BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
ĐỖ THỊ THƠ
QUYÒN §ÞNH §O¹T CñA NG¦êI LËP DI CHóC
THEO QUY §ÞNH CñA Bé LUËT D¢N Sù 2005 - MéT Sè VÊN
§Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
Chuyên ngành
: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số
: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ trong Luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình
khoa học nào khác./.
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Thơ
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT CỦA
NGƢỜI LẬP DI CHÚC
4
1.1. Di chúc và người lập di chúc
4
1.2. Khái niệm quyền định đoạt của người lập di chúc
23
Chƣơng 2: NỘI DUNG QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH
29
2.1. Các quyền định đoạt của người lập di chúc
30
2.2. Những hạn chế quyền tự định đoạt của người lập di chúc
43
Chƣơng 3: THỰC TIỄN VẬN DỤNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 VỀ QUYỀN
ĐỊNH ĐOẠT CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC
48
3.1. Thực tiễn vận dụng các quy định pháp luật về quyền định đoạt của
người lập di chúc
48
3.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005
về quyền định đoạt của người lập di chúc
65
KẾT LUẬN
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
71
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Con người cũng như bất kể chủ thể nào khác, muốn tại và phát triển đều phải
dựa trên những cơ sở vật chất nhất định. Của cải của con người tạo ra một cách hợp
pháp sẽ thuộc sở hữu của họ, họ có quyền năng chiếm hữu, sử dụng chúng để thỏa
mãn các nhu cầu của mình trong sản xuất, tiêu dùng và có quyền định đoạt chúng
khi cần thiết. Khi họ chết, những tài sản thuộc sở hữu còn lại của họ sẽ được dịch
chuyển cho người khác. Quá trình dịch chuyển tài sản này được gọi là thừa kế. Nói
một cách cụ thể hơn thì thừa kế là quá trình chuyển dịch tài sản từ người đã chết
cho những người còn sống. Như vậy, thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến
trong đời sống xã hội và tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Nơi nào có sở hữu, nơi đó
có thừa kế. Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân
ngày càng đa dạng và phong phú thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng
tranh chấp. Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 đã có những quy định về quyền định đoạt
của người lập di chúc, tuy nhiên những quy định này còn chưa cụ thể và gây nhiều
khó khăn khi xác định phân chia di sản thực hiện ý nguyện của người lập di chúc.
Do vậy việc nghiên cứu nhằm làm rõ những quy định của pháp luật về quyền định
đoạt của người lập di chúc. Qua việc nghiên cứu đề tài “Quyền định đoạt của
người lập di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” tác giả mong muốn hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp
luật về quyền định đoạt của người lập di chúc, nhằm mục đích nâng cao hơn nữa
hiệu quả điều chỉnh những quy định này trong BLDS.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cũng như thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc được quy định qua các
thời kỳ phát triển lập pháp ở Việt Nam, nghiên cứu về thừa kế theo di chúc ở Việt
Nam hiện nay không ít, các công trình này được thực hiện dưới dạng khóa luận,
luận văn, luận án. Tuy nhiên thừa kế theo di chúc được thực hiện tại các thời điểm
khác nhau và cách xa nhau kể từ khi có pháp lệnh thừa kế ngày 30 tháng 8 năm
1990, là dựa theo Thông tư của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, như
2
thông tư số 81-TANDTC ngày 24 tháng 7 năm 1981, hướng dẫn giải quyết các
tranh chấp về quyền thừa kế. Sau đó là Pháp lệnh thừa kế, BLDS 1995, BLDS 2005.
Vì vậy các công trình nghiên cứu về thừa kế theo di chúc có các nôi dung tương ứng
với quy định của pháp luật tại các thời kỳ là khác nhau. Trước khi BLDS 2005 được
ban hành, có một số khóa luận của sinh viên và luận văn thạc sĩ viết về thừa kế theo di
chúc như tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: “Thừa kế theo di chúc ở Việt Nam
hiện nay”; tác giả Vũ Hải Yến với đề tài: “Một số vấn đề cơ bản về di chúc” và một số
công trình nghiên cứu về thừa kế nói chung như tác giả Nguyễn Minh Tuấn với luận
văn thạc sỹ với đề tài: “Những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt
Nam”, tác giả Phùng Trung Tập với luận án tiến sĩ “Thừa kế theo pháp luật của công
dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay”; tác giả Phạm Văn Tuyết với đề tài luận án tiến sĩ:
“Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam”.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên chỉ dừng lại nghiên cứu một số
quy định về thừa kế theo di chúc trong luật dân sự Việt Nam mà chưa nghiên cứu
sâu về quyền định đoạt của người lập di chúc.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ quy định của BLDS về quyền
định đoạt của người lập di chúc, cơ sở lý luận thực tiễn của các quy định của pháp
luật về quyền định đoạt của người lập di chúc thông qua việc phân tích các quy định
của pháp luật dân sự hiện hành về quyền định đoạt của người lập di chúc, đánh giá
thực tiễn vận dụng những quy định đó trong đời sống liên quan đến thừa kế theo di
chúc, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện những quy định pháp luật về quyền
định đoạt của người lập di chúc.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về quyền định đoạt của người
lập di chúc theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành;
- Luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về uyền định đoạt
của người lập di chúc quy định của BLDS 2005, hiệu quả điều chỉnh của những quy
3
định pháp luật về các quyền đó. Luận văn tìm ra những điểm phù hợp với đời sống
xã hội và những điểm cần phải bổ sung các quy định về các quyền đó của người lập
di chúc theo quy định của BLDS;
- Qua nghiên cứu tác giả luận văn có những kiến nghị nhằm hoàn thiện một
bước những quy định của pháp luật về quyền định đoạt của người lập di chúc đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi của đời sống xã hội trong quan hệ thừa kế nói chung và
trong thừa kế theo di chúc nói riêng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nội dung của luận văn không nghiên cứu những quy định của pháp luật về
thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng , mà chỉ tập trung nghiên cứu về
các quyền định đoạt của người lập di chúc được quy định trong BLDS hiện hành.
Qua đó tác giả so sánh đối chiếu với những quy định pháp luật trong dự thảo BLDS
2005 sửa đổi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và Pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp
khoa học khác như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để
giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền định đoạt của người lập di chúc
Chương 2: Nội dung quyền định đoạt của người lập di chúc quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành
Chương 3: Thực tiễn vận dụng và hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 về quyền định đoạt của người lập di chúc.
