan điểm thứ nhất thì gần nhƣ đồng nhất thuật ngữ pháp lý
“chứng minh trong tố tụng dân sự” với thuật ngữ ngôn ngữ “chứng minh trong đời
sống xã hội” nên không làm rõ đƣợc sự khác nhau giữa chúng và đặc biệt là không
làm rõ đƣợc bản chất pháp lý của thuật ngữ “chứng minh trong tố tụng dân sự”.
Mặt khác, nếu hiểu chứng minh theo quan điểm thứ nhất thì chủ thể tố tụng nào
cũng có quyền nghĩa vụ chứng minh, kể cả chủ thể không có quyền, lợi ích liên
quan đến vụ việc dân sự và chủ thể không có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải
quyết vụ việc dân sự nên không làm rõ đƣợc địa vị pháp lý của các chủ thể chứng
minh dẫn đến sự lẫn lộn trong việc xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm chứng
minh của các chủ thể tố tụng. Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý
về chứng minh trong tố tụng dân trƣớc đó cũng khẳng định quan niệm thứ hai này
là có cơ sở hơn cả(1).
2.1.2. Cơ sở phương pháp luận của chứng minh trong tố tụng dân sự
Cơ sở phƣơng pháp luận của chứng minh trong tố tụng dân sự là lý luận nhận
(1)
. Xem: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, trang 140; Học viện tƣ pháp (2007), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, trang
60.
7
thức của chủ nghĩa Mác-Lênin thông qua việc áp dụng các cặp phạm trù cơ bản và các
quy luật của phép biện chứng duy vật. Từ nguyên lý thế giới thống nhất ở tính vật chất,
thế giới vật chất luôn vận động và phát triển, mọi sự vật, hiện tƣợng trong thế giới luôn
có mối liên hệ phổ biến tác động nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa lẫn
nhau. Phép biện chứng duy vật đã chỉ ra: “Hết thảy mọi vật chất đều có đặc tính về bản
chất gần giống như cảm giác, đặc tính phản ánh”(2). Sự phản ánh tồn tại khách quan
đòi hỏi phải nhìn nhận sự vật, hiện tƣợng một cách toàn diện trong sự vận động, phát
triển. Chính lý luận nhận thức này đã tác động đến việc hình thành nên quan niệm về
chứng minh và khoa học về chứng minh trong các loại hình tố tụng.
Chứng minh trong tố tụng dân sự là quá trình xác định sự thật khách quan của
vụ việc dân sự. Việc chứng minh của các chủ thể tố tụng phải xuất phát từ việc nhìn
nhận toàn diện về vụ việc dân sự, xác định những vấn đề liên quan đến sự kiện, hiện
tƣợng. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh mọi sự vật,
hiện tƣợng luôn vận động, biến đổi không ngừng theo bản chất và có xu hƣớng phát
triển. Vì vậy, phải xem xét sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự trong mối liên hệ hữu
cơ với nhau, trong mối quan hệ với các sự vật, hiện tƣợng khác và phải xem xét tất cả
các mặt của chúng.
Phép biện chứng duy vật hình thành nên quan niệm về nguyên tắc đánh giá
chứng cứ trong quá trình chứng minh. Tức là, việc đánh giá chứng cứ phải đặt trong sự
phát triển của chứng cứ, phải phát hiện đƣợc các xu hƣớng biển đổi, chuyển hóa của
chứng cứ. Lý luận nhận thức đòi hỏi chứng minh phải xem xét cụ thể sự vật, hiện
tƣợng và xem xét chúng trong sự vận động và phát triển(3). Chủ nghĩa duy vật biện
chứng là cơ sở của phƣơng pháp luận chứng minh trong tố tụng dân sự để nhìn nhận,
xem xét đúng sự thật và chân lý của vụ việc dân sự. Theo triết học Mác – Lênin, chân
lý là kết quả của quá trình nhận thức của con ngƣời. Quá trình chứng minh vụ việc dân
sự sẽ và phải đạt tới chân lý đích thực của vụ việc dân sự. Việc vận dụng khái niệm
chân lý khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng để nhận thức các sự vật, hiện
tƣợng trong lĩnh vực giải quyết vụ việc dân sự là cơ sở hình thành quan niệm về chứng
minh trong tố tụng dân sự Việt Nam. Theo đó, chân lý khách quan đƣợc hiểu là chân
lý của sự kiện, đƣợc xác định thông qua việc áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự về cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đặc biệt là đánh giá chứng cứ nhằm
xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự.
Cơ sở phƣơng pháp luận là phép biện chứng đòi hỏi toàn bộ hoạt động chứng
minh phải đƣợc tiến hành theo nguyên tắc khách quan và toàn diện. Nguyên tắc khách
quan đòi hỏi phải xem xét sự vật từ bản thân sự vật, phản ánh sự vật một cách trung
(2)
. Xem: Lê nin V.I (1981), Lê nin toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, trang 104.
. Xem: Lê nin V.I (1977), Lê nin toàn tập, Tập 32, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, trang 32.
