Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.36 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ LOAN

PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ
CÔNG TY ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại học
Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật Kinh tế
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương trình
sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng viên
– PGS. TS Trần Ngọc Dũng, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2015
Học viên

NGUYỄN THỊ LOAN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại
chúng ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là do bản thân tự thực
hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm
của riêng mình. Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo PGS.TS Trần Ngọc Dũng. Những phần sử dụng
tài liệu tham khảo trong luận văn đã được trích dẫn và nêu rõ nguồn trong phần tài
liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của
luận văn này.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn
Học viên

NGUYỄN THỊ LOAN


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU

1

1.


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG VÀ

5

PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG

1.1. Khái quát về đặc điểm của công ty đại chúng. Cơ cấu tổ chức, quản
5
lý công ty đại chúng
1.2. Tại sai pháp luật phải điều chỉnh việc tổ chức, quản lý công ty đại
11
chúng
1.3. Hệ thống các quy định pháp luật của Việt Nam về tổ chức, quản lý
13
công ty đại chúng
1.4. Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về tổ
15
chức và quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam
1.5. Pháp luật của một số nước về tổ chức, quản lý công ty đại chúng và
18
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.

CHƯƠNG 2
NHỮNG BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ

23

CÔNG TY ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM

2.1. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty đại
23
chúng.
2.2. Các quy định về cơ cấu tổ chức (hệ thống các cơ quan quản lý, kiểm
28
soát) của công ty đại chúng.


2.3. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý, kiểm
35
soát trong công ty đại chúng
2.4. Các quy định về kiểm soát các giao dịch dễ phát sinh tư lợi giữa
46
công ty đại chúng và những người có liên quan
2.5. Các quy định về báo cáo và công bố thông tin của công ty đại chúng
3.

51

CHƯƠNG 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ

56

CÔNG TY ĐẠI CHÚNG Ở VIỆT NAM
3.1. Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại
56
chúng ở Việt Nam
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại
57

chúng ở Việt Nam
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại
58
chúng ở Việt Nam
3.4. Các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy định về tổ chức,
68
quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam
KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKS

: Ban kiểm soát

CTCP

: Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

GĐ (TGĐ)


: Giám đốc (Tổng giám đốc)

HĐQT

: Hội đồng quản trị

LDN

: Luật doanh nghiệp

OECD

:Organization for Economic Cooperation and Development
(Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế)

QTCT

: Quản trị công ty

SGDCK

: Sở giao dịch chứng khoán

TAND

: Tòa án nhân dân

TNHH


: Trách nhiệm hữu hạn

TTCK

: TTCK

UBCKNN

: Ủy ban chứng khoán Nhà nước

WB

: World Bank (Ngân hàng Thế giới)

WTO

: World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới)


-1-

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề tổ chức, quản lý các công ty theo cơ chế thị trường đã được
đề cập trong nhiều văn bản pháp luật kể từ khi đổi mới quản lý kinh tế đến nay. Tổ
chức, quản lý nội bộ công ty đang ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng doanh
nghiệp và các nhà xây dựng pháp luật về doanh nghiệp. Cùng với quá trình hoàn thiện
môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, khung quản trị về công ty cũng đã từng
bước được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện. Cho đến nay, khung quản lý nội bộ công
ty ở Việt Nam khá phù hợp với các yêu cầu và nguyên tắc quản trị phổ biến được thừa

nhận trên thế giới. Tuy nhiên, việc tổ chức vận hành các doanh nghiệp theo các quy
định pháp luật trên thực tế vẫn còn không ít những tồn tại cho thấy vấn đề xác định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm của các bộ phận trong bộ máy quản lý doanh nghiệp là hết
sức quan trọng. Những sự cố thường xuyên gặp phải trong hoạt động của doanh nghiệp
do thiếu những quy định phù hợp về tổ chức, quản lý đòi hỏi phải có những thay đổi
phù hợp.
Số lượng các nhà nghiên cứu và các công trình nghiên cứu về quản trị công ty tại
Việt Nam đang dần tăng lên. Các tác giả sử dụng các phương pháp định lượng, dựa
trên các mô hình và công cụ nghiên cứu, hệ thống các tiêu chuẩn quản trị công ty đã
hình thành tại các nước để tiến hành đánh giá trình độ quản trị công ty ở khung khổ vĩ
mô và ở cấp độ doanh nghiệp. Sự đánh giá tập trung vào một số vấn đề như quyền và
nghĩa vụ của cổ đông, cấu trúc HĐQT, kiểm toán, thù lao và trình độ đào tạo của thành
viên HĐQT, đối xử bình đẳng với cổ đông, vai trò của các bên có quyền lợi liên quan,
tính công khai - minh bạch, trách nhiệm của HĐQT và BKS. Hầu hết các công trình
đều nghiên cứu loại hình CTCP với các nội dung riêng biệt như ĐHĐCĐ, HĐQT, cổ
đông, cổ phần, huy động vốn,… mà chưa đi sâu nghiên cứu từng loại hình công ty cổ
phần cụ thể, đặc biệt là công ty đại chúng. Các công ty đại chúng với quy mô lớn và
hoạt động kinh doanh sôi động có ảnh hưởng lớn đến TTCK, thị trường đầu tư ở Việt
Nam, mà rộng hơn còn ảnh hưởng đến nền kinh tế- xã hội của quốc gia. Tìm hiểu về tổ
chức, quản lý công ty đại chúng là một vấn đề cần được nghiên cứu chuyên sâu. Do
vậy, luận văn này tiếp cận việc tổ chức, quản lý công ty đại chúng dưới góc độ pháp
lý, để đưa ra những sự phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam hiện nay.


-2-

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dù TTCK và công ty đại chúng đã tồn tại và phát triển được gần 20 năm tại Việt
Nam, song các công trình nghiên cứu pháp luật về công ty đại chúng là rất ít. Các đề

tài nghiên cứu về quản trị công ty đại chúng chủ yếu là dưới góc độ kinh tế. Còn dưới
góc độ pháp lý, việc tìm hiểu công ty đại chúng mới được đề cập trong một số khóa
luận mang tính chung chung “Tìm hiểu về pháp luật công ty đại chúng” của Đoàn
Thanh Huyền (2007), Vũ Thị Chuyện (2008), Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn
Tuấn Anh (2009) - trường Đại học Luật Hà Nội. Những công trình này chủ yếu tìm
hiểu khái niệm công ty đại chúng, đặc điểm, quy trình thành lập và đăng kí hoạt động
công ty đại chúng, chế độ công bố thông tin, chào bán chứng khoán. Vấn đề quản trị
công ty đại chúng chỉ được đề cập trong một phần nhỏ, chỉ nêu các quyền, nghĩa vụ
của các cơ quan quản lý công ty. Luận văn thạc sĩ Luật học của Hà Thị Thu Hằng
(2010) (Khoa Luật- Đại học quốc gia Hà Nội) nghiên cứu “Pháp luật về quản trị công
ty đại chúng, thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ phần VINAFCO”. Luận văn đã
nghiên cứu làm rõ khái niệm và khung pháp luật và thể chế cho quản trị công ty nói
chung và quản trị công ty đại chúng nói riêng, mô hình, cách thức quản trị công ty đại
chúng ở Việt Nam và các nước trên thế giới. Nhưng Luận văn lại đi sâu tìm hiểu về
quá trình hình thành và phát triển, mô hình, cách thức quản trị VINAFCO từ khi công
ty được công nhận là công ty đại chúng để đánh giá ưu điểm và nhược điểm của pháp
luật hiện hành về quản trị công ty áp dụng vào quản trị công ty VINAFCO. Như vậy,
Luận văn mới chỉ nghiên cứu pháp luật về quản trị công ty đại chúng dựa trên một
công ty đại chúng cụ thể, mà chưa nghiên cứu vấn đề pháp luật về tổ chức, quản lý công
ty đại chúng nói chung ở Việt Nam. Luận văn thạc sĩ Luật học của Đỗ Thị Vân Nhung
(2012) nghiên cứu “Pháp luật về quản trị công ty niêm yết ở Việt Nam hiện nay - Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” - trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đề cập
đến các nguyên tắc quản trị công ty của OECD, nội dung pháp luật quản trị công ty
niêm yết, thực trạng pháp luật quản trị công ty niêm yết. Luận văn đã đưa ra những
giải pháp để nâng cao năng lực quản trị công ty niêm yết nhưng chưa đưa ra được các
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quản trị công ty. Công ty niêm yết chỉ tương
đồng với các đặc điểm của công ty đại chúng quy mô lớn, chứ không phải công ty đại
chúng nói chung. Việc tìm hiểu công ty niêm yết cho thấy phần nào các quy định pháp
luật về công ty đại chúng chứ không phải toàn bộ quy định pháp luật về công ty đại
chúng. Đề cập trực tiếp đến vấn đề quản trị công ty đại chúng, đến nay mới chỉ có bài