4
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT CỦA NGƢỜI LẬP DI CHÚC
1.1. Di chúc và ngƣời lập di chúc
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của di chúc và các loại di chúc
1.1.1.1. Khái niệm di chúc
Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình thức
di chúc khác nhau, Trong thế giới cổ đại, di chúc đã xuất hiện với rất nhiều hình
thức đa dạng khác nhau, có thể bằng văn bản viết tay, cũng có thể bằng lời nói.
Di chúc là cơ sở quan trọng nhất để thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển
tài sản của mình cho người khác sau khi chết và cũng là cơ sở để xác lập quyền sở
hữu di sản của người hưởng di sản thừa kế của người hưởng di sản thừa kế.
Thuật ngữ di chúc đã được đề cập và sử dụng nhiều trong đời sống nên từ
lâu, đã trở thành một vấn đề hết sức quen thuộc đối. Tuy vậy, nó thường chỉ
được hiểu một cách đơn giản, dưới ngôn ngữ đời thường: “Di chúc là sự dặn lại
của một người trước lúc chết với những người khác về những việc cần làm, nên
làm” [17, tr.254].
Tìm hiểu về khái niệm di chúc và xem xét dưới góc độ pháp lý là một việc
làm hết sức cần thiết đối với việc nâng cao dân trí pháp luật. Người lập di chúc
muốn di chúc của mình được mọi người và cơ quan nhà nước thừa nhận, tránh được
sự tranh chấp nhau giữa những người thừa kế trong việc hưởng di sản, cần phải hiểu
và tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế.
Trong thực tế, rất nhiều người cho đến lúc hấp hối mới gọi các con đến
giường bệnh mà dặn dò rằng sau khi bố (hoặc mẹ) chết các con cố gắng yêu thương
nhau hơn. Theo cách hiểu thông thường thì lời dặn dò trên là một di chúc (theo Từ
điển Tiếng Việt). Tuy nhiên bản di chúc nói trên sẽ không có ý nghĩa gì đối với việc
thừa kế di sản mà người đó để lại, vì di chúc đó không thể hiện được ý chí của
người chết trong việc dịch chuyển di sản. Không thể căn cứ vào di chúc đó mà biết
5
những ai là người được hưởng và hưởng bao nhiêu đối với khối di sản mà người
chết để lại. Vì thế, dù người chết có để lại di chúc nhưng việc dịch chuyển di sản
của người đó cho những người còn sống vẫn phải thực hiện theo sự quy định của
pháp luật.
Về thuật ngữ di chúc dưới góc độ pháp lý, Điều 646, BLDS 2005 đã định
nghĩa: “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết.” Bên cạnh đó, BLDS 2005 còn quy định (bằng một số điều
luật khác) chỉ căn cứ vào di chúc để dịch chuyển tài sản của người chết cho người
khác nếu di chúc đó là ý chí tự nguyện và nội dung của di chúc là hợp pháp.
Như vậy, về phương diện khoa học pháp lý thì di chúc là phương tiện phản
ánh trung thực ý nguyện cuối cùng của cá nhân trong việc dịch chuyển tài sản của
họ cho người khác sau khi họ chết.
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định (có thể là
viết, có thể là miệng) trong đó người lập di chúc bày tỏ ý chí của mình về việc định
đoạt toàn bộ hay một phần tài sản của mình cho một người hay cho nhiều người
khác nhau. Việc chuyển tài sản của người đã chết cho những người khác sau khi
người đó chết căn cứ vào di chúc mà người đó đã lập khi họ còn sống được gọi là
thừa kế theo di chúc.
1.1.1.2. Đặc điểm của di chúc
Qua những phân tích ở phần khái niệm di chúc, chúng ta thấy rằng, di chúc
với tư cách là căn cứ để dựa vào đó thực hiện quá trình dịch chuyển di sản của
người chết cho người khác luôn hàm chứa các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Di chúc là ý chí đơn phương của cá nhân.
Di chúc là “sự thể hiện ý chí của cá nhân” (Đ.646, BLDS 2005) nên nó được
hình thành bằng ý chí đơn phương của người để lại thừa kế (một bên chủ thể trong
giao dịch dân sự về thừa kế). Theo đó họ quyết định chuyển giao một phần hoặc
toàn bộ tài sản của mình cho người đã được họ xác định trong di chúc mà không
biết người đó có nhận di sản của mình hay không. Như vậy, nếu hợp đồng (giao
dịch hai bên) được hình thành bởi sự thoả thuận ý chí của nhiều bên chủ thể thì di
chúc chỉ là sự quyết định đơn phương của người lập ra nó.
6
Đối với những di chúc do vợ, chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện ý
chí của cả hai người nhưng di chúc vẫn mang tính chất quyết định đơn phương bởi
dù di chúc thể hiện ý chí của nhiều người nhưng những người đó vẫn chỉ là một bên
trong giao dịch dân sự.
Thứ hai: Di chúc nhằm chuyển dịch di sản của người chết cho người khác đã
được xác định trong di chúc.
Đây là nội dung quan trọng không thể thiếu được của một di chúc nếu muốn
được coi là một căn cứ để dịch chuyển tài sản của người chết cho những người
khác. Thông thường, một người chỉ lập di chúc trong trường hợp họ có một khối tài
sản trước khi chết và muốn bằng ý chí của mình để định đoạt cho ai. Mặt khác, cho
dù trước lúc chết, người đó có một khối tài sản và cũng để lại di chúc nhưng nếu di
chúc không chứa đựng nội dung này thì cũng không làm phát sinh việc thừa kế theo
di chúc. Nghĩa là di chúc đó chẳng có ý nghĩa gì đối với quá trình dịch chuyển di
sản. Nói cách khác, di chúc chỉ đem lại ý nghĩa về mặt vật chất cho những người
thừa kế theo di chúc đồng thời chỉ thật sự là một phương tiện để người để lại thừa
kế thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình chừng nào di chúc chứa đựng
nội dung nói trên.