(3)
8
thành. Nguyên tắc toàn diện yêu cầu phải xem xét sự vật trong tất cả các mặt, các mối
liên hệ của nó cũng nhƣ những mối liên hệ bản chất để nhận thức đúng đắn sự vật,
hiện tƣợng: “Muốn thật sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất
cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. Chúng ta không
thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ nhưng sự cần thiết phải xem xét tất
cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng nhắc”(4). Chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng là chìa khóa của toàn bộ quá
trình áp dụng lý luận chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam.
2.1.3. Các đặc điểm của chứng minh trong tố tụng dân sự
Để giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền, dù là vụ án hình sự, vụ án hành
chính hay vụ việc dân sự thì Tòa án đều phải cho làm rõ đƣợc tất cả các tình tiết, sự
kiện liên quan đến chúng. Tuy nhiên, do tính chất, yêu cầu việc giải quyết các vụ
việc tại Tòa án khác nhau nên chứng minh trong mỗi loại hình tố tụng có những đặc
điểm riêng. Qua nghiên cứu cho thấy, chứng minh trong tố tụng dân sự có một số
đặc điểm cơ bản sau đây:
2.1.3.1. Chứng minh trong tố tụng dân sự được thực hiện bởi nhiều hoạt
động có liên quan chặt chẽ với nhau và mang tính liên tục
Các vụ việc dân sự đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết thƣờng có nhiều tình tiết, sự
kiện liên quan cần phải đƣợc làm rõ. Tùy theo vụ việc dân sự mà các tình tiết, sự kiện
liên quan đến vụ việc phải làm rõ những tình tiết, sự kiện khác nhau. Tuy nhiên, để làm
rõ đƣợc chúng thì các chủ thể chứng minh đều phải tiến hành nhiều hoạt động chứng
minh nhƣ cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá
chứng cứ.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, để nghiên cứu nắm vững đƣợc bản chất
của sự việc thì các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý có tách bạch các hoạt động chứng
minh, chia quá trình chứng minh thành các giai đoạn khác nhau nhƣ giai đoạn cung
cấp chứng cứ, giai đoạn thu thập chứng cứ, giai đoạn nghiên cứu chứng cứ và giai
đoạn đánh giá chứng cứ cho thuận tiện trong việc nghiên cứu. Tuy nhiên, trong thực
tiễn thì các hoạt động chứng minh của các chủ thể đƣợc tiến hành đan xen hợp thành
một thể thống nhất, nhiều khi các chủ thể chứng minh vừa tiến hành thu thập, vừa tiến
hành việc nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Các hoạt động chứng minh có mối quan
hệ mật thiết với nhau vì các hoạt động chứng minh đều hƣớng tới một mục đích duy
nhất là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, hoạt
động chứng minh trƣớc là tiền đề, cơ sở để tiến hành hoạt động chứng minh sau và
hoạt động chứng minh sau kiểm tra, củng cố kết quả của các hoạt động chứng minh
trƣớc.
(4)
. Xem: Lê nin V.I (1981), Lê nin toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, trang 281.
9
Các hoạt động chứng minh làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự đƣợc
tiến hành liên tục từ khi có yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự thì
các hoạt động chứng minh đã bắt đầu và kết thúc khi Tòa án quyết định giải quyết vụ
việc dân sự. Sở dĩ các hoạt động chứng minh phải đƣợc tiến hành liên tục là do yêu
cầu của việc giải quyết nhanh chóng vụ việc dân sự. Nếu các hoạt động chứng minh
trong một vụ việc mà không đƣợc tiến hành liên tục thì quá trình giải quyết vụ việc
dân sự sẽ bị gián đoạn và sẽ không thể bảo đảm đƣợc việc giải quyết nhanh chóng vụ
việc dân sự. Mặt khác, do các hoạt động chứng minh có quan hệ mật thiết với nhau,
hoạt động trƣớc là giai đoạn tiền đề của hoạt động sau, hoạt động sau là giai đoạn tiếp
nối giai đoạn trƣớc nên các hoạt động chứng minh phải tiến hành liên tục mới bảo đảm
đƣợc việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Chẳng hạn, nếu đã nghiên cứu chứng cứ
xong thì phải đánh giá, để lâu sau mới đánh giá thì có thể dẫn đến kết luận của việc
đánh giá chứng cứ không chính xác nên việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự sẽ
không đúng.
2.1.3.2. Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu là đương sự
Trong tố tụng dân sự, các chủ thể chứng minh đa dạng. Tùy theo việc quan
niệm về chứng minh trong tố tụng dân sự nhƣ thế nào, theo nghĩa hẹp hay nghĩa
rộng mà diện các chủ thể chứng minh khác nhau. Tuy vậy, dù theo quan niệm nào
thì đƣơng sự, ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
và Toà án vẫn là những chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự. Trong đó, đƣơng
sự còn là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu.