-3-

tạp chí “Một số vấn đề pháp lý về quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam” của tác giả
Hà Thị Thanh Bình (2013), đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 5/2013. Bài viết mới
chỉ bước đầu khái quát về công ty đại chúng và nêu ra những điểm khác biệt giữa
Thông tư số 121/2012/TT-BTC về những vấn đề nổi cộm trong quản trị công ty đại
chúng như bảo vệ cổ đông công ty đại chúng, hoạt động của HĐQT, BKS, kiểm soát
các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi và công bố thông tin của công ty đại chúng,
chứ chưa đi sâu phân tích, làm rõ những quy định pháp luật về tổ chức, quản lý công
ty đại chúng và thực trạng áp dụng những quy định đó. Cho đến nay, chưa có công
trình chuyên sâu nào ở Việt Nam viết về pháp luật tổ chức, quản lý công ty đại chúng.
3. Phạm nghiên cứu đề tài
Đề tài “Pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức
quản lý công ty đại chúng, sự vận hành hoạt động của các cơ quan quản lý, kiểm soát
trong công ty, vấn đề cổ đông trong công ty và bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ, ngăn
ngừa lợi ích xung đột giữa công ty và người có liên quan. Cụ thể, việc nghiên cứu đề
tài bao gồm những vấn đề sau:
- Khái quát quá trình hình thành, phát triển, của pháp luật quản trị công ty đại
chúng đại chúng tại Việt Nam.
- Nội dung pháp luật quy định về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam,
sự kế thừa, phát triển và hoàn thiện của những văn bản pháp luật này và so sánh với
pháp luật một số nước trên thế giới, thực trạng áp dụng các quy định đó.
- Đánh giá các quy định pháp luật về tổ chức, quản lý các công ty đại chúng tại
Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức, quản lý
công ty đại chúng tại Việt Nam.
4. Mục đích và đối tượng của việc nghiên cứu đề tài
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật và thực thi có hiệu quả pháp luật về tổ chức, quản lý công ty
đại chúng ở Việt Nam hiện nay.
* Đối tượng của việc nghiên cứu đề tài:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức, quản lý công ty đại chúng theo quy
định của pháp luật hiện hành. Những vấn đề này được nghiên cứu trong phạm vi các
quy định của LDN (2014) về tổ chức, quản lý công ty cổ phần, Luật Chứng Khoán
(2006) (sửa đổi bổ sung năm 2010) về công ty đại chúng. Thông tư số 121/2012/TT-


-4-

BTC ngày 26/7/2012 của Bộ Tài chính quy định về quy chế quản trị áp dụng cho công
ty đại chúng, Thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/4/2012 của Bộ Tài chính hướng
dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK và có sự so sánh với pháp luật một số quốc
gia trên thế giới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện dựa trên nền tảng phương pháp luận biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác – Lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quán
triệt đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống
pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế; với các phương pháp nghiên cứu cụ thể
thích hợp như: tiếp cận hệ thống, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, phân tích,
chuyên gia... để đánh giá thực trạng quy định pháp luật cũng như hiệu quả thực thi quy
định pháp luật trên thực tế.
6. Những điểm mới của luận văn
Những điểm mới của đề tài nghiên cứu này là:
a) Đưa ra được một cái nhìn khái quát về quá trình hình thành, phát triển của
công ty đại chúng và pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam;
b) Phân tích và làm nổi bật những đặc điểm của pháp luật về tổ chức, quản lý
công ty đại chúng ở Việt Nam;

c) So sánh pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam với pháp
luật về công ty đại chúng của một số nước trên thế giới;
d) Nêu phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực thi có hiệu quả
pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam.
Có thể nói luận văn là một công trình hoàn toàn mới, nghiên cứu chuyên sâu
pháp luật tổ chức, quản lý của công ty đại chúng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: Lời nói đầu; ba chương, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham
khảo. Ba chương của luận văn là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức, quản lý công ty đại chúng và pháp
luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt
Nam;
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở Việt
Nam.


-5-

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG VÀ PHÁP
LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TY ĐẠI CHÚNG
1.1. Khái quát về đặc điểm của công ty đại chúng. Cơ cấu tổ chức, quản lý công ty
đại chúng
1.1.1. Khái niệm công ty đại chúng
Quy định về công ty đại chúng đã có lịch sử phát triển lâu dài trong pháp luật
chứng khoán của các nước có TTCK phát triển. Thuật ngữ “công ty đại chúng” có
nguồn gốc từ triết lý pháp luật phương Tây, lấy cá nhân làm chủ thể pháp luật trong
các giao dịch để quy nạp mọi tổ chức kinh doanh dưới tiêu chí “pháp nhân”. Tùy theo
pháp luật từng quốc gia mà các tổ chức kinh doanh được định hình theo ba loại chính:

