Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao - So sánh giữa pháp luật tố tụng hình sự của Lào và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.18 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

INDAVONG SORPHAPMIXAY

THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ
QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
– SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA
LÀO VÀ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ NGUYỄN VĂN TUÂN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong hai năm học cao học tại trường Đại học Luật Hà Nội, tác giả
luận văn đã được học và sinh sống trong môi trường giáo dục tốt nhất Việt
Nam. Với long say mê học hỏi và yêu mến đất nước, con người Việt Nam, tác
giả luận văn đã rất vinh dự được học tập ở trường Đại học Luật Hà Nội. Tác
giả luận văn xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ,
giáo viên trường Đại học Luật Hà Nội và khoa Sau Đại học trường Đại học
Luật Hà Nội. Đặc biệt là thầy TS. Nguyễn Văn Tuân đã hướng dẫn, chỉ bảo


tận tình cho tác giả luận văn trong quá trình học tập và làm luận văn tốt
nghiệp
Tác giả

INDAVONG SORPHAPMIXAY


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

2. CHXHCN:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

3. VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

4. TTHS

Tố tụng hình sự

5. Đảng NDCM Lào

Đảng nhân dân cách mạng Lào


MỤC LỤC

S.Tr
LỜI MỞ ĐẦU

1
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỐI CAO
1.1. Khái niệm thẩm quyền điều tra

6

1.2. Đặc điểm thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao

11

1.3. Vai trò cùa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc
thực hiện thẩm quyền điều tra

14

1.4. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật tố tụng hình
sự về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao Cộng hòa DCND Lào.

19

CHƯƠNG 2

PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỐI CAO CỦA LÀO SO SÁNH VỚI VIỆT NAM
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Lào về thẩm quyền điều tra của cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

22

2.2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thẩm quyền điều tra của cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

30

2.3. So sánh pháp luật tố tụng hình sự Lào và Việt Nam về thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

43


CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT TỐI CAO Ở CỘNG HÒA DCND LÀO.
3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ
QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT TỐI CAO LÀO

49

3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát tối cao Lào


49

3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện thẩm quyền điều tra của
cơ quan điều tra Viện kiểm sát tối cao Lào

54

3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

57

3.2. Những yêu cầu cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở
Lào

59

3.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền điều tra
của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở Lào trên cơ sở tham
khảo kinh nghiệm của Việt Nam

62

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69



LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, nhằm
thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở để truy tố,
xét xử người phạm tội. Do đó, giai đoạn điều tra có ý nghĩa quyết định trong việc
giải quyết vụ án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Chính vì thế mà pháp
luật TTHS chi quy định những cơ quan và những chủ thể nhất định mới được
thực hiện chức năng điều tra. Cơ quan điều tra VKSNDTC Lào là một trong hệ
thống cơ quan điều tra hình sự của Nhà nước Lào. Cơ quan điều tra VKSNDTC
Lào là một trong những công cụ không thể thiếu đối với sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phát hiện, ngăn chặn và đề xuất xử
lý hành vi phạm tội.
Nghiên cứu, tìm ra giải pháp xác định thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra VKSNDTC Lào nhằm đảm bảo sự thống nhất trong phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và sự an toàn của công dân, nhằm
đáp ứng với các yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và kế thừa phát huy
các thành tựu trong lịch sử tố tụng hình sự. Nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn
đang đặt ra cần phải được lý giải một cách đầy đủ, toàn diện về thẩm quyền điều
tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC Lào, qua đó đề xuất những kiến nghị bổ
sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
điều tra của Cơ quan diều tra VKSNDTC Lào đang là vấn đề cấp thiết đặt ra đối
với ngành Kiểm sát nhân dân.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện cả hai nước Việt Nam và Lào đều tiến hành
cải cách tư pháp, sửa đổi và bổ sung pháp luật. Thẩm quyền của các Cơ quan
điều tra nói chung và thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSNDTC nói riêng
đang chi phối quá trình sửa đổi BLTTHS của cả Lào và Việt Nam. Vì vậy, thẩm
quyền của Cơ quan điều tra VKSNDTC cần được nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện, đảm bảo phù hợp với thực tiễn.