Thừa kế ở bất kỳ một nhà nước nào cũng đều là sự quy định của pháp luật
nhằm điều chỉnh quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết sang những
người còn sống khác. Với tư cách là hệ luận của quyền sở hữu, pháp luật về thừa
kế là phương tiện để đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với
tài sản của mình. Thông qua thừa kế, quyền sở hữu của một người đối với thành
quả lao động của họ được dịch chuyển từ đời này qua đời khác. Đặc biệt, ghi
nhận và tôn trọng quyền quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc chính là
việc pháp luật tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu đối với
tài sản của họ, đảm bảo cho người lập di chúc “có quyền sử dụng tài sản ngay cả
khi đã chết rồi”.
Thứ ba: Di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi chính người xác
lập ra nó đã chết.
7
Như đã trình bày ở đặc điểm trên, việc lập di chúc và việc giao kết hợp đồng
đều là những giao dịch dân sự. Tuy nhiên, nếu hợp đồng dân sự thể hiện ý chí của
cả hai bên chủ thể thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của một bên. Sự khác nhau này làm
cho một di chúc có tính chất khác hẳn với một hợp đồng dân sự. Nếu hợp đồng dân
sự có hiệu lực từ thời điểm giao kết (trừ trường hợp các bên có thoả thuận hoặc
pháp luật có quy định khác) thì thời điểm bắt đầu có hiệu lực của di chúc hoàn toàn
phụ thuộc vào thời điểm người lập ra nó chết. Khoản 1, Điều 667, BLDS 2005 đã
quy định: “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế”. Nói ngược lại,
khi người lập di chúc còn sống thì di chúc đó chưa có hiệu lực. Mặt khác, di chúc
chỉ là ý chí đơn phương của người lập ra nó nên người lập di chúc luôn có quyền tự
mình thay đổi nội dung đã định đoạt trong di chúc hoặc huỷ bỏ di chúc đã lập. Tính
chất này cho chúng ta thấy rằng, dù di chúc đã được lập nhưng khi người lập di
chúc còn sống (trong thực tế, từ thời điểm di chúc đã lập đến thời điểm người lập di
chúc chết bao giờ cũng có một khoảng cách nhất định về mặt thời gian) thì người
thừa kế theo di chúc không có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản của người lập di
chúc và họ cũng chưa chắc chắn có được hưởng di sản đó hay không. Pháp luật tôn
trọng quyền lập di chúc của cá nhân với hai mục đích. Một mặt, nhằm đảm bảo
quyền định đoạt của chủ sở hữu. Mặt khác, nhằm đảm bảo cho cá nhân thông qua
việc định đoạt tài sản của mình để thể hiện tình cảm, trách nhiệm của mình đối với
những người khác. Vì vậy, nếu sự định đoạt trong di chúc đã lập không còn phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại thì người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung,
hoặc huỷ bỏ di chúc.
1.1.1.3. Các loại di chúc
Điều 649, BLDS 2005 đã quy định: “Di chúc phải được lập thành văn bản;
nếu không thể lập được di chúc văn bản thì có thể di chúc miệng”. Như vậy, theo
quy định của pháp luật về thừa kế thì việc lập di chúc chỉ có thể tiến hành theo một
trong hai hình thức: Hoặc là bằng một văn bản, được gọi là di chúc viết (hay còn gọi
là chúc thư) hoặc là thông qua lời nói, được gọi là di chúc miệng (hay còn gọi là
chúc ngôn).
8
a. Di chúc bằng văn bản
Việc quy định một cách chặt chẽ về hình thức và thủ tục lập di chúc không
chỉ nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể mà còn hướng tới việc tạo
ra tính xác thực cho những di chúc đã lập qua đó nhằm tạo ra cơ sở pháp lý để bảo
vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế.
Theo quy định của pháp luật, tất cả các di chúc được thể hiện bằng hình thức
văn bản phải đáp ứng các yêu cầu chung về nội dung đồng thời mỗi một thể thức cụ
thể của di chúc viết phải tuân theo một trình tự tương ứng. Để bản di chúc viết của
mình có hiệu lực pháp luật, người lập di chúc cần quan tâm tới các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất: các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết
- Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc
Đây là một vấn đề thủ tục đơn thuần nhưng hết sức quan trọng về mặt nội
dung, có ý nghĩa thiết thực trong việc xác định tính hiệu lực của di chúc, vì thông
qua ngày, tháng, năm lập di chúc sẽ xác định được tại thời điểm đó người lập di
chúc có năng lực hành vi dân sự, có minh mẫn, sáng suốt hay không, tại thời điểm
đó di chúc do người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập ra cần phải
có sự đồng ý của những ai? Hơn nữa, nếu người quá cố để lại nhiều bản di chúc thì
ngáy, tháng, năm trong di chúc sẽ cho phép chúng ta xác định di chúc nào là di chúc
biểu hiện ý nguyện sau cùng của người đó. Trong trường hợp này, tất cả di chúc lập
trước đều bị huỷ bỏ. Ngoài ra, ngày, tháng, năm lập di chúc còn là mốc thời gian để
xác định di chúc đó có bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành vào
thời điểm mà di chúc được lập hay không.
- Di chúc phải ghi rõ họ tên, nơi cư trú của người lập di chúc
Vì di chúc là ý chí của chủ thể duy nhất trong một giao dịch dân sự đơn
phương nên trong di chúc cần phải xác định rõ họ, tên của người có ý chí đó. Mặt
khác, địa điểm mở thừa kế, nơi đăng ký từ chối nhận di sản, thẩm quyền giải quyết
của toà án khi có tranh chấp đều được xác định thông qua nơi cư trú của người lập
di chúc. Vì vậy, trong di chúc phải xác định rõ nơi cư trú của người lập di chúc là
một việc hết sức thiết thực.
9
- Di chúc phải ghi rõ họ, tên người, tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản
hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.
Nếu người thừa kế theo pháp luật luôn luôn ổn định trong một phạm vi đã
xác định vì đó là những người cụ thể có một trong ba mối quan hệ về hôn nhân,
nuôi dưỡng, huyết thống với người để lại thừa kế thì phạm vi những người thừa kế
theo di chúc không thể xác định được vì họ là những người bất kỳ do người lập di
chúc chỉ định theo ý chí của mình. Người thừa kế theo di chúc có thể là một cá nhân
bất kỳ (có thể nằm trong diện những người thừa kế theo luật nhưng cũng có thể
không nằm trong diện đó), có thể là cơ quan, tổ chức bất kỳ. Vì vậy, bằng ý chí của
mình, người lập di chúc định cho ai, tổ chức nào hưởng di sản của mình sau khi
mình chết phải được xác định rõ trong di chúc. Nếu người lập di chúc chỉ cho
những người nói trên hưởng di sản khi họ đáp ứng được các điều kiện mà mình
mong muốn thì trong di chúc phải xác định cụ thể các điều kiện đó.