(i) công ty, (ii) hợp danh, (iii) cá nhân kinh doanh [22; tr.250]. Sau đó, các học giả
phương Tây tiếp tục chia (i) công ty thành hai hình thức công ty nội bộ (private
company hay held privately held corporation) [42] và công ty đại chúng (public
limited company). Pháp luật của Anh, Mỹ và Úc và một số nước khác đều quy định
“công ty đại chúng” trong Luật Công ty. Ví dụ, theo Luật Công ty của Anh (the
Companies Act 2006 – gọi tắt UKCA 2006), công ty đại chúng được gọi là public
limited company (viết tắt là Plc) [43]. Một Plc cần số vốn tối thiểu 50.000 bảng Anh,
được huy động vốn và giao dịch cổ phần không hạn chế, số cổ đông tham gia không
giới hạn và có tối thiểu hai thành viên quản trị thường trực. Tương tự, theo pháp luật
của Mỹ, công ty đại chúng có tên gọi là C Corporation nhằm phân biệt S Corporation
là hình thức công ty chỉ phát hành một loại cổ phần duy nhất, số cổ đông không vượt
quá 100, cổ đông phải là cá nhân và mang quốc tịch Mỹ [44]. Đối với những nước mà
Luật Công ty không đề cập thì Luật Chứng khoán có những quy định cụ thể [27;
tr.103-104]: Điều 110 Luật Chứng khoán của Bungari quy định: “Công ty đại chúng là
công ty: đã phát hành cổ phần của công ty theo các điều kiện của việc phát hành ra
công chúng lần đầu, hoặc đã đăng ký với Ủy ban chứng khoán về việc phát hành chứng
khoán với mục đích tham gia giao dịch tại TTCK được quản lý”. Luật Chứng khoán của
Ba Lan (Khoản 4, Điều 4) quy định: “Công ty đại chúng là công ty có cổ phiếu của ít
nhất một lần phát hành được chấp thuận cho giao dịch nơi công chúng”.
Ở Việt Nam, trước khi Luật Chứng khoán (2006) được ban hành, pháp luật về
chứng khoán và TTCK chưa có thuật ngữ “công ty đại chúng”. Thực tế đã xuất hiện
mô hình công ty đại chúng dưới dạng: (a) Các công ty niêm yết phát hành chứng


-6-

khoán số lượng lớn ra công chúng (Quyết định số 07/2002/QĐ-VPCP về việc ban
hành Điều lệ Mẫu áp dụng công ty niêm yết); hoặc (b) CTCP phát hành riêng lẻ nhiều
lần có số lượng cổ đông lớn, theo Luật Doanh Nghiệp 1990, 1999; và (c) doanh nghiệp
nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Điều bất cập giữa ba mô hình này là nghĩa vụ minh

bạch, công khai hóa thông tin. Đây là quy định bắt buộc đối với các công ty niêm yết
(mô hình a) trong thời kỳ đó. Về vốn và quy mô thì cả ba mô hình trên đều tương đồng,
trong khi đó các công ty niêm yết phải thực hiện nghĩa vụ trên một cách chặt chẽ. Đó
chính là trở ngại chủ yếu khiến các mô hình (b) và (c) ngại đưa chứng khoán ra niêm
yết. Luật Chứng khoán (2006) đã xây dựng một chương riêng về công ty đại chúng.
Theo Điều 25, Luật Chứng khoán (2006) và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Chứng khoán (2010) quy định công ty đại chúng là CTCP thuộc ba loại hình sau đây:
- Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng. Đây là hoạt động phát
hành cổ phiếu ra công chúng và được thực hiện theo một trong ba cách thức: (i) Thông
qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet; (ii) Chào bán chứng khoán cho từ
một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; (iii)
Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
- Công ty có cổ phần được niêm yết tại SGDCK; tức công ty đưa chứng khoán có
đủ điều kiện vào giao dịch tại SGDCK.
- Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu
tư chứng khoán chuyên nghiệp và vốn đều lệ đã góp từ mười tỷ đồng trở lên.
Xác định khái niệm công ty đại chúng ràng buộc nghĩa vụ của các nhóm chủ thể
này trong việc tuân thủ các quy định về báo cáo và công bố thông tin. Bởi vì, ảnh hưởng
của loại hình công ty này đối với TTCK hết sức to lớn. Khi công ty có quy mô lớn, sự
ảnh hưởng đó càng nhiều, đặt ra yêu cầu phải quy định để tổ chức, quản lý nó một cách
có hiệu quả nhất, tránh sự biến động của thị trường do nó gây ra.
1.1.2. Đặc điểm công ty đại chúng
Công ty đại chúng là một hình thức điển hình của CTCP. Công ty đại chúng
trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của CTCP, đó là: Thứ nhất, vốn điều lệ
của công ty đại chúng được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần (Điểm a,
Khoản 1, Điều 110 LDN 2014). Cổ phần của công ty được thể hiện dưới hình thức
chứng khoán là cổ phiếu. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số
cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty trong vòng 3 năm sau khi thành
lập. Thứ hai, theo quy định của LDN (2014) và Luật Chứng khoán (2006), công ty đại
chúng được phép phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật



-7-

về chứng khoán để huy động vốn. Về chuyển nhượng vốn, các cổ đông của công ty đại
chúng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường
hợp quy định tại Khoản 3, Điều 119 và Khoản 1, Điều 126 LDN (2014). Mức độ tự do
chuyển nhượng cổ phần phụ thuộc vào tính chất của từng loại cổ phần. Thứ ba, là loại
hình công ty đối vốn, công ty đại chúng phải tự chịu trách nhiệm một cách độc lập về
các nghĩa vụ tài sản bằng toàn bộ tài sản của công ty. Cổ đông công ty đại chúng chịu
trách nhiệm hữu hạn về nợ và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số vốn đã góp vào công
ty. Thông qua người đại diện của mình theo quy định của pháp luật, công ty đại chúng
có thể trở thành nguyên đơn hay bị đơn trong các vụ án dân sự.
Bên cạnh những đặc điểm chung của CTCP như trên, công ty đại chúng còn có
những điểm đặc thù phù hợp với tính chất và quy mô công ty, đó là:
- Thứ nhất là tính “đại chúng của sở hữu công ty”: Chủ sở hữu công ty đại
chúng (các cổ đông) thường rất đông, bởi vì công ty đại chúng là những công ty chào
bán cổ phiếu ra công chúng hoặc công ty niêm yết. Số lượng những người mua cổ phiếu
và trở thành cổ đông của công ty thường rất lớn. Đối với công ty đại chúng không thực
hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng và cũng không có cổ phiếu niêm yết thì phải có cổ
phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp. Công ty đại chúng là một loại hình CTCP có quy mô lớn, do một số
lượng lớn cổ đông sở hữu. Sở hữu của công ty đại chúng có tính đại chúng rộng rãi.
- Thứ hai, công ty đại chúng phải đạt một trong ba điều kiện sau:
Một là, đã thực hiện việc chào bán cổ phiếu ra công chúng: CTCP đáp ứng đầy
đủ các điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng và đã thực hiện các thủ tục chào bán
cổ phiếu ra công chúng sẽ trở thành công ty đại chúng [17; tr.7]. Công ty đó phải có
vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng trở lên tính theo giá
trị ghi trên sổ kế toán; hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán
phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính theo năm đăng ký chào bán; có phương

án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được ĐHĐCĐ thông
qua; công ty đại chúng đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng phải cam kết đưa
chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán
được ĐHĐCĐ thông qua, CTCP muốn trở thành công ty đại chúng còn phải thực hiện
các thủ tục đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng, có hồ sơ đăng ký chào bán cổ
phiếu ra công chúng hợp lệ và thực hiện phân phối cổ phiếu tới công chúng.
Hai là, có cổ phiếu được niêm yết tại SGDCK hoặc trung tâm giao dịch chứng
khoán. Công ty đại chúng phải thực hiện niêm yết cổ phiếu tại SGDCK hoặc trung tâm