Vì sao trong tố tụng dân sự đƣơng sự có nghĩa vụ chứng minh? Giải thích về
vấn đề này các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý đều có chung một quan
điểm:“Pháp luật quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh vì họ là người trong
cuộc nên thường biết rõ về vụ việc dân sự, có điều kiện cung cấp các tin tức về vụ
việc dân sự và nguồn gốc của nó, từ đó Toà án có thể xác định được những tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Mặt khác, đương sự có quyền, lợi ích liên quan đến
vụ việc dân sự đưa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu của đương sự khác nên họ sẽ quan
tâm và tìm mọi biện pháp để khẳng định yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của
mình... Chứng minh không những để làm rõ sự thật của vụ việc dân sự mà còn là
biện pháp tốt nhất để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước
Toà án”(1). Hay trong tố tụng dân sự đƣơng sự có nghĩa vụ chứng minh, “vì ở quan
hệ dân sự là quan hệ riêng tư của các bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết
là chủ yếu và chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có
yêu cầu Nhà nước hỗ trợ không? Mặt khác các bên đương sự là những người hiểu
(1)
. Xem: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, trang 140.
10
rõ vụ việc của mình nhất, thường biết rõ tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc
của mình có những gì và đang ở đâu (2). Trong tố tụng hình sự, bị can, bị cáo không
có nghĩa vụ chứng minh vì “quan hệ tố tụng hình sự trong việc truy cứu trách
nhiệm hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và công dân mang tính quyền uy… để
buộc một người phải chịu hậu quả pháp lí bất lợi của việc thực hiện tội phạm, bị
hạn chế hoặc tước bỏ quyền hoặc lợi ích hợp pháp, Nhà nước phải có trách nhiệm
chứng minh rằng người đó đã có hành vi phạm tội”(3).
Vì sao trong tố tụng dân sự đƣơng sự là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chủ
yếu? Trong tố tụng dân sự ngoài đƣơng sự thì ngƣời đại diện của đƣơng sự và
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và VKS cũng có nghĩa vụ
chứng minh. Tuy vậy, nghĩa vụ chứng minh của họ khác với nghĩa vụ chứng minh
của đƣơng sự là chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định xuất phát từ yêu cầu và
nhiệm vụ tham gia tố tụng dân sự của họ. Ngoài ra, nếu coi Tòa án cũng có nghĩa
vụ chứng minh thì Toà án cũng không có nghĩa vụ chứng minh làm rõ các tình tiết,
sự kiện đƣơng sự đƣa ra làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ vì Toà
án không phải là ngƣời chỉ ra các tình tiết, sự kiện ấy. Đối với trƣờng hợp Tòa án
tiến hành thu thập chứng cứ thì hoạt động chứng minh này cũng chỉ mang tính
ngoại lệ, hỗ trợ trong trƣờng hợp vì lý do khách quan đƣơng sự không thể thực hiện
đƣợc nghĩa vụ chứng minh của mình.
2.1.3.3. Kết quả chứng minh trong tố tụng dân sự phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó Tòa án có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể
Chứng minh trong tố tụng dân sự là một vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự
nhƣng rất phức tạp. Các yếu tố ảnh hƣởng đến kết quả của chứng minh trong tố
tụng dân sự bao gồm: Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về chứng minh,
hoạt động chứng minh của đƣơng sự, luật sƣ, Tòa án và các chủ thể khác.
Pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tố tụng
phát sinh trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Đối với chứng minh,
pháp luật tố tụng dân sự có ý nghĩa trong việc xác định rõ những vấn đề cơ bản của
chứng minh nhƣ chủ thể chứng minh, đối tƣợng chứng minh, quy định về quyền và
nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chứng minh, thủ tục chứng minh trong tố
tụng dân sự v.v…từ đó tạo đƣợc cơ chế chứng minh trong tố tụng dân sự bảo đảm
cho các hoạt động chứng minh thực hiện có hiệu quả.
Các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm đƣơng sự, ngƣời đại
(2)
. Xem: Học Viện Tƣ Pháp (2004), BLTTDS-Những điểm mới và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành,
Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội, trang 60.
(3). Xem:
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, trang 166.
11
diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, VKS và
Tòa án. Khi tham gia tố tụng, mỗi chủ thể này đều tiến hành những hoạt động
chứng minh nhất định tùy theo mục đích, địa vị tố tụng của họ. Chẳng hạn, các
đƣơng sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình và
sự phản đối của mình đối với yêu cầu của ngƣời khác là hợp pháp và có căn cứ,
ngƣời đại diện của đƣơng sự thay mặt đƣơng sự thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đƣơng sự, VKS chứng minh cho yêu cầu kháng nghị… Kết quả chứng
minh trong tố tụng dân sự phụ thuộc một phần rất lớn vào hoạt động chứng minh
của họ. Tuy vậy, hoạt động chứng minh của họ có hiệu quả hay không lại phụ
thuộc vào Tòa án. Vì trong tố tụng dân sự, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng dân
sự có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Một mặt, Tòa án là
chủ thể thực hiện các hoạt động chứng minh nhƣ thu thập, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ nhƣng mặt khác Tòa án lại là chủ thể điều tiết, hƣớng dẫn các chủ thể
khác thực hiện việc chứng minh và xem xét chấp nhận kết quả chứng minh của chủ
thể khác. Bởi vậy, Tòa án có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền
và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể tố tụng dân sự.