Với nội dung này, chúng ta cần xác định hai vấn đề sau đây:
Một là, về nguyên tắc chỉ người nào được người lập di chúc xác định trong di
chúc mới là người thừa kế theo di chúc của người đó. Vì thế, dù người lập di chúc
có ý định cho một người hưởng di sản của mình nhưng vì nhầm lẫn hoặc sai sót nên
người lập di chúc không xác định họ trong di chúc thì người đó vẫn không phải là
người thừa kế theo di chúc của người đã lập di chúc.
Hai là, đối với trường hợp trong di chúc không xác định rõ họ, tên của người
mà người lập di chúc muốn cho hưởng di sản nhưng thông qua các yếu tố khác có
thể xác định được người đó là ai thì họ vẫn là người được hưởng di sản theo di
chúc. Chẳng hạn: Người để lại di sản lập di chúc cho một đứa trẻ chưa sinh ra
hưởng di sản của mình.
- Di chúc phải ghi rõ di sản để lại và nơi có di sản
Người lập di chúc chỉ được định đoạt những tài sản thuộc sở hữu của mình
cho những người thừa kế. Hay nói cách khác, di sản thừa kế chỉ là những tài sản
thuộc quyền sở hữu của người chết (di sản là quyền sử dụng đất sẽ xem xét ở phần
sau). Vì vậy việc ghi rõ di sản trong di chúc nhằm qua đó để xác định người lập di
10
chúc có những tài sản gì, những tài sản đó được phân định như thế nào. Tuy nhiên,
sự quy định này của pháp luật với mục đích chủ yếu là nhằm hướng dẫn để các cá
nhân lập di chúc được rõ ràng cụ thể nên nếu di chúc không ghi rõ, liệt kê từng loại
tài sản thì cũng không vì thế mà coi di chúc đó là bất hợp pháp được. Trong những
trường hợp này, người có thẩm quyền sẽ căn cứ vào pháp luật về quyền sở hữu tài
sản mà xác định những gì thuộc về di sản của người đã chết để lại.
Ngoài việc ghi rõ di sản, người lập di chúc cần xác định rõ trong di chúc về
nơi có di sản để sau khi mình chết, những người thừa kế dựa vào đó dễ dàng xác
định được địa điểm tồn tại của di sản. Hơn nữa, trong những trường hợp không thể
xác định được nơi cư trú thì việc ghi rõ nơi có di sản là cơ sở để việc xác định địa
điểm mở thừa kế được dễ dàng.
- Di chúc phải ghi rõ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của
nghĩa vụ
Theo nguyên tắc chung, tất cả những người hưởng di sản thừa kế đều phải
thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trên cơ sở tương ứng với kỷ phần
tài sản mà mình được hưởng. Mặt khác, việc giao nghĩa vụ cho những người thừa
kế là một trong những quyền tự định đoạt của người lập di chúc. Vì vậy, trong di
chúc, người lập di chúc có thể giao riêng nghĩa vụ cho mỗi một người trong số
những người thừa kế để người đó thực hiện. Nếu người lập di chúc có ý định đó thì
dứt khoát trong di chúc phải ghi rõ người nào, cơ quan, tổ chức nào phải thực hiện
nghĩa vụ mà người chết để lại. Trường hợp trong di chúc không có sự xác định này
thì tất cả những người hưởng di sản thừa kế cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đó.
- Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều
trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và đều phải có chữ ký hoặc điểm chỉ
của người lập di chúc.
Quy định này của pháp luật chủ yếu mang tính hướng dẫn. Muốn di chúc của
mình được cụ thể rõ ràng, tránh được sự tranh cãi giữa những người thừa kế về sau
này, người lập di chúc không nên dùng ký hiệu hoặc dùng chữ tắt để biểu đạt ý chí
của mình. Trong trường hợp người để lại di sản lập di chúc tại Công chứng nhà
11
nước hoặc UBND xã, phường, thị trấn thì hướng dẫn cho người lập di chúc không
viết tắt, viết bằng ký hiệu là công việc cần phải làm của người có thẩm quyền chứng
nhận, chứng thực di chúc.
Nếu di chúc lập ra không có chứng nhận, chứng thực nhưng thoả mãn đầy đủ
các yêu cầu khác của pháp luật mà có viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu do người lập di
chúc không nắm được yêu cầu này của pháp luật thì di chúc đó có bị coi là vô hiệu
hay không ?
Như đã xác định, yêu cầu trên của pháp luật chỉ mang tính hướng dẫn nên
không thể căn cứ vào việc người lập di chúc đã viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu để
xác định di chúc của họ là vô hiệu. Theo chúng tôi, khi xem xét vấn đề này cần phải
chia thành hai trường hợp:
Một là, nếu chữ viết tắt, viết bằng ký hiệu trong di chúc đều được tất cả
những người thừa kế (cần lưu ý là cả người thừa kế theo di chúc, cả người thừa kế
theo luật) của người để lại di sản thừa nhận và cùng hiểu theo một nghĩa thì việc
viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu sẽ không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của di chúc.
Hai là, nếu mỗi người thừa kế hiểu chữ viết tắt, viết bằng ký hiệu một cách
khác nhau và họ không thể thống nhất được với nhau về cách hiểu chữ viết tắt hoặc
viết bằng ký hiệu đó thì coi như không có di chúc (di chúc không có giá trị pháp lý).
Tuy nhiên, nếu chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu đó chỉ liên quan đến một phần
của di chúc mà không ảnh hưởng đến phần khác của di chúc thì chỉ riêng phần đó
không có hiệu lực pháp luật. Phần còn lại của di chúc vẫn có hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh việc không viết tắt, viết bằng ký hiệu trong di chúc, người lập di
chúc phải đánh số trang theo thứ tự (nếu di chúc bao gồm nhiều trang) và phải ký
hoặc điểm chỉ vào từng trang của di chúc để đề phòng người khác thêm, bớt số
trang, giả mạo hoặc thay thế từng trang của di chúc.