-8-

giao dịch chứng khoán. Để được niêm yết cổ phiếu, CTCP đó phải đáp ứng những
điều kiện sau: (i) có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm niêm yết từ 120 tỷ đồng (nếu
niêm yết tại SGDCK TP. Hồ Chí Minh) hoặc 30 tỷ đồng (nếu niêm yết tại SGDCK Hà
Nội) trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán tại thời điểm đăng ký niêm yết; (ii)
hoạt động của 2 năm (niêm yết tại SGDCK) hoặc 01 năm (nếu niêm yết tại trung tâm
giao dịch chứng khoán), tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm gần
nhất tối thiểu là 5% và hoạt động kinh doanh của hai năm liền trước năm đăng ký niêm
yết phải có lãi; không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm; không có lỗ luỹ
kế tính đến năm đăng ký niêm yết; tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán báo
cáo tài chính tính đến năm đăng ký niêm yết; (iii) có hồ sơ đăng ký niêm yết hợp lệ…
Ngoài ra, công ty đại chúng còn phải thực hiện thủ tục đăng ký niêm yết tại SGDCK
hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán
Ba là, có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng trở lên. Công ty
cổ phần có từ một trăm nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu, đồng thời có vốn điều lệ đã góp từ
mười tỷ đồng trở lên được thừa nhận là công ty đại chúng. Công ty cổ phần rơi vào
trường hợp này, tuy chưa thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng và chưa thực hiện
niêm yết cổ phiếu, vẫn phải nộp hồ sơ công ty đại chúng và có các nghĩa vụ riêng biệt

của công ty đại chúng.
- Thứ ba, công ty đại chúng còn phải tuân thủ các nghĩa vụ đặc thù mà CTCP
thường không bị ràng buộc. Đó là các nghĩa vụ riêng biệt được quy định cho công ty
đại chúng, bao gồm: công bố thông tin, tuân thủ các nguyên tắc quản trị công ty theo
quy định của LDN (2014) và các quy định của Bộ Tài chính về quản trị công ty áp dụng
riêng đối với công ty đại chúng; thực hiện đăng ký, lưu ký chứng khoán tập trung tại
Trung tâm lưu ký chứng khoán và các nghĩa vụ khác theo LDN và pháp luật liên quan.
1.1.3. Khái quát cơ cấu tổ chức, quản lý công ty đại chúng
Khái niệm tổ chức, quản lý công ty xuất hiện cùng với sự ra đời của những
CTCP. Đặc thù của loại doanh nghiệp này là những cổ đông bên ngoài công ty có rất ít
cơ hội để biết rằng tiền đầu tư của mình đã được doanh nghiệp sử dụng như thế nào và
phần lợi ích mà họ được chia có cân xứng với giá trị vốn đầu tư và tình hình hoạt động
của công ty hay không. Quản trị công ty chính là “một tập hợp các quy trình, thông lệ,
chính sách, quy tắc và thể chế chi phối cách thức điều hành, quản lý và kiểm soát một
công ty”.


-9-

Không phải mô hình công ty nào cũng đòi hỏi thực hiện quản trị công ty. Trong
các công ty đối nhân hay các công ty đối vốn đơn giản, khi mà tài sản của chủ sở hữu
không có sự tách biệt rõ ràng với khối tài sản của công ty thì yêu cầu về quản trị công
ty không được đặt ra. Vì ở loại hình công ty này, người chủ sở hữu cũng là người điều
hành công ty và công ty hoạt động hoàn toàn dựa trên sự tài trợ về vốn của chủ sở hữu.
Trong một số trường hợp đặc biệt (ví dụ như công ty đối nhân vay vốn ngân hàng), thì
quản trị công ty có thể được phát sinh vì chủ nợ cần đảm bảo rằng công ty được điều
hành một cách có hiệu quả để trả lại tiền vay cho họ. Vấn đề quản trị công ty được đặt
ra đối với các công ty đối vốn (công ty TNHH hay CTCP) khi mà người sở hữu công
ty không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành công ty (đặc biệt ở các CTCP đại
chúng, là loại hình công ty có số lượng cổ đông đông đảo và đa dạng nhất) [2; tr.18].

Quản trị công ty hay tổ chức quản lý công ty có hai mục tiêu chính: (i )tối đa hóa
giá trị cổ phiếu và (ii) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông nhỏ và người
có quyền lợi liên quan. Mục tiêu tối đa hóa giá trị cổ đông đòi hỏi các nguyên tắc quản
trị công ty phải được thực hiện sao cho công ty hoạt động sinh lời và giá trị đầu tư của
cổ đông liên tục tăng trưởng, thể hiện ở giá cổ phiếu trên thị trường. Mục tiêu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông nhỏ và người có quyền lợi liên quan yêu cầu
công ty thực hiện các nguyên tắc về đảm bảo thực thi quyền cổ đông một cách công
bằng thông qua hoạt động của HĐQT, ĐHĐCĐ, tránh xung đột lợi ích và công bố
thông tin đầy đủ trên TTCK. Theo thông lệ quốc tế, có 4 nhóm nguyên tắc quản trị
công ty chính được áp dụng với mọi CTCP, trong đó có công ty đại chúng, bao gồm:
(i) Các nguyên tắc về cơ cấu, tổ chức của công ty đại chúng, bao gồm các nguyên
tắc về cơ cấu HĐQT, ban GĐ, BKS, cơ chế hoạt động, phối hợp và chế độ thù lao của
các bộ máy này. Nhóm nguyên tắc này đảm bảo rằng CTCP có bộ máy cần thiết để
HĐQT- người đại diện cho quyền, lợi ích của các cổ đông - có thể vận hành và quản lý
công ty một cách hiệu quả và sinh lời.
(ii) Các nguyên tắc về nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên HĐQT và ban GĐ
trước cổ đông, những người có liên quan và xã hội. Đây là nhóm nguyên tắc nhằm
đảm bảo rằng thành viên của hai bộ máy vận hành công ty thực hiện đầy đủ trách
nhiệm, nghĩa vụ vì lợi ích tối cao của cổ đông, những người có liên quan đến công ty
(stakeholders), bao gồm nhân viên, những người làm công cho công ty, nhà cung cấp,
chủ nợ, khách hàng, người tiêu dùng, cơ quan quản lý và cộng đồng (xã hội).
(iii) Các nguyên tắc về thực hiện quyền của cổ đông và ĐHĐCĐ. Đây là nhóm
các nguyên tắc về quyền của cổ đông và thực hiện các quyền của cổ đông thông qua cơ


- 10 -

quan quyền lực tối cao là ĐHĐCĐ, phương thức triệu tập, tổ chức và biểu quyết tại
ĐHĐCĐ để thông qua những vấn đề điều hành và quản lý công ty. ĐHĐCĐ là phương
tiện để cổ đông thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong CTCP.