2.1.3.4. Chứng minh trong tố tụng dân sự được thực hiện từ khi khởi kiện,
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự đến khi kết thúc việc giải quyết vụ việc
dân sự và ở mỗi cấp xét xử có mục đích và nhiệm vụ riêng
Để giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự, quá trình chứng minh
trong tố tụng dân sự đƣợc bắt đầu từ khi khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc
dân sự và đƣợc thực hiện trong suốt quá trình tố tụng. Tuy nhiên, kết quả hoạt động
chứng minh là một trong những căn cứ cơ bản để Tòa án quyết định giải quyết vụ việc
dân sự nên khi Tòa án đã ra quyết định giải quyết vụ việc dân sự thì các hoạt động
chứng minh sẽ đƣơng nhiên chấm dứt.
Quá trình chứng minh tố tụng dân sự có thể đƣợc thực hiện ở các cấp xét xử
nhƣng ở mỗi cấp xét xử, hoạt động xét xử của Tòa án có những mục đích và nhiệm vụ
riêng nên hoạt động chứng minh cũng có những mục đích và nhiệm vụ riêng. Ở cấp
xét xử sơ thẩm các chủ thể chứng minh đều phải tiến hành các hoạt động chứng minh
theo quy định của pháp luật để làm rõ đƣợc tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ
việc dân sự đang đƣợc Tòa án giải quyết. Trong đó, đƣơng sự là ngƣời có nghĩa vụ
chứng minh chủ yếu và trong mối tƣơng quan giữa các đƣơng sự thì nguyên đơn,
ngƣời yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh trƣớc. Tuy vậy, ở cấp xét xử phúc thẩm không
phải tất cả các chủ thể chứng minh đều phải tiến hành các hoạt động chứng minh mà
chỉ có các chủ thể liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Mặt khác, do
giới hạn của phạm vi xét xử phúc thẩm nên hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
ở cấp xét xử phúc thẩm cũng chỉ nhằm vào việc làm rõ các tình tiết, sự kiện làm cơ sở
12
cho việc kháng cáo, kháng nghị và những tình tiết, sự kiện liên quan đến việc giải
quyết kháng cáo, kháng nghị.
2.2. Chủ thể chứng minh và việc phân định nghĩa vụ chứng minh trong
tố tụng dân sự
2.2.1. Các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự
Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự là ngƣời tham gia vào hoạt động
chứng minh, có quyền và nghĩa vụ chứng minh. Việc xác định chủ thể chứng minh
trong tố tụng dân sự xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ tham gia tố tụng của họ. Mặt
khác, việc xác định các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự còn phụ thuộc vào
việc quan niệm về chứng minh trong tố tụng dân sự. Nếu quan niệm về chứng minh
trong tố tụng dân sự theo nghĩa rộng thì các chủ thể tố tụng đều là chủ thể chứng
minh trong tố tụng dân sự. Với quan niệm này thì các đƣơng sự, ngƣời đại diện của
đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, VKS, Toà án,
ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch đều là chủ thể chứng minh.
Tuy nhiên, nếu quan niệm chứng minh trong tố tụng dân sự chỉ là làm rõ các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà quan hệ giữa các bên đƣơng sự phụ thuộc vào
nó thì chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự không phải là tất cả các chủ thể tố
tụng mà chỉ bao gồm: Các đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, VKS và Tòa án. Các chủ thể tố tụng khác
nhƣ ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch và ngƣời định giá không
phải là chủ thể chứng minh, bởi ngƣời làm chứng chỉ trình bày những gì mình biết,
ngƣời giám định chỉ giải thích rõ cơ sở kết luận giám định, ngƣời định giá chỉ giải
thích làm rõ cơ sở của kết luận về giá, ngƣời phiên dịch chỉ dịch ngôn ngữ khác ra
tiếng Việt và ngƣợc lại. Nhƣ trên đã nêu, qua nghiên cứu cho thấy quan niệm này là
phù hợp hơn cả vì mục đích của chứng minh là làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự để nhận thức, giải quyết đúng vụ việc dân sự. Và do vậy, các chủ thể
chứng minh chỉ bao gồm đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, VKS và Tòa án.
2.2.2. Việc phân định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự các chủ thể chứng minh có quyền và nghĩa vụ chứng
minh. Tuy vậy, không phải tất cả các chủ thể chứng minh đều có nghĩa vụ chứng
minh nhƣ nhau. Tùy thuộc vào mục đích, nhiệm vụ tham gia tố tụng của các chủ
thể chứng minh và tùy từng giai đoạn tố tụng cụ thể mà các chủ thể chứng minh có
các nghĩa vụ chứng minh ở những phạm vi và mức độ nhất định.