Chúng ta đều biết rằng, di chúc chỉ được thừa nhận nếu đúng là của chính
người để lại di sản lập ra. Mặt khác, di chúc (và từng trang của di chúc) chỉ được
coi là của chính người để lại di sản lập ra nếu trong đó có chữ ký hoặc điểm chỉ của
họ. Vì vậy, nếu trong di chúc thiếu yếu tố này thì di chúc đó sẽ không có hiệu lực
12
pháp luật. Tuy nhiên, dù nhà làm luật chưa dự liệu nhưng cần phải xác định thêm
rằng: trong những trường hợp vì lý do đặc biệt nên người lập di chúc không thể ký
cũng như điểm chỉ vào bản di chúc được (chẳng hạn họ bị cụt cả hai tay, hai chân)
nhưng đã có chữ ký của hai người làm chứng trở lên thì bản di chúc đó vẫn có hiệu
lực pháp luật.
Thứ hai: Mỗi một loại di chúc viết phải được lập theo một trình tự tương ứng.
Hình thức di chúc bằng văn bản (di chúc viết) có nhiều loại khác nhau, bao
gồm: Di chúc băng văn bản không có người làm chứng; di chúc băng văn bản có
người làm chứng; di chúc bằng văn bản có công chứng, di chúc bằng văn bản có
chứng thực (xem Điều 650, BLDS 2005). Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện trong
từng trường hợp cụ thể mà người để lại di sản có quyền lựa chọn để lập di chúc viết
theo một trong những loại trên. Tuy nhiên, quyền lựa chọn việc lập di chúc theo loại
nào không đồng nghĩa với việc tuỳ tiện hay cẩu thả trong khi lập di chúc. Người lập
di chúc phải tuân theo đúng thể thức, trình tự mà pháp luật đã quy định tương ứng
với từng loại di chúc sau đây:
- Đối với di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Để đảm bảo di chúc thật sự là phương tiện phản ánh ý nguyện cuối cùng của
người chết một cách trung thực, di chúc lập theo thể thức này phải tuân thủ đầy đủ
các yêu cầu mà pháp luật đã quy định chung đối với mọi di chúc được lập theo hình
thức văn bản. Ngoài ra, tính xác thực của loại di chúc viết này là ở chỗ di chúc do
chính tay người lập di chúc viết và ký. Do đó nếu di chúc bằng văn bản không có
người làm chứng mà lại là một bản đánh máy thì bản di chúc đó sẽ không được thừa
nhận dù rằng có chữ ký của người lập di chúc. Tương tự, nếu bản di chúc đó không
có chữ ký của người lập di chúc cũng sẽ không được thừa nhận dù di chúc đó do
chính tay họ viết ra.
- Đối với di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Pháp luật quy định loại di chúc này nhằm đảm bảo quyền lập di chúc cho
mọi cá nhân. Với loại di chúc này, các cá nhân dù không thể tự mình viết được vẫn
có thể lập di chúc bằng văn bản để định đoạt tài sản của mình cho người khác sau
13
khi mình chết vì theo quy định của pháp luật về loại di chúc này thì: “trong trường
hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác
viết” (Điều 656, BLDS 2005). Tuy nhiên, khi lập loại di chúc này phải có ít nhất là
hai người làm chứng và người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc
trước mặt những người làm chứng đồng thời trong bản di chúc đó phải có chữ ký
của những người làm chứng và sự xác nhận của họ về chữ ký, điểm chỉ của người
lập di chúc. Thiếu một trong các yếu tố này di chúc sẽ không có hiệu lực pháp luật.
- Đối với di chúc có công chứng nhà nước hoặc chứng thực.
Nếu người lập di chúc tự tay viết bản di chúc và có yêu cầu Công chứng nhà
nước chứng nhận hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực thì người
lập di chúc phải ký vào bản di chúc trước mặt người có thẩm quyền chứng nhận
hoặc chứng thực.
Trong trường hợp người để lại di sản đến Công chứng nhà nước hay đến Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn để lập di chúc tại đó hoặc di chúc do công chứng
viên lập tại chỗ ở của người để lại di sản thì việc lập di chúc phải tuân thủ trình tự
và thủ tục sau đây: Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc (ý nguyện của
mình) trước Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban
nhân dân xa, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực di chúc ghi chép lại đầy đủ nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Sau khi
xác nhận công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực đã ghi chép chính
xác và thể hiện đúng với ý chí của mình thì người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào
bản di chúc đó. Sau cùng, công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc đó.
Trong trường hợp vì một lý do nào đó mà người lập di chúc không đọc được
hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải
có người làm chứng. Người làm chứng phải đọc lại bản di chúc và nếu thấy việc
ghi chép của công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn đúng với ý chí mà người lập di chúc đã thể hiện thì
ký xác nhận vào bản di chúc trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm
14
quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Sau cùng, công
chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn chứng nhận hoặc chứng thực vào bản di chúc trước mặt người
lập di chúc và người làm chứng.
- Di chúc có xác nhận
Dự liệu cho những trường hợp cá nhân có nhu cầu lập di chúc nhưng đang ở
xa nơi công chứng, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc trong những hoàn
cảnh đặc biệt nên không thể lập di chúc có chứng nhận hoặc chứng thực được,
BLDS đã quy định các di chúc nếu có xác nhận của người có thẩm quyền cũng có
giá trị như di chúc được chứng thực, chứng nhận. Đó là những di chúc được lập
trong những hoàn cảnh đặc biệt sau đây:
- Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại
đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu Công chứng nhà nước chứng nhận
hoặc Uỷ ban nhân dân xã chứng thực.
Trong trường hợp này, lý do làm cho người lập di chúc không thể “yêu cầu”
cơ quan có thẩm quyền chứng nhận hoặc chứng thực di chúc được có thể hiểu theo
một hay cả hai tình huống sau đây: một là, do người lập di chúc là quân nhân đang
làm nhiệm vụ, đóng quân ở xa nơi công chứng và Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở, hai
là, do nhiệm vụ đặc biệt mà quân nhân đó không thể đến Công chứng nhà nước
cũng như Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở để lập di chúc theo thủ tục có chứng nhận,
chứng thực mặc dù nơi đóng quân gần các cơ quan này. Theo nguyên tắc chung,
luật dân sự luôn đảm bảo quyền lập di chúc cho các cá nhân nên nếu vì những lí do
chính đáng mà cá nhân không thể lập di chúc theo thủ tục có chứng nhận, chứng thực
được thì di chúc của họ chỉ cần có xác nhận vẫn có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, chúng
tôi cho rằng, trường hợp trên cần phải được hiểu trong cả hai tình huống đã nêu.