1



Từ những lý do đã nêu trên, cho thấy việc lựa chọn đề tài “Thẩm quyền
điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – So
sánh giữa pháp luật tố tụng hình sự của Lào và Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu
luận văn Thạc sỹ luật học là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực
tiễn, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện pháp luật;
phù hợp với định hướng sửa đổi, bổ sung BLTTHS và Luật Tổ chức VKSND
của Nhà nước Việt Nam và Lào, cũng như đáp ứng với yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC mới chỉ
được đề cập đến trong một số ít công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam và
Lào mà chủ yếu là các bài viết trên các tạp chí thí dụ như: “Một số ý kiến về
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân” - Đỗ Thị
Tuyết, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/1999; “Thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra cùa Viện kiểm sát nhân dân” - Phạm Quang Luyện — Tạp chí Kiểm sát
số 6/1999. Ở cấp độ nghiên cứu sâu hơn có đề tài nghiên cứu Khóa luận: “Thẩm
quyền của Cơ quan điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam”;
“Thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên theo yêu cầu cải cách tư
pháp” — Nguyễn Ngọc Khánh - Tạp chí Kiểm sát số Tết tháng 02/2011; “Địa vị
pháp lý và thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao” —
Lê Hồng Thanh - Tạp chí Kiểm sát số 11/2012; “Tăng cường phối hợp, phân loại
xử lý thông tin về xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” - Hà Như Khuê - Tạp chí Kiểm sát số
11/2012. Ngoài ra, còn có Luận văn thạc sĩ luật học của Phut Sa Đy Bu Đa Phét
năm 2005: “Pháp luật về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra
công an - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” – trường Đại học Quốc Gia Lào;
Luận văn thạc sĩ của Phon Sa Đy: “Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của các tổ chức điều tra Viện kiểm sát tỉnh ViêngChan năm 2007” – Khoa Luật

Học viện an ninh nhân dân Lào. Tuy nhiên chưa có công trình so sánh pháp luật

2


của các nhà khoa học hai nước Việt Nam và Lào về thẩm quyền điều tra của các
cơ quan điều tra
Các nghiên cứu và các ý kiến nêu trên chưa nhiều nhưng đã có những
cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, có những giá trị khoa học nhất định, là
nguồn tài liệu tham khảo cho việc xây dựng các nội dung về thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra VKSNDTC. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu này còn
có những vấn đề chưa được đề cập một cách đầy đủ và toàn diện hoặc có đề cập
nhưng mức độ nghiên cứu chưa sâu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện các quy
định tại Điều 22, 23 Bộ Luật TTHS Lào năm 2009, Điều 11, Điều 25 Luật Viện
kiểm sát Lào năm 2009 và các điều luật khác có liên quan và Khoản 3 Điều 110
BLTTHS 2003, Điều 18 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Điều 20
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 của Cơ quan điều tra
VKSNDTC Việt Nam.
Luận văn tập trung nghiên cứu những đường lối chính sách của Đảng
Cộng sản, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, và của Nhà nước Lào, Nhà nước Việt
Nam về điều tra vụ án hình sự và các hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam
và của CHDCND Lào về điều tra vụ án hình sự về thẩm quyền điều tra vụ án
hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, diễn giải,
chứng minh, đối chiếu, so sánh pháp luật, quy nạp, hệ thống hóa để tìm ra điểm
giống nhau và khác nhau trong quy định pháp luật của mỗi quốc gia.

5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.

3


- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và những
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền điều
tra vụ án hình sự ở CHDCND Lào.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là: a)Nghiên cứu những vấn đề lý
luận về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; b)Nghiên cứu và so sánh các quy định của pháp luật hiện hành
của Việt Nam và Lào về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; c) Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật tố tụng hình sự về thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở Cộng hòa DCND Lào.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Luận văn đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm
quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ở Việt Nam và ở Cộng hòa DCND Lào;
- Luận văn đã nghiên cứu và so sánh một cách đầy đủ, có hệ thống các
quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam và Lào về thẩm quyền điều tra vụ án
hình sự của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Luận văn đã đưa ra được các giải pháp, có tính khả thi nhằm hoàn thiện
pháp luật về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao ở Cộng hòa DCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương là:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự
của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


4


Chương 2. Pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự
của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao của Lào và Việt Nam
Chương 3. Thực tiễn thực hiện, yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ở Cộng hòa DCND Lào.

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

1.1. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao
Theo từ điển tiếng Việt, “thẩm quyền” là “quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [26], còn theo từ điển Luật học thì “thẩm
quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan,
tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do pháp luật quy định” [25]. Như vậy,
khái niệm thẩm quyền gồm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền
quyết định. Quyền hành động là quyền được ỉàm những công việc nhất định;
quyền quyết định là quyền giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho
phép.
Từ đó, có thể hiểu thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy
định cho cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ mậy Nhà nước được thực hiện
những hành vi và ra những quyết định pháp lý nhất định trong phạm vi luật định.

