Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tác động của pháp luật đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.96 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ BÍCH

TÁC ĐỘNG CỦA PHÁP LUẬT ĐẾN HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
cô giáo hướng dẫn của tôi, PGS. TS Nguyễn Thị Ánh Vân, Viện trưởng Viện
Luật so sánh, Trường Đại học Luật Hà Nội. Cô đã tận tình và nghiêm khắc
chỉ bảo, hướng dẫn, cũng như động viên tôi hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo Trường Đại
học Luật Hà Nội đã giảng dậy và mang đến cho tôi nhiều kiến thức hữu ích
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn cô con gái nhỏ đã cùng tôi cố gắng vượt qua
những khó khăn trong thời gian hoàn thành Luận văn này, cảm ơn những


người thân yêu trong gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong thời
gian qua.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả Luận văn

Phạm Thị Bích


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hỗ trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về luận văn này nếu có sự
tranh chấp.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả Luận văn

Phạm Thị Bích


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài………………………… 1

2.


Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………. 2

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………... 3

4.

Phương pháp nghiên cứu…………………………………………. 4

5.

Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài……………….. 4

6.

Những điểm mới và ý nghĩa khoa học của luận văn……………... 5

7.

Cơ cấu của luận văn………………………………………………. 5

CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC
NGOÀI VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA PHÁP LUẬT TỚI ĐẦU TƢ
GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
6
1.1. Khái quát về đầu tư gián tiếp nước ngoài…………………………... 6
1.1.1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài…………………………... 6
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư gián tiếp nước ngoài……………………….


9

1.1.3. Vai trò của đầu tư gián tiếp nước ngoài………………………….. 12
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài. 15
1.1.5. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt
Nam……….…………………………………………………………….... 17
1.2. Khái quát về sự tác động của pháp luật tới hoạt động đầu tư gián
tiếp nước ngoài tại Việt Nam……………………………………………. 18
CHƢƠNG 2 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ LĨNH VỰC
PHÁP LUẬT TỚI TÌNH HÌNH ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
21
2.1. Pháp luật và thực trạng của hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài
tại Việt Nam qua các giai đoạn phát triển……………………………….. 21
2.1.1. Giai đoạn 1988 – 1997…………………………………………… 21
2.1.2. Giai đoạn 1998 – 2002…………………………………………… 24
2.1.3. Giai đoạn 2003 – 2006…………………………………………… 26
2.1.4. Giai đoạn 2007 – nay…………………………………………….. 34


2.2. Một vài bình luận về tác động của pháp luật tới thực trạng hoạt
động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam…………………………. 40
2.2.1. Tác động tích cực của pháp luật tới hoạt động đầu tư gián tiếp
nước ngoài tại Việt Nam………………………………………………… 41
2.2.1.1. Các quy định pháp luật về lĩnh vực đầu tư và tỷ lệ sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài được nới rộng qua từng thời kỳ góp phần thúc
đẩy dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam………………. 41
2.2.1.2. Các quy định pháp luật về quản lý ngoại hối ngày càng hoàn
thiện góp phần tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện

hoạt động đầu tư gián tiếp tại Việt Nam……...………………………….. 42
2.2.1.3. Các quy định pháp luật về kế toán và kiểm toán được ban hành
ngày càng chi tiết và phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài xử lý và đánh giá thông
tin tài chính doanh nghiệp………………..……………………………... 46
2.2.1.4. Các quy định pháp luật về công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán đã từng bước tạo môi trường đầu tư minh bạch góp phần
thu hút các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt
Nam……………………………………………………………………… 47
2.2.1.5. Các quy định pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
đã góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, đa dạng hóa
sản phẩm đầu tư, tăng cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư nước
ngoài…………………………………………………………………….. 49
2.2.2. Tác động tiêu cực của pháp luật tới hoạt động đầu tư gián tiếp
nước ngoài tại Việt Nam………………………………………………… 50
2.2.2.1. Các quy định pháp luật về hạn chế tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài đã cản trở dòng vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào Việt
Nam............................................................................................................ 50
2.2.2.2. Một số chuẩn mực kế toán chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế
gây khó cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đánh giá hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp phát hành, vì vậy khó có thể có quyết định đầu
tư đúng đắn………………………………………………………….…... 51
2.2.2.3. Một số quy định pháp luật về công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán còn làm giảm tính minh bạch của thị trường và làm tăng
sự e ngại đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài……………………………. 53
2.2.2.4. Một số quy định pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước làm chậm tiến trình cổ phần hóa, hạn chế khả năng lựa chọn và vì 57


vậy làm giảm cơ hội đầu tư trên thị trường chứng khoán của các nhà

đầu tư nước ngoài…………...............................................................
2.2.2.5. Các quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực kế toán, kiểm toán và công bố thông tin trên thị trường chứng
khoán chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật
để có thể tạo môi trường đầu tư lành mạnh, thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài……………………………………………………….……… 58
2.2.2.6. Sự vắng bóng các quy định pháp luật về khuyến khích, ưu đãi
đầu tư đối với đầu tư gián tiếp nước ngoài nói chung, đối với quỹ đầu
tư và các định chế tài chính trung gian khác nói riêng đã hạn chế sự
phát triển của hình thức đầu tư này.…………………………………….. 60
2.2.2.7. Sự tản mạn, khó tiếp cận của các quy định pháp luật về đầu tư
gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã làm giảm sức hấp dẫn của Việt
Nam đối với hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài………………..
61
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỂ THU HÚT VÀ QUẢN LÝ HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƢ GIÁN
TIẾP NƢỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
62
3.1. Tiềm năng thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam… 62
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thu hút và quản lý hiệu
quả vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam…………………….. 64
3.2.1. Nới rộng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài một cách hợp lý
và ban hành danh mục các lĩnh vực đầu tư cần thắt chặt quản lý kèm
theo quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài………... 64
3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kế toán theo chuẩn mực
quốc tế………………………………………………………………...….. 67
3.2.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm khuyến khích tổ chức và
cá nhân đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam………………..… 69
3.2.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý các hành vi vi phạm
chế độ kế toán và kiểm toán, công bố thông tin nhằm giảm thiểu tiến tới

xóa bỏ các hành vi vi phạm pháp luật nói trên……………………...…... 71
3.2.5. Bổ sung các quy định pháp luật khuyến khích, ưu đãi đầu tư đối
với đầu tư gián tiếp nước ngoài.………………………………………… 72
3.2.6. Xem xét ban hành các quy định pháp luật về đầu tư gián tiếp
nước ngoài một cách thống nhất, có giá trị pháp lý cao.……………….. 72
KẾT LUẬN……………………………………………………………... 74