- Di chúc được lập ra khi người lập di chúc đang đi trên tàu biển, máy bay có
xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
Quy định này của pháp luật dự phòng tới những trường hợp cá nhân đang đi
lại hoặc làm việc trên máy bay, tàu biển mà có nhu cầu lập di chúc khi những
15
phương tiện giao thông đó chưa hạ cánh hoặc chưa cập bến. Vì vậy, cơ trưởng hoặc
thuyền trưởng chỉ có thẩm quyền xác nhận di chúc và phải xác nhận ngay sau khi di
chúc được lập trong lúc máy bay chưa hạ cánh hoặc tàu chưa cập bến.
- Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh có xác nhận
của người phụ trách bệnh viện, cơ sở chữa bệnh đó.
Mặc dù bệnh viện, cơ sở chữa bệnh vẫn gần nơi công chứng hoặc Uỷ ban
nhưng cá nhân có nhu cầu lập di chúc vẫn không không thể yêu cầu chứng nhận
hoặc chứng thực được vì họ đang lâm vào hoàn cảnh ốm đau bệnh tật và tính mạng
đang bị cái chết đe doạ. Vì vậy, trong những trường hợp này di chúc của họ lập ra
chỉ cần có xác nhận của người phụ trách bệnh viện hoặc cơ sở chữa bệnh nơi họ
đang điều trị vẫn được coi là có giá trị như di chúc có chứng nhận hoặc chứng thực.
- Di chúc của người đang làm đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên
cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó.
Đây là những trường hợp cá nhân đang công tác ở vùng sâu, vùng xa (nơi
không có cơ quan Công chứng nhà nước cũng như xa Uỷ ban nhân dân) nhưng họ
muốn lập di chúc vì họ cho rằng với bệnh tật của mình sẽ không đủ điều kiện để chờ
đến hết đợt công tác mới lập di chúc. Vì thế, nếu họ lập di chúc trong thời gian này
thì di chúc của họ vẫn có giá trị như di chúc được chứng nhận hoặc chứng thực dù
di chúc chỉ có sự xác nhận của tổ trưởng tổ công tác hoặc trưởng nhóm nghiên cứu.
- Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ
quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
Nếu công dân Việt Nam đang công tác, học tập, lao động ở nước ngoài mà
có nhu cầu lập di chúc thì di chúc đó có hiệu lực pháp luật như di chúc được lập trong
nước có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nếu di chúc lập ra ở nước ngoài đã có chứng nhận của cơ
quan lãnh sự hoặc đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước mà người đó đã lập di chúc.
- Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người
đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có
xác nhận của người phụ trách cơ sở giam giữ đó.
16
Vì lý do tố tụng, người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù bị hạn
chế quyền tự do đi lại nên họ không thể yêu cầu cơ quan Công chứng nhà nước
hoặc Uỷ ban nhân dân chứng nhận hoặc chứng thực bản di chúc cho mình được.
Tuy vậy họ vẫn có quyền tự do lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tôn
trọng quyền này của cá nhân, pháp luật vẫn thừa nhận di chúc của họ lập ra khi
đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù có giá trị pháp lý như di chúc có
chứng nhận, chứng thực nếu di chúc đó đã có xác nhận của người phụ trách cơ
sở giam giữ.
- Di chúc tự lập (chúc thư thủ tự).
Trong thực tế có rất nhiều trường hợp vì một lý do nào đó mà người lập di
chúc muốn giữ kín bí mật về nội dung của di chúc (luật thừa kế của một số nước gọi
di chúc này là Di chúc bí mật) hoặc do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên
khi lập di chúc họ không yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận
hoặc chứng thực cũng như không nhờ bất kỳ một người nào xác nhận hoặc làm
chứng. Để thật sự đảm bảo quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc, pháp luật
vẫn thừa nhận di chúc lập ra trong những trường hợp đó vẫn có giá trị pháp lý nếu “
người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
doạ hoặc cưỡng ép; nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình
thức của di chúc không trái quy định của pháp luật.” (xem khoản 4, Điều 652,
BLDS 2005). Tuy nhiên, để có đủ cơ sở khẳng định những vấn đề trên đối với di
chúc được lập theo loại này thì việc chính tay người lập di chúc viết và ký vào bản
di chúc là điều kiện không thể thiếu được.
Qua việc xem xét thủ tục lập các loại di chúc nói trên chúng ta thấy rằng một
mặt, pháp luật quy định hết sức chặt chẽ về hình thức, thủ tục lập di chúc, mặt khác,
pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lý của những di chúc không qua một thủ tục
chứng nhận, chứng thực hoặc xác nhận nào. Sở dĩ có hiện tượng trái ngược này
trong sự quy định của pháp luật về hiệu lực của di chúc vì trước hết, các nhà làm
luật muốn thông qua việc quy định các thể thức cụ thể của di chúc viết và các trình
tự, thủ tục tương ứng để nâng cao ý thức pháp luật của các cá nhân trong việc lập di
17
chúc, muốn mọi người tuân thủ các thủ tục đó để nâng cao tính xác thực của di chúc
mà họ đã lập nhằm hạn chế những tranh chấp xẩy ra trong thực tế. Mặt khác, như
chúng ta đã biết, việc chứng thực hoặc chứng nhận vào bản di chúc bao giờ cũng
chỉ nhằm mục đích là tạo cơ sở pháp lý để ghi nhận một sự kiện thực tế: di chúc mà
người chết để lại là do chính người đó tự nguyện lập ra trong khi minh mẫn, sáng
suốt. Vì vậy, nếu có những di chúc dù không có chứng nhận, chứng thực nhưng có đủ
các yếu tố khác để khẳng định di chúc đó là do chính người để lại tài sản lập ra một
cách tự nguyện và trong khi minh mẫn thì vẫn phải thừa nhận giá trị pháp lý của di
chúc đó. Cũng cần phải nói thêm rằng, nếu pháp luật chỉ thừa nhận giá trị pháp lý của
những di chúc có chứng thực, chứng nhận, xác nhận mà bác bỏ những di chúc không
có chứng nhận, chứng thực dù di chúc đó vốn là ý nguyện thật sự của người để lại di
sản thì vô hình chung, pháp luật đã xâm phạm đến quyền tự do định đoạt của các cá
nhân. Hơn nữa, những di chúc không có chứng thực hoặc chứng nhận nhưng có đủ
các yếu tố để xác định việc chính tay người để lại di sản lập ra cũng như tính tự
nguyện, sự minh mẫn của người lập di chúc thì về bản chất, tính xác thực của di chúc
đó đã ngang bằng với những di chúc có chứng nhận, chứng thực.