Các đƣơng sự có quyền và lợi ích trong vụ việc đƣợc giải quyết tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên có nghĩa vụ chứng minh.
Trong đó, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh những tình tiết, sự kiện làm cơ sở
13
cho yêu cầu của mình; bị đơn có nghĩa vụ chứng minh những tình tiết, sự kiện làm
cơ sở cho yêu cầu phản tố của mình và sự phản đối đối với yêu cầu của nguyên
đơn, ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; ngƣời có quyền,
nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ chứng minh những sự kiện, tình tiết làm cơ sở sự
của mình hay sự phản đối đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn.
Ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự tham gia tố tụng với mục đích để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự. Ngƣời đại diện của đƣơng sự thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự nên có nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự trong
phạm vi đại diện. Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự hỗ trợ
đƣơng sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trƣớc Tòa án nên có nghĩa vụ chứng
minh cho sự tồn tại các quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác, lợi ích công cộng hoặc lợi ích của Nhà
nƣớc đƣa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự nhƣ nguyên đơn,
ngƣời yêu cầu. Vì vậy, họ có nghĩa vụ chứng minh những tình tiết, sự kiện làm cơ
sở cho yêu cầu của mình nhƣ nguyên đơn, ngƣời yêu cầu.
Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát các hoạt động tố tụng dân
sự. Trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, VKS có quyền kiến
nghị, kháng nghị đối với các bản án, quyết định của Tòa án. Khi kiến nghị, kháng
nghị đối với các bản án, quyết định của Tòa án thì VKS có nghĩa vụ chứng minh
làm rõ những tình tiết, sự kiện làm cơ sở kiến nghị, kháng nghị của mình.
Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải quyết nhanh chóng
và đúng đắn vụ việc dân sự. Tòa án chỉ đƣợc đƣa ra phán quyết vụ việc dân sự khi
tất cả các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự đã đƣợc làm rõ. Mặt khác, để quyết
định giải quyết vụ việc dân sự của mình có sức thuyết phục thì Tòa án không thể
không làm rõ những cơ sở của quyết định đó. Tức là Tòa án có nghĩa vụ chứng
minh làm rõ những tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho các quyết định giải quyết vụ
việc dân sự của Tòa án.
Hiện nay, trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý còn nhiều quan điểm khác
nhau về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể, đặc biệt là nghĩa vụ chứng minh của
đƣơng sự và Tòa án. Xuất phát từ việc xác định các đƣơng sự bình đẳng về địa vị
pháp lý, là ngƣời tham gia vào vụ việc dân sự hiểu rõ nhất những tình tiết, sự kiện
của vụ việc dân sự và có lợi ích trong vụ việc dân sự, quan điểm thứ nhất cho rằng,
chứng minh trong tố tụng dân sự là nghĩa vụ của các đƣơng sự và Tòa án không có
nghĩa vụ chứng minh. Trong đó có một quy tắc chung cho cả hai bên đƣơng sự:
14
“Người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng minh”(1). Theo
quy tắc này, mỗi bên đƣơng sự có nghĩa vụ phải chứng minh những sự kiện, tình
tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình, hay
nói một cách giản đơn hơn ai khẳng định một sự việc gì thì phải chứng minh sự
việc ấy. Bên cạnh đó, trong tiến trình phát triển của tố tụng, quyền và nghĩa vụ
chứng minh của các chủ thể chứng minh không bất biến mà trong điều kiện nhất
định, nó có thể di chuyển từ đƣơng sự này sang đƣơng sự khác. Xuất phát từ chỗ
các bên đƣơng sự phải tích cực tự bảo vệ mình bằng cách cung cấp chứng cứ và
chứng minh cho yêu cầu của mình. Quan điểm thứ hai cho rằng Tòa án, VKS là
các chủ thể có trách nhiệm chứng minh chứ không phải có nghĩa vụ chứng minh.
Hành vi tố tụng của mỗi chủ thể đƣợc quy định bởi vị trí tố tụng của họ, vì vậy chủ
thể chứng minh thực hiện những hành vi tố tụng của mình trong phạm vi quyền và
nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng dân sự cho phép. Xuất phát từ việc xác định chứng
minh là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ hoặc dùng
suy luận logic vạch rõ một điều gì đó là đúng. Quan điểm thứ ba cho rằng, Tòa án
cũng có nghĩa vụ chứng minh. Đƣơng sự là ngƣời đƣa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu
của đƣơng sự khác nên trƣớc tiên đƣơng sự là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh. Tuy
nhiên, để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự trong nhiều trƣờng hợp Tòa án còn
phải thu thập thêm chứng cứ, tài liệu để làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự. Hơn
nữa, dù đƣơng sự có cung cấp đầy đủ chứng cứ, với trách nhiệm của mình để ra
phán quyết giải quyết đúng vụ việc dân sự thì Tòa án vẫn phải xem xét, đánh giá,
phải chứng minh cơ sở quyết định giải quyết vụ việc dân sự của mình. Ngoài ra,
quan điểm này còn lý giải dƣới góc độ thực tiễn xét xử, nhiều Tòa án ở vùng sâu,
vùng xa khó có thể yêu cầu đƣơng sự cung cấp chứng cứ chứng minh. Đặc biệt với
những nơi dân trí còn hạn chế, hoàn cảnh, điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, hệ
thống bổ trợ tƣ pháp chƣa phát triển nên đƣơng sự khó có thể hoàn thành nghĩa vụ
chứng minh của họ. Theo kết quả khảo sát thì có tới 178 ngƣời/260 ngƣời đƣợc hỏi
(68,5%) cho rằng Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh, 68/260 ngƣời đƣợc hỏi
(26,2%) cho rằng Tòa án có nghĩa vụ chứng minh.