(iv) Các nguyên tắc về minh bạch và công bố thông tin. Đây là nhóm các nguyên
tắc nhằm bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động của công ty đại chúng thông qua
việc thực hiện công bố thông tin, lập báo cáo tài chính và kiểm toán các báo cáo tài
chính. Báo cáo tài chính được lập một cách trung thực, được kiểm toán và việc công
bố thông tin đầy đủ là căn cứ để cổ đông có thể nắm bắt, đánh giá tình hình hoạt động
kinh doanh và tài chính của công ty, biết được đồng vốn đầu tư của mình đang được
sinh lời ra sao, lợi nhuận đầu tư có được quản lý và phân bổ một cách công bằng, hợp
lý hay không. Bên cạnh đó, báo cáo tài chính và thông tin được công bố cũng là nguồn
thông tin quan trọng để các chủ nợ, đối tác, nhà cung cấp, cơ quan quản lý, những
người hưởng lợi khác từ công ty, nhằm đưa ra những quyết định phù hợp trong mối
quan hệ của những chủ thể này với công ty đại chúng [26; tr.40].
Bốn nhóm nguyên tắc trên phù hợp với mọi CTCP đại chúng, trên mọi lĩnh vực.
Mô hình quản trị công ty đại chúng được tổ chức phải phù hợp, đảm bảo các nguyên
tắc trên.
Tổ chức, quản lý của công ty đại chúng được quy định tại LDN (2014), được cụ
thể hóa tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 26 tháng 7
năm 2012 quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại chúng (Thông tư
số 121/2012/TT-BTC). Các quy định về cơ chế quản trị công ty đại chúng theo Thông
tư số 121/2012/TT-BTC có sự phân định giữa công ty đại chúng có quy mô nhỏ và
công ty đại chúng có quy mô lớn.
Công ty đại chúng có quy mô lớn là công ty đại chúng có vốn điều lệ thực góp từ
120 tỷ đồng trở lên được xác định tại báo cáo tài chính năm gần nhất có kiểm toán
hoặc theo kết quả phát hành gần nhất và có số lượng cổ đông không thấp hơn 300 tại
thời điểm chốt danh sách cổ đông tại Trung tâm lưu ký chứng khoán vào ngày 1 tháng
12 hằng năm (theo danh sách do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước công bố). Mô hình
quản trị công ty đại chúng có quy mô lớn được quy định tương tự mô hình quản trị
công ty niêm yết. Nó chỉ khác mô hình quản trị công ty đại chúng có quy mô nhỏ là có
thêm các tiểu ban hỗ trợ hoạt động của HĐQT hoặc các thành viên độc lập phụ trách
các vấn đề tương ứng và thư ký công ty. Công ty đại chúng quy mô nhỏ thì không có
những thành viên này. Cấu trúc mô hình quản trị công ty đại chúng được quy định



- 11 -

tương tự như CTCP thông thường mà LDN đã ghi nhận, bao gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT,
GĐ (TGĐ) và BKS.
1.2. Tại sao pháp luật phải điều chỉnh việc tổ chức, quản lý công ty đại chúng?.
Pháp luật về công ty đại chúng là một chế định trong ngành luật kinh tế. Chế
định pháp luật công ty đại chúng bao gồm những quy phạm pháp luật về công ty đại
chúng nằm rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như LDN, Luật Chứng
khoán, Luật Kế toán…, các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành. Trước Luật
Chứng khoán (2006) cũng có một số quy định về công ty đại chúng trong các nghị
định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn. Trong Luật Chứng khoán (2006) (sửa đổi bổ sung
năm 2010) địa vị pháp lý của công ty đại chúng được quy định tại Chương III. Vấn đề
tổ chức, quản lý công ty đại chúng được Bộ Tài chính quy định cụ thể tại Thông tư số
121/2013/TT-BTC. Quy định chính thức về tổ chức, quản lý công ty đại chúng được lý
giải bởi một số lý do sau đây:
Thứ nhất, quy định cụ thể về công ty đại chúng phù hợp với chuẩn mực quốc tế
của IOSCO và các nguyên tắc quản trị công ty được áp dụng phổ biến trên thế giới. Đó
là việc các công ty có chứng khoán được sở hữu rộng rãi bởi công chúng và các bên
liên quan phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin thường xuyên về tình trạng tài
chính cũng như các sự kiện quan trọng của công ty nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà
đầu tư và công chúng. Việt Nam là thành viên của WTO từ ngày 7/11/2006. Việc xây
dựng chính sách, pháp luật phù hợp với các chuẩn mực của pháp luật và tập quán quốc
tế là cần thiết. Việc quy định về công ty đại chúng với các quyền và nghĩa vụ cụ thể là
phù hợp và chính đáng.
Thứ hai, ảnh hưởng của công ty đại chúng tới TTCK hết sức to lớn. Công ty đại
chúng là CTCP có chứng khoán được công chúng sở hữu một cách rộng rãi, cung cấp
một lượng hàng hóa lớn cho TTCK. Công chúng phải có quyền được biết các thông tin
quan trọng của công ty đại chúng, đặc biệt là các thông tin liên quan đến tình trạng tài

chính, các kế hoạch kinh doanh, những người chịu trách nhiệm về việc làm ăn của
công ty…Những thông tin này gắn liền với lợi ích của công chúng và đóng vai trò
định hướng cho công chúng quyết định đầu tư vào một công ty. Nếu những thông tin
quan trọng đó bị bưng bít, khi công ty đại chúng làm ăn thua lỗ hoặc bị chấm dứt hoạt
động (bị phá sản hoặc bị giải thể) thì người chịu thiệt trước hết là công chúng đầu tư,
sau đó mới đến TTCK. Công ty đại chúng thường là những công ty có tầm vóc lớn
trong nền kinh tế, cung cấp một lượng hàng hóa lớn cho TTCK, nên khi công ty đại
chúng làm ăn thua lỗ, lâm vào tình trạng phá sản hoặc bị giải thể sẽ gây bất ổn, khủng


- 12 -

hoảng cho TTCK. Vì thế cần quy định một cơ chế tổ chức quản lý riêng biệt cho công
ty đại chúng với các quyền và nghĩa vụ pháp lý riêng biệt, buộc công ty đại chúng phải
tuân thủ để đảm bảo an toàn cho công chúng đầu tư nói riêng và TTCK cùng toàn bộ
nền kinh tế nói chung.
Thứ ba, là do yêu cầu phải bảo vệ lợi ích của quảng đại công chúng đầu tư. Ở
Việt Nam có rất nhiều CTCP đã đủ lớn mạnh để trở thành công ty đại chúng nhưng lại
không có nghĩa vụ công bố thông tin vì pháp luật thời điểm đó chưa có quy định cụ thể
trường hợp nào thì CTCP được coi là công ty đại chúng và đã là công ty đại chúng thì
phải có những nghĩa vụ gì. Vì thế, những CTCP không niêm yết và cũng không chào
bán cổ phiếu ra công chúng tuy đã có số lượng cổ đông lớn (từ một trăm cổ đông trở
lên) không phải nộp hồ sơ công ty đại chúng và cũng không có các nghĩa vụ phải công
bố thông tin, báo cáo tài chính, đăng ký, lưu ký chứng khoán, báo cáo sở hữu của cổ
đông lớn. Khi các thông tin quan trọng về tình hình kinh doanh, tình trạng tài chính …
bị bưng bít, những công ty này vẫn phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn
một cách hợp pháp. Do không có cơ chế kiểm soát đối với các công ty này nên thực
trạng làm ăn của họ ra sao công chúng đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước không
nắm được. Điều đó dễ dẫn đến những nguy hại cho nhà đầu tư, TTCK và cả nền kinh
tế khi các công ty này làm ăn thua lỗ hoặc có mục đích lừa đảo. Vì vậy, việc quy định

chính thức về tổ chức, quản lý của công ty đại chúng buộc những CTCP đã lớn mạnh
và trên thực tế đã trở thành công ty đại chúng phải thi hành các nghĩa vụ của công ty
đại chúng, đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo an toàn cho TTCK.
Thứ tư, quy định về công ty đại chúng với các quyền và nghĩa vụ cụ thể giúp các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền có cơ sở pháp lý để quản lý công ty đại chúng, đảm
bảo an tòan cho công chúng đầu tư nói riêng, TTCK và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Thực tế nước ta có rất nhiều CTCP đủ lớn mạnh để trở thành công ty đại chúng. Trước
Luật Chứng khoán (2006), các công ty này không có nghĩa vụ công bố thông tin và
pháp luật chưa có quy định cụ thể trường hợp nào thì CTCP được coi là công ty đại
chúng, là công ty đại chúng thì phải có nghĩa vụ gì. Vì thế, những CTCP không niêm
yết cũng không chào bán cổ phiếu ra công chúng, tuy đã có số lượng cổ đông lớn (từ
100 cổ đông trở lên) không phải nộp hồ sơ công ty đại chúng và cũng không có nghĩa
vụ phải công bố thông tin, báo cáo tài chính, đăng ký, lưu ký chứng khoán, báo cáo sở
hữu của các cổ đông lớn… Như vậy, các công ty này vẫn có thể phát hành cổ phiếu ra
công chúng, huy động vốn một cách hợp pháp khi làm ăn thua lỗ hoặc với mục đích
lừa đảo. Điều này sẽ ảnh hưởng xấu tới công chúng đầu tư vào TTCK. Quy định cụ thể