b. Di chúc miệng
Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí thông qua lời nói của cá nhân nằm dịch
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Giả sử rằng nếu pháp luật quy định, muốn định đoạt tài sản sau khi mình
chết, người để lại di sản buộc phải lập di chúc viết trong mọi trường hợp thì sẽ
không đảm bảo được quyền dịch chuyển tài sản của họ vì trong thực tế có nhiều
trường hợp cá nhân rơi vào tình trạng không thể lập di chúc viết được trong khi họ
muốn dịch chuyển tài sản cho người thừa kế theo ý chí của mình. Vì vậy, nhằm đảm
bảo một cách tuyệt đối quyền tự định đoạt của người để lại di sản, pháp luật nước ta
đã dự liệu trong trường hợp thật đặc biệt, sự thể hiện ý chí của cá nhân về việc dịch
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết dù không được thể hiện theo
hình thức viết vẫn được thừa nhận là một di chúc hợp pháp. Tất nhiên, di chúc đó
phải là lời trăng trối cuối cùng trong cơn hấp hối của người để lại di sản.
18
Khoản 1, Điều 651, BLDS 2005 quy định về di chúc miệng như sau:
“ Trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe doạ do bệnh tật
hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản, thì có thể di
chúc miệng.”
Di chúc miệng rất ít được ghi nhận trong các BLDS trên thế giới vì bản thân
nó thiếu sự chắc chắn về chứng cứ. Có thể nói BLDS quy định hình thức di chúc
này là sự thể hiện pháp luật nước ta đã ghi nhận một tập tục vốn là truyền thống từ
lâu đời của dân tộc. Tuy nhiên, quy định trong điều luật trên cho thấy rằng chỉ khi
nào tính mạng của một người lâm vào tình trạng nguy kịch, nếu không nhanh chóng
thì người đó sẽ không kịp thể hiện hết ý nguyện cuối cùng của mình trong việc dịch
chuyển tài sản cho người khác sau khi mình chết thì việc lập di chúc miệng của
người đó mới được thừa nhận.
Mặt khác, nếu ý chí chỉ được thể hiện thông qua lời nói sẽ luôn luôn bị rơi
vào tình trạng mỏng manh về tính xác thực. Vì “lời nói gió bay” và nhất là người
nói ra điều đó đã chết nên dễ bị người khác bóp méo sự thật và vì vậy dễ xảy ra
tranh chấp. Để tránh tình trạng trên, ngoài việc phải tuân thủ các điều kiện để được
coi là hợp pháp của một di chúc nói chung, thì một di chúc miệng chỉ được coi là
hợp pháp chừng nào đã đáp ứng được thêm ba điều kiện sau: người di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng; ý chí cuối
cùng của người di chúc miệng phải dược những người làm chứng ghi lại thành văn
bản và cùng ký tên hoặc điểm chỉ ngay sau đó; văn bản ghi lại ý chí cuối cùng của
người di chúc miệng phải được công chứng hoặc chứng thực chậm nhất là năm
ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng. Ngoài ra, vì di chúc
miệng chỉ được chấp nhận nếu lập ra trong trường hợp đặc biệt làm cho người để lại
di sản không thể lập di chúc theo hình thức viết, cho nên nếu người di chúc miệng
đã qua cơn hiểm nghèo và có điều kiện để lập di chúc viết thì sự định đoạt đó của
họ phải được thể hiện bằng một văn bản viết. Trong trường hợp người đã di chúc
miệng có đủ điều kiện để lập di chúc viết nhưng họ vẫn không lập thì coi như họ
không để lại di chúc và di sản của họ sẽ được dịch chuyển cho người thừa kế theo
19
hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Về vấn đề này,
Khoản 2, Điều 651, BLDS 2005 đã quy định như sau:
“Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”.
Theo việc phân tích trên thì dù là di chúc miệng vẫn phải ghi lại thành văn
bản. Vì vậy thủ tục của di chúc miệng gần giống như thủ tục lập di chúc bằng
văn bản có người làm chứng. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai thủ tục này là ở
chỗ, một văn bản thì bản thân nó là di chúc, một văn bản thì chỉ với tư cách là
ghi lại một di chúc miệng. Nếu so sánh hai loại di chúc này sẽ có một câu hỏi
được đặt ra là tại sao cũng do người khác ghi lại thành văn bản ý nguyện của
người lập di chúc mà một trường hợp được coi là di chúc bằng văn bản, trường
hợp kia lại coi là di chúc miệng ?
Di chúc có người làm chứng được coi là di chúc bằng văn bản vì trong
trường hợp này, người lập di chúc đọc cho người khác ghi nguyên văn sự định đoạt
của mình thành một văn bản, sau đó người lập di chúc tự tay ký hoặc điểm chỉ vào
văn bản đó sau khi đã xác định việc ghi chép đó là đúng với ý nguyện của mình
(trong trường hợp này việc ghi hộ của người khác hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát
của chính người lập di chúc).