Tuy vậy, qua việc nghiên cứu cho thấy quan điểm thứ ba là hợp lý hơn cả.
Ngƣợc lại thời gian cho thấy kết quả các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý
trƣớc đó cũng quan niệm chủ thể chứng minh bao gồm cả Tòa án(5). Vì theo quan
điểm thứ nhất thì đồng nghĩa với việc chấp nhận Tòa án có thể quyết định giải
(1)
. Xem: Học viện Tƣ pháp (2007), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, trang 79.
(5)
. Xem: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, trang 140; Học viện Tƣ pháp (2007), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, trang 60; Khoa Luật -Trƣờng Đại học tổng hợp Hà Nội (1995), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Hà
Nội, trang 140.
15
quyết vụ việc dân sự không đúng với bản chất của nó khi đƣơng sự không hoàn
thành nghĩa vụ chứng minh của họ. Điều này trái với bản chất của Nhà nƣớc ta là
Nhà nƣớc do dân và vì dân. Nếu theo quan điểm thứ hai thì cũng không thỏa đáng
vì nghĩa vụ và trách nhiệm là những thuật ngữ pháp lý mang nội dung khác nhau:
Nghĩa vụ là việc phải làm còn trách nhiệm là hậu quả pháp lý mà chủ thể không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng phải gánh chịu. Mặt khác, việc Tòa án thu
thập chứng cứ không chỉ giúp cho Tòa án có đủ các chứng cứ mà còn làm cho thẩm
phán nhận thức đƣợc toàn diện và đúng đắn hơn về các tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự (6) nên bảo đảm việc giải quyết đúng vụ việc dân sự làm giảm
hậu quả bất lợi cho các đƣơng sự trong trƣờng hợp đƣơng sự không thể hoàn thành
đƣợc nghĩa vụ chứng minh của họ. Tuy nhiên, khác với đƣơng sự nghĩa vụ chứng
minh của Tòa án chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ đƣơng sự chứng minh làm rõ các
tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự trong trƣờng hợp vì lý do khách quan
nên đƣơng sự không thể hoàn thành nghĩa vụ chứng minh của mình và làm rõ cơ sở
quyết định của Tòa án.
2.3. Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm các hoạt động nối tiếp nhau, do
nhiều chủ thể khác nhau thực hiện. Các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
bao gồm: Cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Mỗi hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự do một chủ thể thực hiện, với một mục đích cụ thể
nhƣng tất cả đều nhằm hƣớng đến mục đích cuối cùng là tái hiện lại sự thật khách
quan của vụ việc dân sự.
2.3.1. Hoạt động cung cấp chứng cứ
Hoạt động cung cấp chứng cứ là hoạt động tố tụng của các chủ thể trong
việc giao cho Tòa án các chứng cứ. Hoạt động cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân
sự do đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự thực hiện. Ngoài ra, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đang lƣu giữ,
quản lý chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự cũng có trách nhiệm giao nộp Tòa
án khi đƣợc yêu cầu. Việc giao nộp bằng chứng cứ có thể đƣợc thực hiện trong bất
kỳ thời điểm nào của quá trình tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc giao nộp sớm chứng
cứ cho Tòa án vẫn tốt hơn cả vì Tòa án có điều kiện thời gian thuận lợi để kiểm tra,
đánh giá chúng. Kết quả khảo sát cho thấy, đa số (74,3%) các cán bộ làm công tác
thực tiễn đƣợc tham khảo ý kiến đều cho rằng pháp luật phải quy định thời hạn
cung cấp chứng cứ; nếu pháp luật không quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ
đƣơng sự sẽ lợi dụng việc này để kéo dài thời gian giải quyết vụ việc dân sự và là
(6)
. Xem: Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Sài Gòn, trang 261.