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBTT
ĐTNN
IMF
FDI
FPI
NHNN
SGDCK
SGDCK HN
SGDCK TP. HCM
TTCK
TTGDCK
TTGDCK HN
TTGDCK TP. HCM

:
:
:
:
:
:
:

:
:
:
:
:
:

Công bố thông tin
Đầu tư nước ngoài
Quỹ tiền tệ quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Ngân hàng Nhà nước
Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
Thị trường chứng khoán
Trung tâm giao dịch chứng khoán
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí
Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 2.1: Các quỹ ĐTNN hoạt động tại Việt Nam giai đoạn 1991 - 1997
Biểu đồ 2.1: Số lượng các doanh nghiệp cổ phần hóa từ năm 1992 - 2013
Biểu đồ 2.2: Quy mô khối lượng giao dịch của nhà ĐTNN từ năm 2000 - 2006
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng giá trị giao dịch của nhà ĐTNN từ năm 2000 - 2006
Biểu đồ 2.4: Tỷ trọng vốn FPI/FDI từ năm 1999 đến năm 2005

Biểu đồ 2.5: Tình hình cấp mã số giao dịch cho nhà ĐTNN (2006 - 2012)


1

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Vốn là một trong các yếu tố số một của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh,
là vấn đề cần quan tâm hàng đầu của mọi nền kinh tế. Trong bối cảnh giao lưu hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và rõ nét như hiện nay, nguồn vốn đầu tư
nước ngoài có vị trí vai trò quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển của các
quốc gia trên thế giới nói chung cũng như của Việt Nam nói riêng. Vốn đầu tư nước
ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần
đáng kể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công
nghệ, khai thông thị trường quốc tế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao..., từ
đó tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công các mục tiêu ổn định và phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, nhắc đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp, các cá nhân cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà hoạch định
chính sách tương lai đa số sẽ thường nghĩ ngay đến nguồn vốn từ hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI), mà ít ai để ý, coi trọng đến
nguồn vốn từ hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment –
FPI). Trong khi vốn FDI có vai trò thúc đẩy sản xuất thì vốn FPI lại có vai trò thúc
đẩy thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở
rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; giúp nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất
lượng quản trị doanh nghiệp. Cả hai nguồn vốn đầu tư nước ngoài này không thể
đánh giá so sánh vị trí vai trò với nhau mà đều có những tác động tích cực quan

trọng đối với nền kinh tế, cần phải được coi trọng như nhau và có các chính sách
thích hợp để thu hút cả hai loại nguồn vốn này.
Tuy nhiên, trên thực tế, so với các quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam
vẫn đang là quốc gia có mức độ thu hút vốn FPI khá thấp, chưa kể đến việc quy mô
vốn FPI vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu thực tiễn đang đặt ra đối
với nền kinh tế và Thị trường Chứng khoán Việt Nam do chưa được quan tâm đúng
mức. Bên cạnh đó, tỷ trọng thu hút vốn FDI so với vốn FPI tại Việt Nam có sự
chênh lệch khá lớn. Một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thực trạng thu


2

hút vốn FPI này chính là yếu tố Pháp luật. Có thể nhận thấy hệ thống các quy định
pháp luật của Việt Nam có liên quan điều chỉnh về hoạt động FPI còn nhiều bất cập,
gây khó khăn trong việc thu hút, quản lý nguồn vốn từ hoạt động FPI này, cũng như
làm giảm sức hấp dẫn của thị trường vốn Việt Nam đối với các nhà đầu tư ngoại
quốc.
Do đó, để góp phần nhìn nhận ảnh hưởng của hệ thống pháp luật tới thực
trạng hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan, tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của pháp
luật đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại việt nam” làm đề tài Luận văn
thạc sĩ của mình. Tác giả nhận thấy cần phải nghiên cứu một cách tổng thể các quy
định pháp luật có liên quan tới hoạt động đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào Việt
Nam qua các thời kỳ phát triển, các quy định pháp luật hiện tại cũng như mới ban
hành, và dự thảo các quy định pháp luật mới có liên quan tới hoạt động FPI, để xác
định được sự ảnh hưởng của chính sách và pháp luật đối với thực trạng nguồn vốn
FPI tại Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu và đánh giá đó, có thể đưa ra một số
kiến nghị cụ thể để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan tới hoạt
động FPI, nhằm vừa thu hút vốn tương xứng với tiềm năng và vừa quản lý có hiệu
quả nguồn vốn này.