Cũng theo từ điển tiếng Việt, “điều tra” là hoạt động “tìm tòi, xem xét để
biết rõ sự thật” [26]. Điều tra phát hiện, tìm ra chứng cứ buộc tội là chức năng
của Cơ quan điều tra do pháp luật TTHS quy định. Dĩ nhiên, để củng cố thêm
các chứng cứ buộc tội, các cơ quan này có thế thu thập thêm thông tin ngoài tố
tụng nhưng đó không là chứng cứ, chỉ là công việc hỗ trợ hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra. Để phân biệt với các cơ quan tham gia điều tra phát hiện tội
phạm như các cơ quan phát hiện, ngăn chặn tội phạm bằng biện pháp nghiệp vụ,
biện pháp trinh sát, PGS.TS. Trần Đình Nhã cho rằng: Cơ quan điều tra trong
TTHS chính là cơ quan chuyên trách điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS, là
Cơ quan điều tra tố tụng hình sự [14.tr25]. Theo quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam, Cơ quan điều tra bao gồm: Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân,
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra thuộc
6


VKSNDTC. Theo quy định của pháp luật TTHS của Lào, Cơ quan điều tra của
Lào là các tổ chức điều tra bao gồm: các tổ chức điều tra (cảnh sát, sĩ quan quân
đội, công chức hải quan, cán bộ lâm nghiệp, chính phủ); các tổ chức điều tra của
Viện kiểm sát; các tổ chức điều tra của Toà án. Ngoài ra, pháp luật TTHS Việt
Nam cũng quy định một số cơ quan khác như: Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây
không phải là các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhưng do tính chất đặc biệt trong
hoạt động của các cơ quan này là thường xuyên đấu tranh với các vi phạm trong
lĩnh vực mà mình quản lý. Do đó, để đảm bảo kịp thời ngăn chặn tội phạm thì
pháp luật TTHS đã quy định cho các cơ quan này được tiến hành một số hoạt
động điều tra ở mức độ giới hạn, mức độ “điều tra ban đầu”. Như vậy, Cơ quan
điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra có quyền thay mặt Nhà nước thực hiện những hành vi tố tụng nhất định
trong một phạm vi, một giai đoạn tố tụng nhất định. Thẩm quyền đó là quyền

tiến hành những hoạt động điều tra để phát hiện và chứng minh tội phạm theo
quy định của pháp luật TTHS và giai đoạn để tiến hành các hoạt động điều tra là
giai đoạn điều tra.
Như vậy, thẩm quyền điều tra vụ án hình sự là quyền của các Cơ quan
điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra được thực hiện các hoạt động điều tra theo sự phân định của pháp luật tố
tụng hình sự và sự phối hợp giữa các cơ quan đó để thực hiện có hiệu quả hoạt
động điều tra các vụ án hình sự.
Trong hệ thống Cơ quan điều tra của Việt Nam và Lào, các Cơ quan điều
tra được tổ chức ở nhiều Bộ, ngành khác nhau, phù hợp với tính chất và đặc
điểm riêng của từng ngành và có thẩm quyển điều tra riêng. Việc xác định thẩm
quyền điều tra nhằm đảm bảo mọi tội phạm xảy ra phải được phát hiện, điều tra
nhanh chóng, kịp thời.

7


Về mặt lý luận, Có nhiều cách để phân định thẩm quyền điều tra giữa các
Cơ quan điều tra với nhau, việc phân biệt chủ yếu dựa vào các căn cứ sau đây:
- Căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm, tính phức tạp của vụ án
(thẩm quyền điều tra theo vụ việc): Tội phạm càng nghiêm trọng, vụ án càng
phức tạp thì càng đòi hỏi Cơ quan điều tra cấp cao hơn, nơi có nhiều cán bộ điều
tra có kinh nghiệm và trình độ cao hơn tiến hành điều tra nhằm đảm bảo sự
khách quan, chính xác trong quá trình tố tụng. Căn cứ này dùng để phân định
thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra các cấp khác nhau trong cùng một
bộ, ngành.
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của từng ngành (thẩm quyền điều tra theo
tội danh): Trên thực tế, mỗi ngành có chức năng, nhiệm vụ cùa mình và có lĩnh
vực hoạt động riêng biệt. Do đó, mỗi ngành sẽ có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, điều kiện, cũng như kinh nghiệm để thực hiện nhiệm vụ được phân công. Bởi

vậy, khi tội phạm xày ra trong lĩnh vực quản ỉý của ngành nào thì Cơ quan điều
tra của ngành đó tiến hành điều tra sẽ hợp lý và đạt hiệu quả. Căn cứ này cho
phép phân định được thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra của các
ngành với nhau và giữa các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra với nhau.
- Căn cứ vào địa giới quản lý hành chính Nhà nước (thẩm quyền điều tra
theo lãnh thổ): Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà
tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trưởng họp không xác định được
địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền cùa Cơ quan điều tra
nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt Theo quy định này, Cơ quan
điều tra thực hiện thầm quyền của mình trước hết là theo lãnh thổ, theo địa giới
hành chính đã được phân công. Trường họp không xác định được địa điểm xảy
ra tội phạm thì thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra được xác định tùy
thuộc vào nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt. Căn cứ này cho
phép phân định thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra cùng cấp trong
cùng một ngành.
8