16
nguyên nhân của tình trạng bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa ngày càng
tăng. Việc cung cấp chứng cứ của đƣơng sự phải trong một thời hạn nhất định đều
đƣợc pháp luật tố tụng dân sự của các nƣớc quy định cụ thể. Chẳng hạn, theo quy
định của BLTTDSN, các bên đƣơng sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ trong thời
hạn mà thẩm phán ấn định. Việc xuất trình chứng cứ quá hạn chỉ đƣợc chấp nhận
trong trƣờng hợp có lí do chính đáng. Trong trƣờng hợp các bên đƣơng sự không
cung cấp chứng cứ nhằm mục đích cản trở có hệ thống đến việc giải quyết đúng
đắn vụ án, Tòa án có thể buộc bên đó bồi thƣờng cho bên kia khoảng thời gian đã
mất. Mức bồi thƣờng do Tòa án ấn định trong phạm vi hợp lí căn cứ vào những tình
tiết cụ thể của vụ án. (Điều 57, 99, 150 BLTTDSN). Ở giai đoạn phúc thẩm, ngƣời
kháng cáo, kiểm sát viên kháng nghị có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ mới.
Tuy nhiên, chứng cứ mới này chỉ đƣợc chấp nhận nếu việc không thể xuất trình này
ở sơ thẩm là có lí do chính đáng (Điều 339 BLTTDSN).
2.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ
Hoạt động thu thập chứng cứ là hoạt động của các chủ thể tố tụng trong việc
phát hiện tìm ra chứng cứ để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Nếu
nhƣ hoạt động cung cấp chứng cứ chủ yếu do đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng
sự, ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và trong một số trƣờng hợp
là cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ, bảo quản chứng cứ thực hiện thì hoạt
động thu thập chứng cứ do cả đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, VKS và Tòa án thực hiện. Để có chứng cứ
cung cấp cho Tòa án, thì đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự phải tiến hành thu thập chứng cứ. Trƣờng
hợp, việc thu thập chứng cứ ngoài khả năng thì họ có thể yêu cầu Tòa án hỗ trợ thu
thập chứng cứ. Mặt khác, để giải quyết đúng vụ việc dân sự thì Tòa án cũng phải
đƣợc chủ động tiến hành thu thập chứng cứ. Nếu hạn chế việc Tòa án thu thập
chứng cứ sẽ dẫn đến tình trạng giải quyết vụ việc dân sự không có căn cứ và không
đúng sự thật khách quan của chúng. Kết quả khảo sát cho thấy, đa số (66,9%)
những ngƣời đƣợc tham khảo ý kiến đều cho rằng pháp luật cần quy định rõ trách
nhiệm của thẩm phán trong việc xác minh thu thập chứng cứ; chỉ có số ít (33,1%)
những ngƣời đƣợc tham khảo ý kiến cho rằng pháp luật không cần phải quy định
trách nhiệm của thẩm phán trong việc xác minh thu thập chứng cứ.
2.3.3. Hoạt động nghiên cứu chứng cứ
Hoạt động nghiên cứu chứng cứ là hoạt động của các chủ thể tố tụng trong
việc kiểm tra, xem xét chứng cứ để xác định giá trị chứng minh của chúng. Mặc dù
hoạt động nghiên cứu chứng cứ là hoạt động của các chủ thể tố tụng nhƣng chủ thể
cơ bản nhất và quan trọng nhất là hoạt động của những ngƣời tiến hành tố tụng nhƣ
17
thẩm phán, hội thẩm nhân dân. Vì khác với các chủ thể tố tụng khác, những ngƣời
tiến hành tố tụng ngoài việc phải kiểm tra, xem xét, đƣa ra các ý kiến về giá trị
chứng minh của chứng cứ còn có quyền sử dụng chúng vào việc giải quyết vụ việc
dân sự. Mục đích của hoạt động nghiên cứu chứng cứ là các chủ thể tố tụng, đặc
biệt là Tòa án kiểm tra, xem xét để đi đến kết luận về giá trị chứng minh của các
chứng cứ cụ thể và các chứng cứ đã đủ làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân
sự chƣa. Hoạt động nghiên cứu chứng cứ đƣợc các chủ thể thực hiện theo một trình
tự tố tụng nhất định và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng. Tuy vậy, hoạt động
nghiên cứu chứng cứ của các chủ thể tại phiên tòa, phiên họp là tập trung nhất và
quan trong nhất. Vì thông qua kết quả nghiên cứu chứng cứ tại phiên tòa phiên họp
mà Tòa án đánh giá chứng cứ, rút ra kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ,
từ đó ra quyết định giải quyết vụ việc dân sự đƣợc đúng đắn.
2.3.4. Hoạt động đánh giá chứng cứ
Hoạt động đánh giá chứng cứ là hoạt động xác định giá trị chứng minh của
chứng cứ. Qua hoạt động đánh giá chứng cứ Tòa án xác định chứng cứ nào có giá
trị chứng minh đƣợc sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự và khép lại quá trình
chứng minh. Trong tố tụng dân sự, các chủ thể chứng minh đều có quyền tiến hành
hoạt động đánh giá chứng cứ. Trong các hoạt động đánh giá chứng cứ của các chủ
thể thì hoạt động đánh giá chứng cứ của Tòa án là quan trọng nhất vì Tòa án là
ngƣời đƣợc sử dụng kết quả đánh giá chứng cứ của mình để giải quyết vụ việc dân
sự. Kết quả đánh giá chứng cứ của các chủ thể khác nhƣ đƣơng sự, ngƣời đại diện
của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích của đƣơng sự…chỉ có tính chất để tham
khảo, Tòa án không bắt buộc phải sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự. Để đánh
giá chứng cứ đƣợc đúng thì việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện và
chính xác.