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Tại Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về thực trạng hoạt
động FPI cũng như việc thu hút và quản lý nguồn vốn FPI, và một số bài viết về các
vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động FPI, tiêu biểu có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu như:
(1) Nguyễn Thanh Huyền (2015), Quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân;
(2) Bùi Thị Huyền Trang (2012), Thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ kinh tế
đối ngoại, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội;


3

(3) Nguyễn Ngọc Cảnh (2008), Kiểm soát luồng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài thông qua TTCK – kinh nghiệm quốc tế và đối sách cho Việt Nam, Đề tài cấp
Bộ (BTC.08.01);
(4) Trần Thị Phương (2010), Giải pháp thu hút và kiểm soát vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài trên TTCK Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
(5) Mai Hữu Đạt (2010). “Một số bất cập của pháp luật về đầu tư gián tiếp
nước ngoài tại Việt Nam và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nhà Nước và Pháp
luật, Số 3/2010, tr. 25 – 32;
(6) PGS. TS. Phạm Thị Giang Thu (2006). “Một số vấn đề pháp lý về sự
tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào Thị trường Chứng khoán Việt Nam”, Tạp
chí Nhà Nước và Pháp luật, Số 5/2006, tr. 36 - 41;

Tuy nhiên, có thể thấy các công trình nghiên cứu về hoạt động FPI và nguồn
vốn FPI tại Việt Nam chủ yếu là được nghiên cứu dưới góc độ tài chính – kinh tế,
phân tích về tình hình thu hút vốn FPI, về sự ảnh hưởng của nguồn vốn này đối với
Việt Nam cũng như chủ yếu chỉ đi sâu phân tích và đưa ra kiến nghị về các yếu tố
kinh tế - tài chính, yếu tố thị trường để thu hút và kiểm soát nguồn vốn này. Các
Luận văn, Luận án về đề tài này đều là Luận văn thạc sĩ kinh tế, Luận án tiến sĩ kinh
tế. Việc nghiên cứu sâu đề tài dưới góc độ pháp lý là không nhiều, và chủ yếu chỉ là
các bài viết nhỏ và phân tích từng khía cạnh hay một số quy định cụ thể của pháp
luật điều chỉnh về hoạt động FPI, chưa có được cái nhìn tổng quát về sự ảnh hưởng
của yếu tố pháp luật đến việc thu hút và quản lý nguồn vốn này.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề
lý luận liên quan đến hoạt động FPI tại Việt Nam; các quy định cụ thể của pháp luật
Việt Nam điều chỉnh hoạt động FPI tại Việt Nam qua các thời kỳ; đánh giá một số
ảnh hưởng từ việc áp dụng các quy định pháp luật này đến thực trạng tình hình đầu
tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam qua từng giai đoạn phát triển tương ứng; tham
khảo kinh nghiệm và quy định pháp luật có liên quan của một số quốc gia trên thế
giới; từ đó đưa ra một số kiến nghị về phương hướng xây dựng và hoàn thiện một số


4

lĩnh vực pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt
Nam.
Luận văn không có tham vọng nghiên cứu dàn trải đối với toàn bộ các quy
phạm pháp luật có ảnh hưởng tới đầu tư gián tiếp của nước ngoài tại Việt Nam mà
chỉ tập trung nghiên cứu sự tác động của một số lĩnh vực pháp luật có ảnh hưởng

trực tiếp tới hoạt động này như: pháp luật về đầu tư, pháp luật về chứng khoán và
thị trường chứng khoán, pháp luật về quản lý ngoại hối, pháp luật về hoạt động kế
toán và kiểm toán, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi
phạm pháp luật trong các lĩnh vực nêu trên.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn, tác giả đã sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp lịch sử, phương pháp tổng
hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống
kê…
5.

Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của đề tài là nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định về
hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam; tìm hiểu đánh giá những ảnh
hưởng của những quy định pháp luật đó đến thực trạng hoạt động FPI qua các thời
ký phát triển; tham khảo quy định của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra ý kiến
góp ý nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tương ứng trong nước, góp phần vừa
thu hút được vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vừa quản lý tốt thị trường vốn này
bằng công cụ pháp lý.
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn phải giải quyết một số nhiệm vụ
sau:
-

Làm rõ một số vấn đề lý luận về FPI tại Việt Nam;

-


Tìm hiểu thực trạng hoạt động FPI tại Việt Nam qua từng thời kỳ; tiềm

năng thu hút vốn FPI;
-

Tìm hiểu sự thay đổi về chính sách và quy định pháp luật cụ thể liên

quan đến hoạt động FPI;
-

Nghiên cứu, đánh giá tác động của các chính sách và quy định pháp

luật có liên quan đến sự tăng giảm quy mô nguồn vốn FPI qua các thời kỳ;


5

-

Từ đó đề xuất các giải pháp pháp lý để thu hút và quản lý nguồn vốn

6.

Những điểm mới và ý nghĩa khoa học của luận văn

-

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề lý


FPI.

luận về khía cạnh pháp luật liên quan đến hoạt động FPI tại Việt Nam; đánh giá
được một số tác động của hệ thống pháp luật đến thực trạng hoạt động FPI tại Việt
Nam; đề xuất phương hướng xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm
phát triển thị trường, thu hút và quản lý nguồn vốn FPI.
-

Luận văn góp phần hoàn thiện về lý luận về hoạt động FPI; là tài liệu

tham khảo hữu ích trong công tác xây dựng pháp luật; các kết luận trong Luận văn
là cơ sở góp phần hoàn thiện pháp luật; là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên
cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật liên quan đến FPI tại Việt Nam.
7.

Cơ cấu của luận văn

Ngoài mục lục, danh mục các chữ viết tắt, lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về đầu tư gián tiếp nước ngoài và sự tác động của pháp
luật tới đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Chương 2: Đánh giá tác động của một số lĩnh vực pháp luật tới tình hình đầu
tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thu hút và quản lý hiệu
quả vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam.