- Căn cứ vào tội phạm và người phạm tội (thẩm quyền điều tra theo sự
việc và đối tượng): Xác định vụ án do đối tượng thực hiện thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra nào, đặc điểm của căn cứ này nhằm xác định hay
để phân biệt thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân
dân với các Cơ quan điều tra của đơn vị khác và giữa các Cơ quan điều tra trong
Quân đội nhân dân với nhau.
Như vậy, để điều tra, giải quyết các vụ án hình sự một cách hiệu quả, cần
thiết phải phân định thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra. Nhưng để
phân định rõ ràng thẩm quyền điều tra phải dựa vào các căn cứ hợp lý và khoa
học. Điều này sẽ khắc phục được tình trạng đùn đẩy, trùng lặp trong hoạt động
điều tra, đồng thời tạo cơ sở cho việc phối hợp giữa các Cơ quan điều tra, nhằm

bảo đảm cho công tác điều tra được tiến hành chính xác, kịp thời, góp phần vào
cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
Trước đây, ở Việt Nam, Cơ quan điều tra trong ngành Kiểm sát được
thành lập ở cả hai cấp VKSNDTC và VKSND cấp tỉnh. Hiện nay, theo quy định
của BLTTHS 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 sửa đổi bổ sung
2009 thì Cơ quan điều tra chỉ còn được thành lập ở VKSNDTC. Cơ quan điều tra
của VKSNDTC bao gồm: Cơ quan điều tra VKSNDTC và Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát Quân sự Trung ương (Khoản 3 Điều 1 Pháp lệnh Tổ chức điều tra
hình sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2009). Trong phạm vi của Luận văn chỉ
bàn đến thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra với tư cách là Cơ quan điều tra
VKSNDTC trong hệ thống Cơ quan điều tra của VKSNDTC.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 110 BLTTHS 2003; Khoản 1 Điều 18
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, thì Cơ quan điều tra VKSNDTC
có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự về một số loại tội xâm phạm hoạt động
tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm
đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân.

9


Các tổ chức điều tra của Viện kiểm sát theo Điều 11, Luật Viện kiểm sát
Lào 2009 quy định “Các tổ chức điều tra của Viện kiểm sát nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào là các Văn phòng công tố công cộng ở Viện kiểm sát địa
phương và Uỷ ban công tố ở Viện kiểm sát tối cao…”
Theo quy định tại Điều 25, Luật Viện Kiểm sát Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào năm 2009: “Uỷ ban công tố có trách nhiệm xem xét đơn khiếu nại tố
cáo của cơ quan tổ chức nhà nước, Mặt trận yêu nước, tổ chức xã hội, doanh
nghiệp và công dân theo luật định; tiến hành đấu tranh phòng chống tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật nhằm hạn chế và loại trừ những điều kiện
nguyên nhân phát sinh tội phạm”thì cơ quan điều tra VKSTC là Uỷ ban công tố

có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự các loại tội phạm xâm phạm hoạt động
của các cơ quan tổ chức nhà nước, doanh nghiệp và công dân Lào.
Qua đó, ta có thể thấy Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là những
hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án và Cơ quan thi hành án trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành bản án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, kinh
doanh thương mại. Hành vi này là những hành vi làm cho quá trình giải quyết
của các cơ quan tư pháp bị sai lệch, không đúng pháp luật, từ đó gây thiệt hại
cho lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân. Do đó, hoạt động điều tra và xử
lý đối với loại tội phạm này có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm đảm bảo cho các
hoạt động tư pháp được tuân thủ theo các quy định của pháp luật, đảm bảo pháp
luật được thực hiện nghiêm minh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, giữ vững lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước vào các Cơ quan
điều tra nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung.
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm thẩm quyền điều tra
các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra VKSNDTC như sau: “Thẩm quyền điều
tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ tìm hiểu
hành vi phạm tội, làm rõ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô
10


tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định hậu quả
phạm tội. Để thực hiện các biện pháp bảo đảm bồi thường, tìm ra nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, yêu cầu các cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa với những vụ án hình sự xảy ra
trong lĩnh vực hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức của
các cơ quan tư pháp thuộc thẩm quyền xét xử cùa TAND.
1.2. Đặc điểm thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao

Về mặt lý luận và thực tiễn thì Cơ quan điều tra VKSNDTC có thẩm
quyền điều tra đối với một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà
người thực hiện tội phạm là cán bộ, công chức ngành tư pháp như: Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên. Đây là những chủ thể có sự am hiểu
pháp luật nên khi thực hiện hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp đều sử dụng
những thủ đoạn tinh vi, ít để lại dấu vết nên rất khó có bằng chứng để phát hiện,
xử lý, bất kể vụ án đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện
hay cấp tỉnh.
Xuất phát từ đâu mà pháp luật lại quy định cho Cơ quan điều tra
VKNDTC có thẩm quyền điều tra những loại tội phạm có tính chất đặc biệt như
vậy? Việc pháp luật TTHS Việt Nam quy định mỗi Cơ quan điều tra trong bộ
máy Nhà nước có thẩm quyền điều tra các loại tội phạm khác nhau xuất phát từ
chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của từng cơ quan. Bởi vì trong mỗi
lĩnh vực hoạt động của mình, cơ quan đó sẽ có đủ chức trách và kinh nghiệm,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương tiện và điều kiện thuận lợi nhất để thực
hiện nhiệm vụ đã được phân công. Điều đó làm nên nét đặc trưng, làm nên đặc
điểm riêng biệt trong thẩm quyền điều tra của mỗi cơ quan điều tra, đồng thời
khắc phục tình trạng bị chồng chéo về thẩm quyền, bảo đảm điều tra nhanh
chóng, kịp thời, hiệu quả, không để lọt tội phạm. Dựa trên những lý do đó mà
Điều 110 BLTTHS 2003 quy định: Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
điều tra các tội phạm thuộc lĩnh vực quốc phòng; Cơ quan điều tra VKSNDTC
11


điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp; Cơ quan điều tra của Bộ
Công an điều tra tất cả các loại tội phạm còn lại. Ở Lào, VKS ngoài chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư
pháp còn kiểm sát chung việc tuân theo pháp luật của các cơ quan hành chính,
kinh tế, xã hội do đó các cơ quan điều tra của VKS có thẩm quyền điều tra
không chỉ những tội phạm xảy ra trong hoạt động tư pháp mà còn điều tra những

tội phạm xảy ra của các cơ quan hành chính, kinh tế, xã hội. “Viện kiểm sát nhân
dân là cơ quan kiểm sát của Nhà nước, có chức năng kiểm sát và tuân thủ việc
thi hành pháp luật của các Bộ, cơ quan, mặt trận yêu nước , tổ chức xã hội, cơ
quan chính quyền địa phương, doanh nghiệp, công dân để đảm bảo tính đúng
đắn và thống nhất và truy tố bị can lên toà án theo luật định” (Điều 87, Hiến
pháp Lào năm 2009)
Quy định này xuất phát từ đặc thù trong lĩnh vực hoạt động của từng
ngành và tư tưởng lập pháp khác nhau của từng quốc gia mà có thể lý giải đối
với tư tưởng lập pháp của Việt Nam như sau:
Lực lượng Công an nhân dân là lực đông đảo có chức năng quản lý Nhà
nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; trực tiếp đấu tranh phòng,
chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội. Từ đó pháp luật quy định cho Cơ quan điều tra trong Công an nhân
dân có thẩm quyền rộng nhất, điều tra tất cả các tội phạm còn lại không thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và trong
VKSND như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại hòa bình, chống loài
người, tội phạm chiến tranh, các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội... [23.tr.11 ].
Quân Đội nhân dân là lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ sự thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang chính quy,
tinh nhuệ. Do đặc thù của nhiệm vụ trên mà Cơ quan điều tra trong Quân đội
nhân dân có thẩm quyền điều tra những tội phạm thuộc lĩnh vực quốc phòng mà
bị can là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sằn sàng chiến đấu,
12


phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các
đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; hoặc bị can không là những đổi tượng nêu trên
nhưng phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội
[28].

Riêng đối với VKSND, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tổ, kiểm sát hoạt động tư pháp Trong
phạm vi chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải
được xử lý theo pháp luật.
Với chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp nên Viện kiểm sát tham gia vào toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, từ giai
đoạn phát hiện tội phạm, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, điều tra vụ án
hình sự, đến khi kết thúc quá trình tố tụng (bản án có hiệu lực pháp luật) và
chấm dứt khi thi hành xong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Bên canh
đó, Viện kiểm sát các cấp có phạm vi kiểm sát rất rộng, bao gồm công tác kiểm
sát việc giải quyết các loại án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính,
kinh tế và những việc khác theo quy định của pháp luật. Thông qua các công tác
này, Viện kiểm sát có thể phát hiện những thiếu sót, vi phạm cùa các cơ quan tư
pháp, cán bộ tư pháp để yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục vi
phạm; nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
thì chuyển cho Cơ quan điều tra VKSNDTC để khởi tố, điều tra, xử lý theo quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, Viện kiểm sát có điều kiện thuận lợi để phát
hiện các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp. Từ đó mà pháp luật quy định cho
Cơ quan điều tra VKSNDTC có thẩm quyền điều tra một số loại tội xâm phạm
hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

13


Từ những phân tích và từ khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra VKSNDTC đã nêu trên, cho phép làm rõ đặc điểm thẩm quyền điều tra của