- 13 -

về công ty đại chúng giúp nhà nước kiểm soát hoạt động của công ty, hạn chế các rủi
ro có thể xảy ra.
1.3. Hệ thống các quy định pháp luật của Việt Nam về tổ chức, quản lý công ty
đại chúng
Quá trình tổ chức quản lý công ty đại chúng phát sinh mối quan hệ với rất nhiều
chủ thể khác như quan hệ giữa các cổ đông công ty với nhau, giữa công ty với cổ
đông, giữa công ty với các nhà đầu tư, với cơ quan quản lý nhà nước. Để điều chỉnh
các quan hệ đó, Nhà nước ban hành nhiều quy phạm pháp luật nhằm tạo ra hành lang
pháp lý cho hoạt động quản trị công ty đại chúng, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho
các chủ thể tham gia quan hệ, giúp công ty đại chúng hoạt động lành mạnh, có hiệu

quả. Do vậy, pháp luật tổ chức quản lý công ty đại chúng là tập hợp các quy phạm
pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý công ty đại chúng.
Ở nước ta, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khối doanh nghiệp cả nước về
số lượng và quy mô, đặc biệt là sự hình thành các công ty lớn, quản trị doanh nghiệp
đang ngày càng thu hút sự quan tâm lớn của cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan
xây dựng pháp luật. Các quy phạm pháp luật hiện hành về công ty đại chúng nằm
trong các văn bản như:
(i) Hiến pháp
Quyền tự do kinh doanh được coi là quyền cơ bản của công dân và được ghi
nhận trong Hiến pháp của Việt Nam. Khoản 3, Điều 51 Hiến pháp (2013) khẳng định,
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ
chức khác đầu tư, sản xuất kinh doanh. Đây là cơ sở vững chắc cho việc quy định về
các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội ban hành các
văn bản luật nhằm quy định thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp trong đó có CTCP đại chúng.
(ii) Luật Doanh nghiệp
Các quy định về tổ chức, quản lý CTCP hiện đang được quy định chủ yếu và bao
quát trong LDN (2014), bao gồm những quy định về quyền và nghĩa vụ cổ đông
CTCP; cơ cấu tổ chức quản lý CTCP; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ
máy quản lý như ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ (TGĐ), BKS; kiểm soát giao dịch dễ phát sinh
tư lợi cũng như công khai thông tin CTCP. Những quy định này là khung quản lý
chung nhất cho CTCP, công ty đại chúng là một dạng điện hình của CTCP, do vậy
cũng phải tuân thủ những quy định này. LDN (2014) đã khắc phục những hạn chế


- 14 -

trong LDN (2005) về tổ chức, quản lý CTCP. Đồng thời, LDN (2014) cũng tiệm cận
được những nguyên tắc về quản trị doanh nghiệp được áp dụng rộng rãi trên thế giới.

(iii) Luật chứng khoán
Ngoài các quy định chung được quy định tại LDN (2014), việc tổ chức quản lý
công ty đại chúng chuyên ngành còn chịu sự ảnh hưởng của luật chuyên ngành là Luật
Chứng khoán (2006) (sửa đổi, bổ sung năm 2010). Theo Luật Chứng khoán năm
(2006), để trở thành công ty đại chúng thì CTCP phải thỏa mãn những yêu cầu của
pháp luật về vấn đề vốn quy định tại Điều 12 và Điều 25 Luật chứng khoán (2006).
Theo Luật Chứng khoán, công ty đại chúng không chỉ phải tuân thủ các quy định của
LDN (2014) về tổ chức, quản lý doanh nghiệp mà còn phải tuân thủ những quy định
của Bộ Tài chính về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng có cổ phiếu
niêm yết tại SGDCK hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán
(iv)Các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng
Các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng
bao gồm:
- Nghị định số 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010 quy
định chi tiết thi hành một số điều của LDN (2005) liên quan đến thành lập, tổ chức
quản lý, hoạt động, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp;
- Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ban hành ngày 18/7/2011 về chuyển doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty đại chúng;
- Nghị định số 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn và quy định chi tiết một số điều của
Luật Chứng khoán (2006) (sửa đổi, bổ sung năm 2010);
- Thông tư số 121/2013/TT-BTC về quy chế quản trị công ty đại chúng;
- Thông tư số 52/2012/TT-BTC hướng dẫn Nghị định số 58/2012/NĐ-CP về
công bố thông tin;
- Thông tư số 73/2013/TT-BTC hướng dẫn chi tiết một số điều về niêm yết
chứng khoán tại Nghị định số 58/2012/NĐ-CP.
Những văn bản này đã quy định tương đối đầy đủ, chặt chẽ, cụ thể hóa nội dung
cơ bản về quyền, nghĩa vụ của công ty đại chúng nói chung và hoạt động tổ chức, quản
lý công ty đại chúng nói riêng, bao gồm các nội dung sau: Quyền và nghĩa vụ của cổ
đông và vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ trong công ty; Cơ cấu bộ máy quản
trị công ty đại chúng; Nhiệm vụ, quyền hạn và thể thức hoạt động của các cơ quan

quản lý; Kiểm soát những giao dịch lớn và những giao dịch dễ phát sinh tư lợi; Công
bố thông tin và minh bạch tài chính.


- 15 -

Pháp luật về tổ chức, quản lý công ty đại chúng quy định những vấn đề liên quan
đến mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành bộ máy quản lý công ty, bao gồm
ĐHĐCĐ, Ban GĐ, HĐQT, các cổ đông lớn, các cổ đông nhỏ và những bên có quyền
lợi liên quan. Cơ cấu quản trị công ty đại chúng xác định quyền hạn, nghĩa vụ giữa
những thành viên khác nhau trong công ty, bao gồm cổ đông, HĐQT, Ban điều hành,
BKS, và những người liên quan khác của công ty. Các quy định ngăn chặn sự lạm
dụng quyền lực, giảm thiểu những rủi ro cho công ty, đó là những rủi ro liên quan
hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các bên hữu quan, những xung đột lợi ích
tiềm tàng và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về
công bố thông tin và thông tin không minh bạch.
1.4. Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về tổ chức và
quản lý công ty đại chúng ở Việt Nam.
Có thể thấy, pháp luật về tổ chức, quản lý CTCP ở nước ta phát triển khá muộn,
dù pháp luật thương mại đã có lịch sử phát triển từ lâu đời. Luật lệ về công ty lần đầu
tiên được quy định trong “Bộ Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ” với tên
gọi hội hợp cổ (công ty hợp vốn đơn giản). Theo một số nhà nghiên cứu, các quy định
pháp luật thời kỳ này còn rất sơ khai [6; tr.17]. Dưới thời Pháp thuộc, các quy định của
Bộ luật Thương mại Pháp (1807), trong đó có quy định về hình thức CTCP được áp
dụng ở cả ba kỳ tại Việt Nam. Đến năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật
Thương mại Trung phần có hiệu lực áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó có quy định về
CTCP (gọi là công ty vô danh). Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành
Bộ luật Thương mại, trong đó CTCP được gọi là hội nặc danh[29; tr.97].
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng chủ trương chuyển đổi nền kinh tế
kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm

1990, để khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Quốc hội khóa VIII đã
ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên
cho việc hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp đồng thời đưa ra những mầm
mống cho khung quản trị công ty ở nước ta. Về quản trị công ty, Luật Công ty (1990)
mới định hình sơ lược quản trị nội bộ với 10 điều luật. Theo đó, cơ cấu quản trị nội bộ
CTCP gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và Ban
kiểm soát. Theo quy định của Luật Công ty (1990), quyền của GĐ khá sơ sài, chủ yếu
có quyền đươc chia lợi nhuận tương ứng với số cổ phần hoặc phần vốn góp, tham gia
đại hội và biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền. Chưa có sự phân định cụ thể thẩm
quyền và trách nhiệm của ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ điều hành và BKS. Quyền của thành


- 16 -

viên, cổ đông tham gia vào việc quyết định hàng loạt các vấn đề cơ bản của công ty
như hợp nhất, chia tách, sáp nhập... không được quy định.
LDN (1999) kế thừa và phát triển Luật Công ty (1990) với 44 điều. Kể từ sau
LDN (1999), bên cạnh việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cùng việc thay đổi cơ
chế cấp phép sang cơ chế đăng ký kinh doanh và hậu kiểm đã tạo ra làn sóng thành lập
doanh nghiệp của các nhà đầu tư tư nhân [18; tr.100]. LDN (1999) đánh dấu một bước
tiến nhảy vọt trong quá trình hoàn thiện khung quản trị công ty ở nước ta. Khung quản
trị công ty ở nước ra được hình thành với các yếu tố cấu thành như: quyền của các cổ
đông được quy định tương đối đầy đủ và được đối xử tương đối bình đằng; quy định
rõ vai trò, chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan trong cơ cấu quản trị
công ty bao gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ, BKS; khái niệm giao dịch với các bên liên
quan và cơ chế kiểm soát các bên có liên quan cũng được quy định và áp dụng... Từ
năm 2000, khung quản trị công ty ở nước ta đã có bước phát triển và biến đối cơ bản
theo hướng phù hợp với các thông lệ quản trị tốt đã được thừa nhận. Tuy vậy, xét về
khía cạnh pháp lý, khung quản trị đó còn bộc lộ không ít khiếm khuyết, cụ thể là:
- Quyền của cổ đông CTCP vẫn chưa được quy định đầy đủ và chưa được đảm

bảo thực hiện một cách hợp lý trên thực tế;
- Yêu cầu về sự linh hoạt đối với ĐHĐCĐ là tương đối thấp so với thông lệ quốc
tế; trong việc ra quyết định đa số về các vấn đề quan trọng của công ty có nhiều sơ hở
khiến quyền và lợi ích của các cố đông nhỏ không được bảo vệ một cách hợp lý cần
thiết;
- Cơ chế giám sát trực tiếp của các cổ đông, hoặc gián tiếp thông qua các thể chế
như kiểm toán, kiểm soát nội bộ... chưa được quy định đầy đủ, hoặc chưa phát huy
được hiệu lực như mong muốn;
- Các nghĩa vụ của người quản lý chưa được định hình cụ thể và quy định rõ,
gồm nghĩa vụ cẩn trọng, nghĩa vụ trung thành và trung thực;
- Nhóm người có liên quan cũng như sự giám sát các giao dịch của họ với công
ty cũng chưa được quy định đầy đủ và chưa thực hiện có hiệu quả;
- Chưa có các quy định về tiêu chuẩn của người quản lý; về các nguyên tắc xác
định mức thù lao của họ gắn với hiệu quả hoạt động của công ty;
- Chế độ công khai hóa thông tin cho cổ đông, cũng như đối với công chúng đầu
tư còn mờ nhạt, kém hiệu quả [24; tr.26]
Ngoài ra, việc thực hiện các quy định cấu thành quản trị công ty theo LDN
(1999) và Mẫu điều lệ (2002) còn kém hiệu lực; còn có khoảng cách giữa quy định


- 17 -

pháp lý và hiệu lực thực tế của chúng. Những khiếm khuyết nói trên đã làm cho quản
trị công ty theo LDN (1999) trở nên yếu; hạn chế không nhỏ đến sự phát triển của từng
công ty nói riêng và các công ty nói chung ở Việt Nam.
Với định hướng xây dựng pháp luật doanh nghiệp thống nhất cho các nhà đầu tư
thuộc các thành phần kinh tế, cùng mục tiêu nỗ lực tham gia WTO thực hiện các cam
kết quốc tế trong quá trình hội nhập [51], LDN (2005) đưa ra những quy định đầy đủ
chi tiết về loại hình CTCP (53 điều) và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về quản trị
công ty cũng như tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả nhà đầu tư tư nhân. Khi LDN

(2005) được ban hành thống nhất áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp không
phân biệt thành phần kinh tế, những khiếm khuyết trên đã được sửa đổi. Có thể khẳng
định rằng, LDN (2005) là một bước tiến lớn, tạo ra một thay đổi cơ bản trong quá trình
hoàn thiện khung quản trị doanh nghiệp ở nước ta. LDN (2005) đã quy định khá đầy
đủ nội dung, yếu tố cấu thành khung quản trị công ty, nhất là đối với CTCP. Những
nội dung cơ bản của khung quản trị công ty đã tuân thủ và cơ bản phù hợp với nguyên
tắc và thông lệ phổ biến. Đến nay, nội dung quy định tại LDN (2005) hầu như được kế
thừa tại LDN (2014).
Sự ra đời TTCK tại Việt Nam đã góp phần gia tăng lợi thế so sánh giữa CTCP so
với các loại hình doanh nghiệp khác [5] với đặc điểm đại chúng hóa CTCP thu hút vốn
đầu tư bên ngoài. Luật chứng khoán (2006) được ban hành và ghi nhận loại hình
CTCP với tên gọi “công ty đại chúng”. Để đáp ứng yêu cầu về quản lý các giao dịch
trên TTCK cũng như hoạt động của công ty đại chúng, Chính phủ đã lần lượt ban hành
Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Chứng khoán (2006) trong đó có
quy định về quản trị công ty đại chúng. Để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thị
trường, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán (2006) được ban hành
năm 2010, sau đó là Nghị định số 84/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của
Nghị định số 14/2007/NĐ-CP. Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 58/2012/NĐCP hướng dẫn và quy định chi tiết một số điều của Luật Chứng khoán (2006) sửa đổi
bổ sung năm 2010, thay thế cho Nghị định số 14/2007/NĐ-CP cũng như Nghị định số
84/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên, cho đến lúc này, quy chế quản trị của công ty đại chúng
vẫn chưa được quy định một cách cụ thể.
Để khắc vấn đề này, Bộ tài chính đã ban hành Thông tư số 121/2012/TT-BTC
quy định quản trị công ty áp dụng cho công ty đại chúng với bốn nội dung chủ yếu: (1)
Các quy định về cổ đông và ĐHĐCĐ; (2) Các quy định về HĐQT, thành viên HĐQT;
(3) Các quy định về BKS, thành viên BKS; (4) Các quy định về ngăn ngừa xung đột lợi