6

CHƢƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI
VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA PHÁP LUẬT
TỚI ĐẦU TƢ GIÁN TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát về đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài
Trước hết, đầu tư nước ngoài được hiểu là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở
nước ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ… vì
mục đích lợi nhuận hay vì các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định nào đó. Nói cách
khác, đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản - một hình thức cao hơn của
xuất khẩu hàng hóa, thường có xu hướng dòng vốn chảy từ nước phát triển sang
nước kém phát triển hơn. Từ nghiên cứu lý thuyết và thực tế, hoạt động đầu tư nước
ngoài được phân thành hai loại hình đầu tư chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI).
FDI là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) bỏ vốn đầu tư và
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư với mục tiêu thời hạn và lợi ích lâu dài.
Còn FPI được hiểu là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác…của các tổ chức phát hành, hoặc thông qua quỹ đầu
tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà ĐTNN
không quan tâm hoặc không có khả năng quản lý, và không trực tiếp tham gia quản
lý hoạt động đầu tư.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư gián tiếp nước ngoài là hoạt động
mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) được phát hành bởi một công ty hoặc
cơ quan chính phủ của một nước khác trên thị trường tài chính trong nước hoặc
nước ngoài. IMF lấy mức tỷ lệ sở hữu 10% cổ phần hoặc phần vốn có quyền biểu
quyết của doanh nghiệp để làm tiêu chí xác định và phân biệt FDI và FPI [21, tr.
101], [22, tr. 10].
Hiện tại, pháp luật Việt Nam cũng có một số quy định cụ thể làm rõ cụm từ
“đầu tư gián tiếp” và “đầu tư gián tiếp nước ngoài”, cụ thể là:
Theo Khoản 3 Điều 3 Luật Đầu tƣ 2005: “Đầu tư gián tiếp là hình thức
đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác,



7

quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà
nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Luật Đầu tư 2005 được xây dựng theo hướng là văn bản luật áp dụng chung
cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà ĐTNN nên chỉ định nghĩa chung về hình thức
“đầu tư gián tiếp”. Theo quy định này, đầu tư gián tiếp được hiểu là việc các nhà
đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư nhưng không trực tiếp tham gia quản lý, điều
hành việc đầu tư đó và có thể được thực hiện thông qua các hình thức sau:
-

Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác của các tổ

chức phát hành; hoặc
-

Thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán và các định chế tài chính trung

gian khác.
Tương tự định nghĩa trên, Khoản 13 Điều 4 Pháp lệnh Ngoại hối 2005 (đã
được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh Ngoại hối 2013) quy định cụ thể hơn về đầu
tư gián tiếp nước ngoài với đối tượng thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp này là
các nhà đầu tư nước ngoài: “Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam là việc nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thông qua việc mua, bán chứng khoán, các
giấy tờ có giá khác, góp vốn, mua cổ phần và thông qua các quỹ đầu tư chứng
khoán, các định chế tài chính trung gian khác theo quy định của pháp luật mà
không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.” Tuy nhiên, Pháp lệnh ngoại
hối không đưa ra định nghĩa như thế nào được gọi là nhà đầu tư nước ngoài. Trong

trường hợp này, có thể hiểu theo quy định tại Luật Đầu tư 2005: “Nhà đầu tư nước
ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt
Nam.”
Dựa trên tinh thần của các định nghĩa trên, Điều 5 Thông tƣ số 05/2014/TTNHNN hướng dẫn mở và sử dụng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp để thực hiện hoạt
động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã liệt kê cụ thể một loạt các hình
thức của hoạt động FPI tại Việt Nam như sau:
“Hoạt động đầu tư gián tiếp tại Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài bao
gồm các hình thức sau đây:


8

1. Góp vốn, mua, bán cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp Việt Nam
chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam và
không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp.
2. Góp vốn, mua, bán cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
đăng ký giao dịch (UPCOM) và thị trường chứng khoán niêm yết và không trực tiếp
tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp.
3. Mua, bán trái phiếu và các loại chứng khoán khác trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
4. Mua bán các giấy tờ có giá khác bằng đồng Việt Nam do người cư trú là
tổ chức được phép phát hành trên lãnh thổ Việt Nam.
5. Ủy thác đầu tư bằng đồng Việt Nam thông qua công ty quản lý quỹ, công
ty chứng khoán và các tổ chức được phép thực hiện nghiệp vụ ủy thác đầu tư theo
các quy định của pháp luật về chứng khoán; ủy thác đầu tư bằng đồng Việt Nam
thông qua tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép thực
hiện nghiệp vụ ủy thác đầu tư theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
6. Góp vốn, chuyển nhượng vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài (không trực
tiếp tham gia quản lý) trong các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ
theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

7. Các hình thức đầu tư gián tiếp khác theo quy định của pháp luật.”
Việc liệt kê cụ thể các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài như trên, mặc
dù có thể chưa bao quát được hết các trường hợp có thể xảy ra trên thực tế và trong
tương lai, tuy nhiên cũng góp phần giúp cho các nhà đầu tư dễ hình dung và hiểu
hơn về hoạt động đầu tư này.
Qua các quy định trên, có thể thấy khái niệm và các hình thức đầu tư gián
tiếp nước ngoài theo quy định về quản lý ngoại hối cụ thể hơn và có thể hiểu rộng
hơn định nghĩa trong Luật Đầu tư 2005. FPI không chỉ là hình thức đầu tư mua bán
chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác) qua Thị trường Chứng
khoán (TTCK) mà còn bao gồm cả việc nhà ĐTNN góp vốn, mua bán cổ phần,
phần vốn góp của doanh nghiệp Việt Nam chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch
trên TTCK với điều kiện là không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành doanh
nghiệp.