Cơ quan điều tra VKSNDTC như sau:
- Thứ nhất: Cơ quan điều tra VKSNDTC có thẩm quyền điều tra đối với
các vụ án xảy ra trong lĩnh vực hoạt động tư pháp mà không chỉ riêng các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXII BLHS. Vì có những
trường hợp cán bộ tư pháp có hành vi tham ô, nhận hối lộ để làm sai lệch hồ sơ
vụ án, ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật... thì tuy rằng những hành vi tham
ô, nhận hối lộ thuộc Chương các tội phạm về chức vụ, Mục A các tội phạm về
tham nhũng, nhưng rõ ràng gắn với hành vi phạm tội tham nhũng này là các
hành vi thuộc loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà suy đến cùng là xâm
phạm trật tự tư pháp.
- Thứ hai: Chỉ những vụ án trong lĩnh vực tư pháp mà chủ thể phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp mới thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra VKSNDTC. Ngược lại, những tội mặc dù được quy định tại Chương các
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nhưng không do cán bộ thuộc các cơ
quan tư pháp thực hiện thì không thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra
VKSNDTC.
- Thứ ba: Những vụ án trong lĩnh vực hoạt động tư pháp mà người phạm
tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp phải thuộc thẩm quyền xét xử của cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát, nếu thuộc thẩm quyền xét xừ cùa Tòa án quân
sự thì thuộc thấm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Quân sự
Trung ương.
1.3. Vai trò cùa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong việc thực hiện thẩm quyền điều tra
Sự tồn tại của Cơ quan điều tra VKSND trong lịch sử pháp luật và đến
nay là Cơ quan điều tra VKSNDTC đã chứng tỏ vai trò, tầm quan trọng, sự cần
thiết của Cơ quan điều tra VKSNDTC trong việc thực hiện thẩm quyền điều tra
14


một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Điều này thể hiện rõ hơn ở

các mặt sau:
Thứ nhất, đảm bào cho VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo quy định của Điều 107 Hiến pháp
năm 2013 và Điều 1 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 thì: Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định bằng sáu mặt công tác,
trong đó có nhiệm vụ: “Điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp” (Điều 3 Luật Tổ chức
VKSND Việt Nam năm 2002); và theo quy định của Điều 87 Hiến pháp Lào
năm 2010, Điều 25 Luật Viện kiểm sát Lào năm 2009, Điều 22, Điều 23 Bộ Luật
TTHS Lào năm 2009 việc thực hiện thẩm quyền điều tra ở VKSND Lào và Việt
Nam được giao cho Cơ quan điều tra chuyên trách thực hiện, đó là Cơ quan điều
tra VKSNDTC. Tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSNDTC xuất phát từ chức năng
công tố của VKSND trong TTHS. Cơ quan điều tra cho dù tổ chức ở bộ, ngành
nào thì cũng để phục vụ chức năng công tố, giúp cơ quan thực hành quyền công
tố đưa vụ án ra Tòa xét xử và buộc tội người phạm tội trước Tòa án. Công tác
điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra
VKSNDTC là một trong những mặt công tác quan trọng nhằm bảo đảm cho
VKSND thực hiện có hiệu quả và làm tốt hơn chức năng thực hành quyền công
tố. Mặt khác, VKSND là cơ quan chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc bảo
đảm chống làm oan sai, chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Đồng thời,
trong điều kiện hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng nền
công tố mạnh, nhằm thực hiện chủ trương của Đảng đã nêu trong Nghị quyết 49
của Bộ Chính trị là: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra. Vì vậy, Cơ quan điều tra VKSNDTC đóng
vai trò quan trọng, cần thiết phải củng cố và tăng cường năng lực cho Cơ quan
điều tra VKSNDTC để Viện kiểm sát phát huy hiệu quả và thực hiện tốt hơn
chức năng công tố đã được Đảng và Nhà nước giao phó.

15



Bên cạnh đó, thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp, VKSND là cơ quan có ưu thế trong việc nắm bắt, phát hiện các vi phạm và
tội phạm trong lĩnh vực hoạt động tư pháp; quan trọng hơn, kết quả điều tra cùa
Cơ quan điều tra VKSNDTC sẽ hỗ trợ cho VKSND thực hiện tốt hơn chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp. Như vậy, việc giao cho Cơ quan điều tra VKSNDTC
thực hiện thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp là hoàn toàn cần thiết.
Thứ hai, thực trạng nền tư pháp Việt Nam và Lào còn có những hạn chế,
tồn tại đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá tại Nghị quyết 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005: “Chất lượng hoạt động tư pháp còn chưa cao vẫn còn tình trạng
bắt, giam, giữ người trái pháp luật, để xảy ra oan, sai trong điều tra, truy tố, xét
xử; một bộ phận cán bộ tư pháp xuống cấp về đạo đức ”, chính điều đó dẫn đến
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có xu hướng gia tăng và ngày càng phức
tạp. Vì vậy, việc duy trì Cơ quan điều tra VKSNDTC với tư cách là Cơ quan
điều tra chuyên trách, có kỉnh nghiệm và đang hoạt động tích cực để phát hiện,
điều tra xử lý và phòng ngừa có hiệu quả đối với tội phạm này là hoàn toàn phù
hợp. Hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC góp phần tăng cường
sự kiểm soát quyền lực tư pháp của các cơ quan tư pháp, góp phân bảo đảm sự
trong sạch, vững mạnh của các cơ quan tư pháp.
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 và Kết luận 79/KL-TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng
xác định: “Trước mắt tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức Cơ quan điều tra theo
pháp luật hiện hành, nghiên cứu và chuẩn bị mọi điểu kiện đế tiến tới tổ chức lại
các Cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối”. Quá trình triển khai thực
hiện chủ trương thu gọn đầu mối Cơ quan điều tra theo yêu cầu của cải cách tư
pháp, có quan điểm cho rằng: không tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSNDTC. Bởi
vì:
Về lý luận, việc tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSNDTC thành một hệ