- 18 -

ích giữa các thành viên, chế độ báo cáo và công bố thông tin. Theo Thông tư này, các

công ty đại chúng phải xây dựng và công bố trên trang thông tin điện tử của mình các
quy định liên quan đến cuộc họp ĐHĐCĐ như trình tự, thủ tục triệu tập, cách thức đăng
ký tham dự, biểu quyết, cách thức bỏ phiếu, kiểm phiếu... Theo đó, quyền tham dự cuộc
họp ĐHĐCĐ của các cổ đông cũng được nới rộng hơn thông qua việc cho phép cổ đông
tham gia biểu quyết bằng thư bảo đảm, bỏ phiếu từ xa hay biểu quyết thông qua họp
ĐHĐCĐ trực tuyến. Về điều lệ, công ty đại chúng bắt buộc tham chiếu Điều lệ mẫu để
xây dựng Điều lệ cho công ty mình. Thông tư cũng quy định về các giao dịch mà khi
thực hiện các giao dịch này, thành viên HĐQT, BKS, GĐ điều hành phải thực hiện báo
cáo và công bố thông tin về giao dịch. Như vậy, cho đến lúc này, cơ chế quản trị dành
cho công ty đại chúng đã được quy định một cách thống nhất và khá toàn diện.
1.5. Pháp luật của một số nước về tổ chức, quản lý công ty đại chúng và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
Vấn đề tổ chức, quản lý công ty đại chúng ở mỗi nước lại có những quy định
khác nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội cũng như sự phát triển của TTCK.
Phần này trình bày pháp luật điều chỉnh việc tổ chức, quản lý công ty đại chúng và
những bài học mà Việt Nam có thể tham khảo. Các tài liệu liên quan đến cấu trúc tổ
chức, quản lý nội bộ của các công ty đại chúng trên thế giới, đặc biệt là các công ty
niêm yết cho thấy, các nước phương tây thường tổ chức một trong hai mô hình: i) Mô
hình hội đồng đơn hay còn gọi là hội đồng một tầng (unitary board hay one- tier
board model) tại các nước như Anh, Hoa Kỳ; và (ii) Mô hình hội đồng kép- hay còn
gọi là hội đồng hai tầng (dual board hay two-tier board model) ở các nước Áo, Thụy
Sỹ, Hà Lan. Ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản có mô hình kiểu hỗn hợp.
1.5.1. Pháp luật của Hoa kỳ về tổ chức, quản lý công ty đại chúng
Ở Hoa Kỳ, TTCK nước này có lịch sử phát triển lâu dài và đạt đến trình độ cao
về mọi mặt, trong đó có hệ thống pháp luật chứng khoán. Quy định về công ty đại
chúng có lịch sử phát triển lâu dài trong pháp luật chứng khoán của Hoa Kỳ. Khi chưa
xuất hiện SGDCK, Hoa Kỳ không có quy định cụ thể về công ty đại chúng (Publicly
held corporation). Chỉ khi TTCK đã phát triển mạnh, đặt ra vấn đề phải quản lý các tổ
chức phát hành có thể gây ảnh hưởng lớn đến TTCK, các chính sách đối với công ty
đại chúng mới được quy định chính thức trong Luật Chứng khoán và Sở Giao dịch liên

bang 1934 (Securities and Exchange Act of 1934) [17; tr.4].
Theo Luật Chứng khoán và Sở giao dịch liên bang (1934) của Hoa Kỳ (Federal
Securities and Exchange Act of 1934) thì công ty đại chúng (Pucblicly held corporation)


- 19 -

phải có tài sản trị giá trên 5.000.000 USD và có chứng khoán được trên 500 cổ đông
sở hữu; phải đáp ứng các yêu cầu riêng biệt của Luật Chứng khoán và Sở giao dịch
liên bang 1934, trong đó có yêu cầu về đệ trình báo cáo tài chính định kỳ cho Ủy ban
chứng khoán và Giao dịch Hoa kỳ (Security and Exchange Commission).
Công ty đại chúng được thành lập theo luật thành văn dưới hình thức CTCP.
Những thành viên sáng lập và các cổ đông sở hữu công ty và lựa chọn ban quản trị để
điều hành và quản lý công ty. Ban quản trị lựa chọn nhân viên để giám sát việc vận
hành công ty và thực hiện những công việc hàng ngày. Như vậy, cấu trúc quản trị nội
bộ công ty đại chúng theo pháp luật Hoa Kỳ là theo mô hình hội đồng một tầng (Hội
đồng đơn có trong luật công ty của hầu hết các nước thuộc hệ thống thông luật
(Common law) như Mỹ, Anh, Australia, Newzeland, Canada, v.v..; cũng như không ít
các nước thuộc dòng họ luật thành văn (Civil Law)).
Cấu trúc hội đồng đơn, về cơ bản, được xây dựng theo mô hình luật công ty theo
kiểu Anglo American, mà Luật Công ty Hoa Kỳ là điển hình. Theo đó, cấu trúc quản
trị nội bộ của một CTCP gồm có: ĐHĐCĐ (sharehliders’ meeting) và Hội đồng GĐ
(board of directors). Bộ phận quản trị - điều hành của CTCP chỉ do một cơ quan đảm
nhiệm là Hội đồng GĐ - cấu trúc hội đồng đơn (unitary board model). ĐHĐCĐ sẽ bầu
chọn các thành viên của hội đồng GĐ (thường có từ ba đến hai chục thành viên), được
gọi là các directors. Mọi quyền lực và các vấn đề của công ty được pháp luật đặt vào
tay của ĐHĐCĐ, trừ những vấn đề mà pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định phải
thuộc về ĐHĐCĐ. Hội đồng GĐ bổ nhiệm các thành viên của mình hoặc người khác
đảm nhiệm các công việc điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty.
Pháp luật công ty của các nước Anh- Mỹ không có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn

của TGĐ (statutory power) như trong pháp luật công ty Việt Nam hay Trung Quốc.
Quyền lực của TGĐ sẽ do Hội đồng GĐ quyết định trên cơ sở ủy nhiệm, vì thế, không
phải tất cả các giám đốc đều có quyền lực như nhau. Khác với mô hình tổng giám đốc
theo Luật Anh – Mỹ, trong mô hình quản trị CTCP theo LDN của Việt Nam và Luật
công ty của Trung Quốc thì TGĐ của CTCP xuất hiện như một cơ quan trong bộ máy
quản trị, với các quyền và nghĩa vụ do luật định mà các cổ đông hay HĐQT chỉ có thể
trao thêm chứ không được lấy bớt đi [24; tr.20].
1.5.2. Pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức về tổ chức, quản lý công ty đại chúng
Ở Đức, Thụy Sĩ, Áo, Phần Lan áp dụng mô hình cấu trúc hội đồng kép. Cấu trúc
hội đồng kép có nguồn gốc từ nước Đức, xứ sở của dòng họ luật German Civil và có
hai đặc điểm quan trọng: (i) cấu trúc quản trị- điều hành có hai hội đồng theo thứ bậc


×