9

Tuy nhiên, khi xây dựng Khoản 1 Điều 5 của Thông tư số 05/2014/TTNHNN trên đây, dường như các nhà làm luật đã có sự nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ
“TTCK” và “Sở Giao Dịch Chứng Khoán” (SGDCK). Vì chỉ khi doanh nghiệp đưa
chứng khoán niêm yết trên SGDCK để chứng khoán được giao dịch mua và bán qua
sàn thì mới cần thực hiện việc “đăng ký”, còn nhiều công ty nhỏ, chưa đủ điều kiện
niêm yết nhưng vẫn có thể có các chứng khoán được mua bán trên TTCK, chỉ có
điều không phải mua bán trên SGDCK. Theo đó, việc sử dụng thuật ngữ TTCK tại
Khoản 1 Điều 5 trên đây là chưa chuẩn xác, mà phải là “Góp vốn, mua, bán cổ
phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp Việt Nam chưa niêm yết, chưa đăng ký
giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán…”
Tóm lại, mặc dù có nhiều định nghĩa về đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhưng
nhìn chung về bản chất, có thể hiểu rằng FPI là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên
biên giới; nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính của nước ngoài nhằm kiếm lời,
không kèm việc tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành doanh nghiệp.

Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài cũng không có bất kỳ cam kết gì về việc chuyển
giao công nghệ, tài sản, kinh nghiệm quản lý hay đào tạo lao động. Khác với FDI,
FPI là hình thức đầu tư tài chính thuần túy chủ yếu được thực hiện trên thị trường
tài chính.
Với quy mô của hoạt động đầu tư nước ngoài trên thị trường tài chính Việt
Nam còn khá nhỏ, phạm vi nghiên cứu phân tích của Luận văn sẽ chủ yếu tập trung
vào hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài chính, chủ yếu là hoạt động FPI được
thực hiện trên TTCK Việt Nam, thông qua các hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu và
các giấy tờ có giá khác do các doanh nghiệp phát hành trên TTCK và gián tiếp đầu
tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, hoặc các định chế tài chính trung gian
khác trên TTCK.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư gián tiếp nước ngoài
FPI có một số đặc điểm đặc trưng cơ bản sau:
(i)

Trong hoạt động FPI, nhà ĐTNN thường không có ý định đầu tư lâu dài

và cũng không có tham vọng hoặc khả năng quản lý hoạt động đầu tư mà mình đã
bỏ vốn vào.


10

Đây là đặc điểm dễ nhận thấy nhất của FPI và để phân biệt với FDI. Đối với
FDI, các nhà ĐTNN thường có ý định bỏ vốn đầu tư lâu dài và trực tiếp quản lý
điều hành việc đầu tư của mình. Còn với FPI, nhà ĐTNN chủ yếu đầu tư để tìm
kiếm lợi nhuận từ tiền lãi của chênh lệch thị giá cổ phiếu, trái phiếu chứ trong nhiều
trường hợp không có ý định đầu tư lâu dài và cũng không muốn hoặc không có kinh
nghiệm, khả năng trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư mà mình đã bỏ vốn
vào. Nói cách khác, các nhà ĐTNN thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp có thể lướt

sóng, tức là bán ngay các cổ phiếu, trái phiếu trong danh mục đầu tư của mình để
lấy lãi nếu thị giá cổ phiếu/trái phiếu đó tăng lên.
(ii) Khi thực hiện FPI, nhà ĐTNN chủ yếu quan tâm đến sự phát triển và
quản lý thị trường tài chính, đặc biệt là TTCK.
Nếu như đối với FDI, nhà ĐTNN quan tâm tới những ưu đãi, sự hấp dẫn của
chính sách thu hút và quản lý vốn FDI, được thể hiện ở môi trường đầu tư với các
yếu tố về cơ sở hạ tầng như điện, nước, giao thông, đất đai, chính sách thuế…, thì
đối với FPI, nhà ĐTNN lại quan tâm và đặt ra yêu cầu nhiều hơn đối với sự phát
triển và quản lý thị trường tài chính, đặc biệt là TTCK. Sự phát triển và quản lý này
thể hiện qua quy mô của thị trường, tính thanh khoản của thị trường, hệ thống các
định chế trung gian, các quy định điều chỉnh và giám sát thị trường…
(iii) Các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài thường không có các cam kết đi
kèm khi thực hiện đầu tư.
Do trong hoạt động FPI, nhà ĐTNN thường không có ý định đầu tư lâu dài
và không tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp nên họ chỉ đầu tư bằng cách bỏ
vốn vào mà không bao gồm các cam kết hay nghĩa vụ về việc chuyển giao công
nghệ, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động… Đây cũng là điểm
khác biệt với FDI.
(iv) Các công cụ đầu tư trong hoạt động FPI hết sức đa dạng, phong phú:
Khi thực hiện hoạt động FPI, các nhà đầu tư có thể lựa chọn một hay nhiều
công cụ đầu tư. Các công cụ đầu tư này có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau và khá phức tạp như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các loại giấy
tờ có giá khác, hay các sản phẩm phái sinh như hợp đồng kỳ hạn (forwards), hợp
đồng tương lai (futures), quyền chọn mua hoặc bán (options), hợp đồng hoán đổi


11

(swaps), chứng quyền có đảm bảo (covered warrant)… Do sự phong phú của các
công cụ đầu tư mà hình thức đầu tư gián tiếp đem lại, các nhà đầu tư nói chung và

nhà ĐTNN nói riêng có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm tránh rủi ro cho
khoản vốn đã đầu tư.
(v)

Các công cụ đầu tư trong hoạt động FPI có tính thanh khoản cao:

Như đã đề cập, dù các nhà đầu tư trong FPI không quan tâm tới việc doanh
nghiệp kinh doanh gì nhưng họ lại rất quan tâm tới việc doanh nghiệp đó kinh
doanh như thế nào, tức là doanh nghiệp hoạt động có lãi hay bị lỗ trước khi quyết
định đầu tư. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp làm ăn hiệu quả thì thị giá
chứng khoán của doanh nghiệp đó sẽ tăng (trừ số ít trường hợp có sự gian lận về kế
toán và kiểm toán). Vì vậy, có thể nói đa số nhà ĐTNN khi lựa chọn hình thức đầu
tư này sẽ chỉ quan tâm tới lợi tức, tới sự biến động của thị giá CK, cũng như không
muốn bị ràng buộc bởi việc quản lý điều hành công ty và các thủ tục pháp lý phức
tạp như hoạt động FDI. Theo đó, các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể dễ dàng
mua đi bán lại các chứng khoán mà họ đang nắm giữ khi thấy có cơ hội và để đầu tư
vào những nơi có mức tỷ suất lợi tức cao hơn và một mức rủi ro nhất định, hay với
một mức rủi ro thấp hơn và mức tỷ suất lợi tức nhất định. Điều này tạo nên và thể
hiện tính thanh khoản cao của các công cụ đầu tư trong hoạt động FPI, đồng thời
khiến cho hình thức đầu tư này mang tính ngắn hạn, phụ thuộc vào động thái của
TTCK cũng như tác động của môi trường vĩ mô mà nhà ĐTNN sẵn sàng đầu tư vào
hoặc rút vốn nhanh ra khỏi thị trường.
(vi) Dòng vốn FPI có tính bất ổn định và dễ bị đảo ngược:
Do các nhà ĐTNN thực hiện hoạt động FPI thường chỉ quan tâm đến lợi ích
đầu tư ngắn hạn và có thể thay đổi danh mục đầu tư của mình một cách nhanh
chóng để tìm kiếm tỷ suất lợi tức cao hơn hay để có được mức độ rủi ro thấp hơn
nên dòng vốn FPI chảy vào các quốc gia nhận đầu tư còn có đặc tính là bất ổn định
và dễ bị đảo ngược. Nếu như đối với FDI, dòng vốn đầu tư vào các dự án nào đó
thường có thể ổn định trong vòng 5 năm, 10 năm, thậm chí là 50 năm, thì đối với
FPI, dòng vốn của các nhà đầu tư sẽ không ổn định trong một thời gian dài như vậy

mà có thể được thay đổi liên tục và nhanh chóng, được chuyển từ hạng mục đầu tư


12

này sang hạng mục đầu tư khác, thậm chí là từ thị trường tài chính của quốc gia này
sang thị trường tài chính của quốc gia khác.
Tính bất ổn định của dòng vốn FPI và tính thanh khoản cao của các công cụ
đầu tư trong FPI có khả năng gây ra tình trạng dễ bị đảo ngược của dòng vốn này,
mang đến tác động xấu đối với nền kinh tế. Tính dễ bị đảo ngược của dòng vốn FPI
được thể hiện ở chỗ các nhà ĐTNN có thể ồ ạt cùng nhau đầu tư vốn lớn vào thị
trường tài chính của một quốc gia nào đó trong một thời điểm nhất định, tuy nhiên
cũng có thể nhanh chóng xảy ra tình trạng dòng vốn FPI bị đảo chiều, các nhà
ĐTNN cùng nhau rút vốn ồ ạt khi có sự thay đổi trong quan điểm của giới đầu tư
hoặc sự thay đổi của các điều kiện kinh tế bên trong cũng như bên ngoài của quốc
gia đó. Chỉ trong một thời gian ngắn mà luồng vốn FPI có thể chuyển sang một thị
trường tài chính khác và hậu quả để lại cho nước bị rút vốn do sự đảo ngược dòng
vốn FPI này là quốc gia nhận đầu tư sẽ mất đi một nguồn vốn lớn chảy từ ngước
ngoài vào.
1.1.3. Vai trò của đầu tư gián tiếp nước ngoài
Hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và FPI nói riêng đều có thể mang
đến những tác động tích cực và tiêu cực đối với nước nhận đầu tư. Tại các nhóm
quốc gia khác nhau, FPI cũng có sự khác nhau về qui mô, cơ cấu, chính sách, cũng
như đưa đến những tác động tích cực khác nhau. Tuy nhiên, FPI được nhắc tới
nhiều hơn và có vai trò lớn hơn đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Nhìn chung, vai trò của FPI có thể được nhìn nhận trên cả bốn góc độ
đối với tổng thể nền kinh tế, với thị trường, doanh nghiệp, công chúng đầu tư, người
tiêu dùng của nước tiếp nhận đầu tư; và có thể kể đến một số vai trò quan trọng
hàng đầu và dễ nhận thấy nhất của FPI cụ thể như sau:
Thứ nhất, FPI góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và

làm giảm chi phí huy động vốn, giúp các doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận
nguồn vốn hơn.
Vai trò đầu tiên này của FPI đặc biệt có ý nghĩa sâu sắc và thể hiện rõ nét
trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Do nhiệm vụ thực
hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhu cầu
vốn đầu tư ở những nước này rất lớn, thường vượt xa số tiền tiết kiệm dự trữ được.


13

Do vậy, FPI là một trong các nguồn tài chính cho các nền kinh tế đang thiếu vốn, bù
đắp khoản thiếu hụt giữa nhu cầu đầu tư và năng lực tài chính của một quốc gia,
điều hòa và góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Khi dòng vốn FPI được
sử dụng để tài trợ, thực hiện các hoạt động đầu tư mới, thì đây sẽ là nguồn vốn bổ
sung quan trọng cho nguồn vốn nội địa nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, giúp
thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các nước đang phát
triển. Đối với doanh nghiệp nhận đầu tư, FPI là nguồn tài chính được huy động với
chi phí thấp, tiếp cận dễ dàng hơn mà vẫn duy trì quyền chủ động hoàn toàn trong
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, FPI góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài
chính nội địa.
Sự xuất hiện của các nhà ĐTNN sẽ thúc đẩy thị trường tài chính nội địa hoạt
động hiệu quả hơn, góp phần tích cực làm cho TTCK trở nên đồng bộ, cân đối và
sôi động hơn, có khả năng thu hút các nhà đầu tư dài hạn hơn. Thị trường tài chính
của quốc gia nhận đầu tư FPI sẽ nhận được lợi ích từ việc các thành phần tham gia
nền kinh tế có những chuyển biến tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà ĐTNN.
Đi cùng với sự gia tăng phát triển của dòng vốn FPI là sự phát triển mạnh mẽ của
các định chế trung gian và các tổ chức dịch vụ tài chính – chứng khoán phụ trợ khác
để đáp ứng nhu cầu của các nhà ĐTNN dự định đầu tư vào thị trường nội địa. Các
chuẩn mực quốc tế được quan tâm và áp dụng rộng rãi hơn với các dịch vụ như dịch

vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm,
kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường... Để thu hút và đáp ứng yêu cầu của nhà
ĐTNN, các chủ thể liên quan đến việc xây dựng, quản lý và tham gia TTCK cũng
phần nào ý thức hơn trong việc phát triển TTCK, góp phần tích cực làm cho TTCK
trở nên minh bạch, đồng bộ và sôi động hơn. Đặc biệt, nhờ có động lực từ dòng vốn
FPI, các chương trình cổ phần hóa, tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước sẽ được đẩy
nhanh hơn, nhất là đối với các doanh nghiệp lớn thông qua việc thu hút các nhà đầu
tư chiến lược, có uy tín, từ đó cũng góp phần làm tăng và đa dạng hóa các sản phẩm
trên TTCK. Ngoài ra, thông qua hoạt động của mình, sự tham gia của các nhà
ĐTNN vào thị trường với kinh nghiệm dày dạn về đầu tư chứng khoán, quản lý
danh mục đầu tư, khả năng phân tích dự báo, kỹ năng nghiệp vụ tài chính sẽ góp


14

phần tạo ra một văn hóa đầu tư mới, mang đến nhiều kinh nghiệm cho các nhà đầu
tư trong nước. Chính các yếu tố này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị
trường tài chính nội địa.
Thứ ba, FPI góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước.
FPI góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước theo nguyên
tắc kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Để thu hút vốn FPI cũng như đi cùng với
sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn FPI là nhu cầu cấp bách phải hoàn thiện và phát
triển TTCK, làm nảy sinh những tình huống mới bắt buộc cơ quan quản lý Nhà
nước phải nghiên cứu, học hỏi để có các biện pháp hữu hiệu nhằm mục tiêu duy trì,
ổn định và phát triển bền vững TTCK nói riêng và hệ thống tài chính nói chung.
Năng lực quản lý Nhà nước cũng được nâng cao do nhu cầu bắt kịp với xu thế hội
nhập quốc tế, đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước phải có các công cụ giám sát thị
trường hiệu quả theo hướng công khai, minh bạch, cũng như đặt ra yêu cầu đối với
Nhà nước phải hoàn thiện pháp luật và quản lý việc thực thi pháp luật có hiệu quả
đối với các lĩnh vực khác có liên quan tới việc thu hút vốn FPI như vấn đề quản lý

ngoại hối, chế độ kế toán, kiểm toán, xử lý vi phạm pháp luật…
Thứ tư, FPI góp phần nâng cao khả năng đầu tư của công chúng đầu tư và
góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
FPI góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, tăng cường năng
lực của doanh nghiệp, sẽ kéo theo tác động nâng cao khả năng đầu tư của công
chúng đầu tư. Trước sự am hiểu của các nhà đầu tư, doanh nghiệp phải tìm mọi
cách để tăng tính minh bạch trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến phân
phối lợi nhuận cho cổ đông hợp lý, đảm bảo lợi ích của cổ đông nhỏ và chủ nợ.
Theo đó, các công ty này khi nâng cao được tính minh bạch trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình sẽ đồng nghĩa với khả năng sản xuất ra các sản phẩm
hàng hóa, cung cứng các dịch vụ chất lượng cao, giá cả phù hợp, thỏa mãn tốt hơn
nhu cầu của người tiêu dùng.
Bên cạnh các vai trò, tác động tích cực nêu trên đối với nền kinh tế, FPI còn
có nguy cơ gây ra một số tác động tiêu cực như làm tăng mức độ nhạy cảm và bất
ổn định của nền kinh tế, có thể làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và chính
sách tỷ giá, có khả năng gây ra tình trạng mất ổn định của hệ thống tài chính, làm


15

mất cân bằng vĩ mô,… do dòng vốn FPI rất linh hoạt trong việc lưu chuyển vốn
quốc tế và dễ lây lan, dây chuyền, có thể vào rất nhanh và ồ ạt xong cũng có thể rút
ra khỏi thị trường rất nhanh thông qua việc các nhà ĐTNN mua và bán chứng khoán
trên TTCK. Do đó cần có các chính sách, quy định phù hợp để vừa thu hút lại vừa
quản lý tốt được hình thức đầu tư nước ngoài này theo hướng tận dụng tối đa các tác
động tích cực đồng thời giảm thiểu những rủi ro, ảnh hưởng tiêu cực do hoạt động
FPI mang lại.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài
Có nhiều cách phân chia và xác định các yếu tố ảnh hưởng và quyết định đến
hoạt động FPI của các nhà ĐTNN.

Ví dụ theo IMF, FPI bao gồm nhưng không giới hạn vào các chứng khoán
(securities) được mua bán trên thị trường có tổ chức hoặc các thị trường tài chính
khác. FPI thường liên quan tới hạ tầng tài chính, như khuôn khổ thích hợp về pháp
lý, về quản lý và giải quyết, cùng với các nhà tạo lập thị trường và khối lượng đủ
lớn những người bán và mua [21, tr. 110].
Hay theo nghiên cứu của Nomura Research Institute năm 1998, các yếu tố
ảnh hưởng đến việc thu hút vốn FPI bao gồm các yếu tố mang tính quốc tế và các
yếu tố mang tính thị trường [15, tr. 9].
Tuy nhiên, để đơn giản và dễ hiểu, nhà ĐTNN khi xem xét cân nhắc để quyết
định có nên thực hiện hoạt động FPI vào một thị trường nhất định nào đó hay không
có thể chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
-