thống thì không thể: “Kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát với hoạt động của Cơ quan
16


điều tra’ [20] và như vậy khó có thể phát huy được hiệu quả trong hoạt động
điều tra. Hơn nữa, theo Hiến pháp năm 2013 thì chức năng cơ bản của VKSND
là kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố (Hiến
pháp Lào năm 2010 còn trao thêm quyền kiểm sát chung cho Viện kiểm sát
Lào). Vì vậy nên tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát tập trung để thực hiện
tốt hai chức năng cơ bản này.
Việc tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSNDTC đã phá vỡ quan hệ tố tụng và
không đảm bảo tính khách quan trong hoạt động kiểm sát các hoạt động điều tra.
Sẽ là không hợp lý nếu Cơ quan điều tra và cơ quan kiểm sát hoạt động điều tra
là ngang quyền nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND;
cũng sẽ không hợp lý nếu cho rằng ĐTV của Cơ quan điều tra (thuộc Công an,
Quân đội) vi phạm pháp luật còn ĐTV của Cơ quan điều tra VKSNDTC không
bao giờ vi phạm trong quá trình điều tra. Nếu vi phạm thì cơ quan nào sẽ phát
hiện và cơ quan nào sẽ tiến hành điều tra và nếu để Cơ quan điều tra VKSNDTC
điều tra thì việc kiểm sát điều tra liệu có khách quan không khi mục đích xây
dựng Cơ quan điều tra VKSNDTC để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động tố
tụng.
Về thực tiễn, khi xây dựng Cơ quan điều tra VKSNDTC chúng ta quá kỳ
vọng là Cơ quan điều tra này sẽ đem lại những kết quả khách quan trong hoạt
động điều tra. Tuy nhiên qua nhiều năm thực hiện, kết quả lại rất khiêm tốn, tình
hình tội phạm những năm gần đây có xu hướng gia tăng, trong đó có những tội
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC nhưng kết quả hoạt
động điều tra của cơ quan này lại chưa có biến chuyển rõ rệt. Điều đỏ là không
tương xứng với quy mô tổ chức, làm lãng phí một đội ngũ cán bộ hùng hậu, cả
về chất xám cũng như tiền bạc của nhân dân, lại vừa gây khó khăn trong việc
kiểm tra, giám sát cũng như việc phân định thẩm quyền điều tra [21.tr13].

Tuy nhiên, khi đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn
thực hiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC cho thấy việc
duy trì Cơ quan điều tra VKSNDTC là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp bảo vệ
17


pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nếu VKSND chỉ dừng lại ở mức độ phát hiện và yêu
cầu xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp thì chưa đi sâu, làm
sáng tỏ những tội phạm do cán bộ tư pháp thực hiện. Mặt khác, nếu để Cơ quan
điều tra của Cảnh sát điều tra những loại tội phạm này thì không khách quan, vì
Cảnh sát nằm trong cơ quan hành pháp. Nghị quyết 54-NQ/TW ngày 07/6/2011
của Bộ chính trị nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 là: “tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động
điều tra” “Viện kiểm sát phân công các tổ chức điều tra ở địa phương và trung
ương phối hợp với các tổ chức điều tra của các ngành khác do pháp luật quy
định”. Do vậy, giao thẩm quyền điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư
pháp cho Cơ quan điều tra của VKSNDTC Việt Nam và Lào là một tất yếu.
Không có Cơ quan điều tra của ngành Kiểm sát nhân dân thì những vi phạm
pháp luật của một số cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không được phát
hiện, điều tra, xử lý hoặc để lọt tội phạm, nhiều việc làm oan người vô tội không
được giải quyết, minh oan dẫn đến mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà
nước, vào các cơ quan bảo vệ pháp luật. Rõ ràng cần thiết phải có nhận thức
đúng về thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra, trong đó pháp luật TTHS
xác định thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC là nhằm “hỗ trợ”
cho VKSND thực hiện chức năng kiểm sát và duy trì quyền công tố. Hoạt động
điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC là hoạt động tố tụng độc lập để phục
vụ cho chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố, vẫn
phải chịu sự kiếm sát điều tra: “Trong quá trình điều tra, hoạt động điểu tra của
Cơ quan điểu tra chịu sự kiếm sát điều tra của Cơ quan thực hành quyển công tố
và kiểm sát điều tra (Vụ thực hành quyền công tổ và kiểm sát điều tra án hình sự

về trật tự xã hội Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dãn tối cao)” (Điều 5 Quy chế về tổ
chức và hoạt động của Cục Điều tra VKSNDTC Lào năm 2010).
Bên cạnh đó, việc thiết lập cơ cấu chính trị xã hội của bộ máy Nhà nước,
không đơn giản là cơ quan đó có nhiều việc hay ít việc, không thể so sánh hiệu
quả bằng tiền như tổ chức kinh doanh. Không thể cho rằng vì tiết kiệm ngân