2.4. Chứng minh trong tố tụng dân sự ở các cấp xét xử
2.4.1. Chứng minh trong tố tụng dân sự ở cấp xét xử sơ thẩm
Việc giải quyết vụ việc dân sự có thể đƣợc thực hiện ở các hai cấp xét xử:
Cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Cấp xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu
tiên, tập trung các hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng; toàn bộ những
yêu cầu của các bên đƣơng sự và chứng cứ, tài liệu của vụ việc đƣợc xem xét, đánh
giá trực tiếp, khách quan, toàn diện và công khai. Tuy vậy, trong mỗi giai đoạn của
tố tụng sơ thẩm vai trò của các chủ thể chứng minh, đặc biệt là Tòa án và các bên
đƣơng sự chứng minh làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự có những
điểm khác biệt nhất định.
Trong giai đoạn khởi kiện, yêu cầu và thụ lý vụ việc dân sự, theo nguyên tắc
bên nào đƣa ra yêu cầu trƣớc thì có nghĩa vụ chứng minh cho nên nguyên đơn,
18
ngƣời yêu cầu là ngƣời có nghĩa vụ chứng minh trƣớc. Vì vậy, khi khởi kiện vụ án
dân sự hoặc đƣa ra yêu cầu giải quyết việc dân sự, ngƣời khởi kiện, ngƣời đƣa ra
yêu cầu giải quyết việc dân sự phải nộp kèm theo đơn khởi kiện vụ án dân sự, đơn
yêu cầu giải quyết việc dân sự các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy vậy, đối với nhiều vụ án nhƣ vụ
án yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại do ô nhiễm môi trƣờng, bồi thƣờng thiệt hại do
công trình xây dựng gây ra… việc thu thập các tài liệu, chứng cứ rất khó khăn do
liên quan đến nhiều cơ quan chuyên môn khác nhau. Do đó, không thể đòi hỏi
đƣơng sự phải nộp ngay khi nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự
tất cả các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc dân sự đƣợc. Vì vậy, yêu cầu này
đặt ra chỉ mang tính tƣơng đối, nghĩa là khi khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân
sự ngƣời khởi kiện, ngƣời yêu cầu nếu chƣa nộp ngay đủ chứng cứ, tài liệu Tòa án
vẫn phải đƣợc chấp nhận thụ lý vụ việc để giải quyết mới hợp lý và sau đó trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp bổ sung những
chứng cứ, tài liệu còn thiếu hoặc Tòa án hỗ trợ họ thu thập những chứng cứ, tài liệu
còn thiếu.
Trong giai đoạn chuẩn bị mở phiên tòa, phiên họp sơ thẩm dân sự, Tòa án lập
hồ sơ vụ việc dân sự, các đƣơng sự có thể thực hiện các hoạt động chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, các bên đƣơng sự phải biết tất
cả những chứng cứ, tài liệu do đƣơng sự khác cung cấp và do Tòa án thu thập. Để
giải quyết vấn đề này pháp luật tố tụng dân sự các nƣớc và Việt Nam đều quy định
theo hƣớng sau khi thụ lý vụ án các bên đƣơng sự phải thông báo cho nhau hoặc
Toà án phải thông báo cho các đƣơng sự về những yêu cầu của đƣơng sự bên kia
đƣa ra và những chứng cứ, tài liệu mà họ đã giao nộp cho Toà án. Và ngƣời đƣợc
thông báo, trong một thời hạn nhất định do Tòa án ấn định có quyền đƣa ra ý kiến
của mình đối với yêu cầu của ngƣời khác và các chứng cứ, tài liệu kèm theo để
chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong một số trƣờng hợp,
nếu đƣơng sự không thể thực hiện đƣợc việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho
Toà án thì Toà án áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để thu thập chứng
cứ.
Tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm dân sự, tập trung các hoạt động chứng minh
của các chủ thể tố tụng dân sự. Theo đó, các đƣơng sự trình bày về yêu cầu, phản
đối yêu cầu của mình và đƣa ra ý kiến đánh giá chứng cứ, căn cứ pháp lý và lập
luận chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Các đƣơng sự có quyền
đƣa ra câu hỏi đối với ngƣời khác về những vấn đề liên quan đến vụ việc dân sự,
đƣợc tranh luận về các vấn đề của vụ việc và đối chất với nhau hoặc với ngƣời làm
chứng. Tại phiên tòa, các đƣơng sự vẫn có quyền thay đổi yêu cầu nhƣng không thể