Bối cảnh quốc tế: chủ yếu là các vấn đề liên quan đến hòa bình, sự ổn

định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi trường pháp lý quốc tế. Trong bối cảnh
thế giới hòa bình, kinh tế thế giới ổn định không có khủng hoảng, xu hướng giao
lưu hội nhập sâu và rộng, nhiều Hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc
gia được ký kết dần dần tạo môi trường pháp lý chung, thống nhất… thì càng tạo sự
thuận lợi cho các hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, đặc biệt là đối với FPI nói
riêng.
-

Chiến lược, nhu cầu, và khả năng của nhà ĐTNN: mỗi nhà ĐTNN sẽ có

các định hướng chiến lược phát triển khác nhau, và tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng


16


của mỗi nhà đầu tư, họ sẽ hoạch định cho mình các dự án FPI vào các thị trường
khác nhau tại các thời điểm nhất định phù hợp đối với họ.
-

Môi trường đầu tư trong nước: gồm các yếu tố về chính trị, kinh tế, thị

trường và yếu tố chính sách, pháp luật, cụ thể:
+ Sự ổn định chính trị: ở các nước có nền chính trị bất ổn định, thường
xuyên đảo chính… sẽ gây ra tâm lý tiêu cực, khiến các nhà đầu tư trở nên e dè khi
đầu tư. Ngược lại, đất nước có sự ổn định về chính trị sẽ góp phần tạo tâm lý tốt cho
nhiều nhà ĐTNN khi cân nhắc và quyết định việc tham gia đầu tư vào các nước
này.
+ Tình hình phát triển kinh tế: các nước có nền kinh tế phát triển bền vững
hoặc có tiềm năng tăng trưởng kinh tế càng cao thì càng thu hút được nhiều nguồn
vốn FPI, do các nhà đầu tư cảm thấy yên tâm hơn và nhận thấy nguồn lợi nhuận
tiềm năng có thể nhận được khi đầu tư vào các nước này.
+ Chính sách và luật pháp: khi có chính sách thu hút nguồn vốn FPI rõ
ràng, thông thoáng, cũng như hệ thống pháp luật cụ thể, minh bạch, dễ hiểu, thuận
lợi, các nhà ĐTNN sẽ hiểu rõ hơn về môi trường đầu tư và đưa ra các quyết định
đầu tư dễ dàng hơn.
+ Các yếu tố mang tính thị trường: sự phát triển, minh bạch của thị trường
tài chính, chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm tài chính, tính thanh khoản của thị
trường, hệ thống thanh khoản giao dịch và chi phí giao dịch, sự phát triển của hệ
thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, sự đa dạng và vận hành có hiệu quả
của các định chế tài chính trung gian, sự phát triển và chất lượng của hệ thống thông
tin và dịch vụ chứng khoán…. đều có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định đầu tư
của các nhà ĐTNN. Mà các yếu tố này lại chịu tác động lớn từ chính sách và cách
thức quản lý của mỗi Nhà nước khác nhau, được thể hiện và thực hiện qua công cụ
hữu hiệu là hệ thống pháp luật có liên quan.
Như vậy, có thể thấy pháp luật là một trong các yếu tố có ảnh hưởng đến

hoạt động FPI của các nhà ĐTNN. Sự ảnh hưởng, tác động cụ thể của pháp luật đối
với hoạt động đầu tư này sẽ được nghiên cứu và phân tích chi tiết tại các phần dưới
đây.


17

1.1.5. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Bất kể mặt trái, các tác động tiêu cực của FPI có thể ảnh hưởng tới nền kinh
tế của nước chủ nhà nhận đầu tư, những lợi ích mà FPI mang lại vẫn chiếm ưu thế
và vì vậy thu hút nguồn vốn FPI vào trong nước vẫn là việc làm hết sức cần thiết.
Đối với các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, FPI luôn được coi là một nguồn
lực quan trọng để bổ sung vào sự thiếu hụt nguồn vốn do khả năng tiết kiệm có giới
hạn của quốc gia đó khi phải đối mặt với các áp lực từ các mục tiêu phát triển kinh
tế. Với cơ chế linh hoạt và tính thanh khoản cao, nguồn vốn FPI có khả năng bù đắp
vào sự thiếu hụt vốn trên thị trường mà không phải thực hiện qua các bước, các thủ
tục như nghiên cứu khảo sát, đệ trình hồ sơ, và nhận sự chấp thuận của cơ quan có
thẩm quyền như đối với trường hợp của các dự án FDI.
Cụ thể đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FPI mang một ý nghĩa rất quan
trọng. Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, và để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước này, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư không hề nhỏ để xây dựng,
từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Với lượng nguồn
vốn trong nước còn hạn chế, việc huy động vốn nước ngoài trong những năm trước
mắt vẫn được coi là biện pháp quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội đã đề ra và liên quan đến chính sách đối ngoại, quan hệ kinh tế, chính trị
giữa Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới, các tổ chức quốc tế. Trong thời
gian trước, Việt Nam tập trung thu hút vốn FDI là chủ yếu, mà gần đây mới chú
trọng đến vốn FPI nên giá trị vốn FPI được đầu tư vào Việt Nam còn nhỏ so với các
nước trong khu vực, so với nguồn vốn FDI tại Việt Nam, và so với tiềm năng thu

hút vốn FPI của đất nước.
Ngoài ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung nhanh chóng nguồn vốn thiếu
hụt cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, như đã phân tích cụ thể ở
trên, việc tham gia của các nhà đầu tư FPI sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường
tài chính, mà hạt nhân là TTCK của Việt Nam, giúp cho thị trường tài chính phát
triển mạnh mẽ, minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, giúp doanh nghiệp trong
nước có điều kiện tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, việc
thu hút vốn FPI sẽ tạo áp lực cho Nhà nước Việt Nam phải cải cách thể chế, nâng


×