18


sách nên phải giảm bớt cơ quan này. Mà phải xuất phát từ mục đích nếu có tội
phạm xảy ra thì cơ quan này phải làm những gì để đấu tranh có hiệu quả với tội
phạm đó [30]. Do đó, xuất phát từ yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng
chống tội phạm trong lĩnh vực tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan
tư pháp, xuất phát từ vị trí Hiến định trong bộ máy Nhà nước thì chỉ có Cơ quan
điều tra của ngành Kiểm sát tiến hành điều tra các loại tội phạm trên mới có hiệu
quả.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của Cơ quan điều tra VKSNDTC trong
việc thực hiện thẩm quyền điều tra, tác giả cho rằng cần tiếp tục duy trì hệ thống
Cơ quan điều tra trong ngành Kiểm sát nhân dân như hiện nay và cần thiết làm
rõ hơn thẩm quyền điều ữa, đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực của
Cơ quan điều tra VKSNDTC nhằm phát huy hiệu quả, chất lượng công tác điều
tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp hiện nay
1.4. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hình sự
về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao Cộng hòa DCND Lào.
Việt Nam và Lào đều là hai quốc gia đang phát triển nhưng mỗi quốc gia
có một nét đặc thù riêng về mặt lịch sử, kinh tế – xã hội. Chính vì vậy mà sự
phát triển pháp luật nói chung, pháp luật về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự
của cơ quan điều tra viện kiểm sát nói riêng cũng có những điểm riêng biệt.

Thông qua việc nghiên cứu tiến trình phát triển pháp luật TTHS Lào, ta có thể sơ
lược như sau:
Sau những cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập dân tộc, giải phóng
đất nước. Lào bắt tay vào xây dựng kinh tế- xã hội trong đó chú trọng xây dựng
pháp luật. Để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp,
năm 1977 Hội đồng bộ trưởng Lào đã ban hành Nghị định số 115/1977/NĐHĐBT quy định về điều tra các vụ án hình sự. Tiếp đến, năm 1989 BLTTHS

19


1989 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 1989 của Lào được ban hành trong
đó có quy định về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND. Mặc dù
còn chưa hoàn chỉnh, có những quy định còn chưa cụ thể và chưa thật sự hợp lý
làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác điều tra, ảnh hưởng đến mục đích của pháp
luật TTHS là xử lý kịp thời, nhanh chóng tất cả các vụ án hình sự nhưng đây là
văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm
sát.
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng Nhân dân cách mạng và Nhà nước
Lào đã chủ chương sửa đổi BLTTHS 1989, trong đó có việc xác định lại thẩm
quyền điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra VKSND. Tại Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VII, quan điểm của Đảng nhân dân cách mạng Lào nêu rõ:
“sắp xếp lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa
trinh sát, điều tra ban đầu với hoạt động của Cơ quan điều tra nhằm đảm bảo sự
thống nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ
và sự an toàn của công dân” [2]. Quan điềm này được cụ thể hóa tại Nghị quyết
số 25-NQ/TW ngày 02/01/1999 của Bộ Chính trị Lào: “Ở ngành Kiểm sát tổ
chức Cơ quan điều tra tại Viện kiểm sát tối cao, tổ chức cơ quan điều tra ở Viện
kiểm sát cấp tỉnh, huyện để điều tra tội xâm phạm hoạt động tư pháp, xâm phạm
hoạt động của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và công dân”[4].
Trên tinh thần đó, Quốc hội nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã

thông qua BLTTHS 1999 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1999, trong
đó có những quy định thay đổi cơ bản về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra VKSNDTC, mở ra một thời kỳ mới cho sự hoàn thiện và phát triển của chế
định này trong pháp luật TTHS Lào.
Tuy nhiên trong giai đoạn này, các văn bản pháp luật của Lào còn mang
nặng tính hình thức, chưa có tác dụng điều chỉnh nhiều quan hệ trong hoạt động
điều tra của cơ quan điều tra. Trước nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập
thế giới, sự gia tăng của các loại tội phạm mới gây nguy hiểm cho chế độ Cộng
hoà dân chủ, cho tổ chức, doanh nghiệp và công dân Lào và học hỏi kinh nghiệm
20


×