Được coi là di chúc miệng trong trường hợp người để lại di sản lâm vào tình
trạng nguy kịch về tính mạng, họ di chúc miệng và người làm chứng ghi lại thành
văn bản lời di chúc đó. Người lập di chúc chỉ nói ra mà không thể kiểm tra lại việc
ghi chép của người làm chứng được, đồng thời văn bản đó không có chữ ký, điểm
chỉ của người lập di chúc. Chính điều này có thể làm ảnh hưởng đến tính xác thực
của văn bản ghi lại di chúc miệng. Làm thế nào để đảm bảo được rằng những người
làm chứng di chúc miệng đã ghi lại vào văn bản đó đúng với ý nguyện thật sự của
người đã chết. Vì vậy, để đảm bảo tính xác thực của di chúc miệng. BLDS 2005 đã
quy định rằng: di chúc miệng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Những người
làm chứng ghi chúc miệng thành văn bản và ký vào văn bản đó. Đồng thời, chậm
nhất là sau 05 ngày, kể từ ngày di chúc miệng được lập, những người làm chứng
20
(hoặc người khác) phải thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan
này xác nhận sự kiện đó.
1.1.2. Người lập di chúc
Theo quy định tại Điều 650 BLDS 2005, người lâp di chúc phải thỏa mãn
các điều kiện sau đây:
Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh
tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình (khoản 1).
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ
hoặc người giám hộ đồng ý (khoản 2).
Quy định tại Điều 650 BLDS đã làm sáng tỏ một số điều kiện và cũng là căn
cứ để xá định chủ thể lập di chúc. Nhìn chung, chủ thể lập di chúc là người định
đoạt tài sản của mình thông qua hành vi pháp lý đơn phương của họ. Vì vậy điều
kiện về độ tuổi và năng lực trí tuệ của cá nhân người lập di chúc là điều kiện tiên
quyết trong việc xác định di chúc có giá trị pháp lý hay không có giá trị pháp lý.
Một di chúc hợp pháp phải thỏa mãn không những các điều kiện tại Điều 655
BLDS, mà còn phải thỏa mãn các điều kiện của giao dịch dân sự được quy định tại
Điều 131 BLDS.
Tuy vậy, Điều 650 BLDS quy định về người lập di chúc vẫn còn tồn tại
những bất cập, đã gây nhiều tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu và những người làm
công tác xét xử, do những quy định chưa rõ ràng và chưa thật toàn diện tại điều luật
nói trên.
Tại khoản 1 Điều 650 BLDS quy định: "Người thành niên có quyền lập di
chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không
thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình”
Nội dung khoản 1 Điều 650 BLDS còn chưa bao quát và chưa có được sự
thống nhất với những điều kiện của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nói
chung và chủ thể trong quan hệ giao dich dân sự nói riêng.
21
Theo quy định của pháp luật thì người đã thành niên có quyền lập di chúc
(trừ những người không có năng lực hành vi nhân sự), nhưng pháp luật lại không
quy định rõ người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 25
BLDS, khi lập di chúc có phải hỏi ý kiến và phải được sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật của người đó hay không? Điều 25 BLDS quy định: “Người nghiện
ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, thì
theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan hoặc tổ chức hữu quan,
Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế hành vi năng lực hành vi
dân sự”. Và tại khoản 2 điều luật này còn có quy định: “Mọi giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý
của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày”.
Như vậy nếu theo quy định tại khoản 1 Điều 650 BLDS, thì những người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 25 BLDS, vẫn có quyền lập
di chúc với tư cách của người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Ngược lại nếu xét theo quy định tại Điều 25 BLDS, thì tuy rằng một người
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhưng đã bị hạn chế theo một bản án có hiệu lực
pháp luật, thì khi người đó xác lập giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người
đại diện. Như vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theomột bản án có hiệu
llực pháp luật , khi lập di chúc mà không có sự đồng ý của người đại diện. Như vậy
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo một bản án có hiệu lực, khi lập di
chúc mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật (khoản 3 điều 150
BLDS), thì di chúc do người đó lập ra có hiệu lực pháp luật không (Pháp luật đã
không quy định rõ).
Hai cách hiểu trái ngược nhau đã và sẽ không tránh khỏi những sai sót trong
việc xác định chủ thể có quyền lập di chúc và tính hợp pháp khi định đoạt ý chí của
người lập di chúc.
Tại khoản 2 Điều 650 BLDS quy định: “Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”.
22
Quy định trên không những chưa chặt chẽ mà còn thiếu những nội dung quan
trọng là căn cứ để xác định hiệu lực của di chúc được thể hiện ở những yếu tố sau:
Khoản 2 Điều 650 BLDS chỉ quy định về độ tuổi của cá nhân có thể lập di
chúc, mà không quy định năng lực trí tuệ của người ở độ tuổi từ đủ 15 đến chưa đủ
18 tuổi.
Việc cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý cho người đủ 15 tuổi cho đến đủ
18 tuổi lập di chúc còn thiếu những quy định:
Thời điểm mà cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý: Sự đồng ý của cha, mẹ
hoặc người giám hộ cho người lập di chúc ở độ tuổi đủ 15 cho đến chưa đủ 18 tuổi
được thể hiện trước khi con lập di chúc, sau khi con lập di chúc hay trong khi con
lập di chúc? Hay cả 3 thời điểm mà sự đồng ý của cha, mẹ hoặc của người giám hộ
chongười ở độ tuổi này lập di chúc đều có giá trị pháp lý? Hoặc sự đồng ý đó chỉ
được thừa nhận vào một thời điểm trước khi di chúc được lập ra?
Hình thức đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho người đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi lập di chúc đã không được điều luật quy định, sẽ không tránh
khỏi có nhiều cách hiểu khác nhau về hình thức đồng ý đó được thể hiện bằng văn
bản riêng hay chỉ cần bút tích cua cha mẹ, hoặc người giám hộ vào bản di chúc?
Hoặc chỉ cần có chữ ký của cha, mẹ hoặc của người giám hộ vào cuối bản di chúc
hoặc vào từng trang của bản di chúc của người ở độ tuổi từ đủ 15 đến 18 tuổi được
lập ra? Ngoài ra sự đồng ý của cha, mẹ hoặc của người giám hộ cho phép cá nhân ở
độ tuổi này lập di chúc có vi phạm hay không vi phạm quy định tại Điều 657 BLDS
về người làm chứng việc lập di chúc? Nếu câu trả lời là có thì di chúc không có giá
trị pháp lý. Nếu câu trả lời là không thì địa vị pháp lý của cha, mẹ hoặc của giám hộ
có mâu thuẫn với quy định tại điều 657 BLDS về người làm chứng việc lập di chúc
quy định tại điều 657 BLDS, vì: “ Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di
chúc trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người để lại di sản;
2. Người có quyền nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự”.