Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường, pháp luật và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.02 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ NGỌC QUỲNH

VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG, PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại
học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật
Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
chương trình sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng
viên –TS Nguyễn Văn Phương, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ dẫn và giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn động viên, quan
tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.


Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 21 tháng 05 năm 2015
Học viên

HOÀNG THỊ NGỌC QUỲNH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ
môi trường, pháp luật và thực tiễn” là do bản thân tự thực hiện và không sao
chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng
mình. Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Phương. Những phần sử dụng tài liệu
tham khảo trong luận văn đã được trích dẫn và nêu rõ nguồn trong phần tài liệu
tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của
luận văn này.

Hà Nội, ngày 21 tháng 05 năm 2015
Tác giả luận văn
Học viên

HOÀNG THỊ NGỌC QUỲNH


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CĐDC

Cộng đồng dân cư


ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

Luật BVMT

Luật Bảo vệ môi trường

Luật BV&PTR

Luật Bảo vệ và phát triển rừng

MTTQVN

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Nghị định số 18/2015/NĐ-CP

Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy
hoạch bảo vệ môi trường, đánh gía môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi
trường và kế hoạch bảo vệ môi trường

Nghị định số 19/2015/NĐ-CP

Nghị định của Chính phủ số 19/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Bảo vệ môi trường


Quy ước BV&PTR

Quy ước bảo vệ và phát triển rừng

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 4
Chương 1 ....................................................................................................... 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG................................................................. 4
1.1. Khái niệm cộng đồng dân cư ................................................................ 4
1.2. Vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường ........................ 8
1.3. Ý nghĩa của việc cộng đồng dân cư tham gia bảo vệ môi trường ........ 14
1.4. Vai trò pháp luật nhằm bảo đảm sự tham gia bảo vệ môi trường của
cộng đồng dân cư ...................................................................................... 15
Chương 2 ..................................................................................................... 18
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
..................................................................................................................... 18
2.1. Cộng đồng dân cư tham gia phản biện xã hội về bảo vệ môi trường ... 18
2.2. Cộng đồng dân cư tham gia xây dựng hương ước, quy ước về bảo vệ
môi trường tại địa phương ......................................................................... 24
2.3. Cộng đồng dân cư tham gia thực hiện xã hội hóa bảo vệ môi trường.. 30
2.4. Cộng đồng dân cư giám sát, phát hiện, khiếu nại hành vi vi phạm pháp
luật bảo vệ môi trường và cưỡng chế thi hành pháp luật ............................ 40

Chương 3 ..................................................................................................... 55
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM
THAM GIA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ ....... 55
3.1. Một số giải pháp về chính sách bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo và
nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư ...................................................... 55


3.2. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường về vai trò của cộng đồng dân
cư .............................................................................................................. 56
3.3. Nâng cao năng lực thực hiện vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ
môi trường ................................................................................................ 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 65


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, trước khi hoàn toàn trở
thành nền kinh tế xanh, Việt Nam trải qua giai đoạn tăng trưởng gây ô nhiễm.
Đối tượng gánh chịu thiệt hại nặng nề nhất chính là cộng đồng dân cư (CĐDC)
sinh sống tại khu vực bị ô nhiễm. Khi người dân chỉ chú trọng làm kinh tế,
chính quyền quá quan tâm tới tăng trưởng và một bộ phận cán bộ vì lợi ích cá
nhân mà lãng quên hệ lụy của phát triển kinh tế không bền vững, thì “nỗi đau
ung thư” đã đổ xuống hàng ngàn hộ gia đình. Theo kết quả điều tra của Trung
tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước thuộc Bộ Tài nguyên và Môi
trường, tính đến năm 2012 cả nước tồn tại 37 “làng ung thư” với 1.136 người
chết vì ung thư trong vòng 20 năm trở lại đây [30]. Những con số này chỉ phán
ánh một góc nhỏ thực tiễn, bởi ai cũng biết: đi dọc chiều dài đất nước, không ít
thì nhiều nơi đâu cũng có người dân đang ngày ngày vật lộn, đấu tranh với ô

nhiễm, vẫn bế tắc trong vô vàn lá đơn kêu cứu gửi đi không hồi đáp và những
lời hứa chẳng đi kèm hành động. Chỉ khi cả một cộng đồng đứng lên biểu tình
đòi lại công bằng, tự cưỡng chế hành vi gây ô nhiễm thì vấn đề của họ mới thu
hút sự chú ý của chính quyền. Rõ ràng sức mạnh cộng đồng đã trở thành điểm
tựa vững chắc dể người dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân, đó là
quyền được bảo vệ sức khỏe và được sống trong môi trường trong lành.
Việt Nam hiện nay đang manh nha chuyển dịch sang nền kinh tế xanh và
quá trình này sẽ kéo dài đủ lâu để xuất hiện thêm nhiều “làng ung thư” nữa nếu
như vấn đề bảo vệ môi trường chưa được ưu tiên giải quyết và không có một cơ
chế pháp lý hiệu quả để phát huy sức mạnh CĐDC. Đây chính là một biểu hiện
cụ thể của lấy dân làm gốc, dựa vào sức mạnh của nhân dân, tận dụng tối đa
nguồn lực tại chỗ để tiến hành công tác bảo vệ môi trường.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vai trò của CĐDC trong công tác bảo vệ môi trường không phải là một
đề tài mới lạ nhưng cho đến thời gian gần đây mới bắt đầu nhận được nhiều sự
quan tâm, nghiên cứu. Một số nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: “Đánh giá các quy
định hiện hành nhằm bảo đảm vai trò của cộng đồng trong bảo vệ môi trường”
- TS. Nguyễn Văn Phương – Đại học Luật Hà Nội - Ủy viên Ban chấp hành Hội
Bảo vệ tài nguyên môi trường Việt Nam (2011); “Báo cáo tổng thuật kết quả đề
tài Luật Bảo vệ môi trường 2005 – Thực trạng và hướng hoàn thiện” - TS.
Nguyễn Văn Phương và đ.t.g (2012); Hội thảo khoa học quốc tế: “Môi trường
và Nhà nước pháp quyền: Tăng cường thực thi pháp luật về môi trường ở khu
vực Đông Nam Á” - Viện Nhà nước và Pháp luật & Konrad Adenauer Stiftung
(Hà Nội, 2014); Báo cáo nghiên cứu Cải cách tư pháp trong lĩnh vực môi
trường nhằm góp phần bảo vệ quyền con người và giảm thiểu xung đột – Cải
cách tư pháp trong lĩnh vực môi trường góp phần đảm bảo sự công bằng trong

phát triển - Trung tâm Con người và Thiên nhiên và đ.t.g (2014). Các nghiên
cứu này đã đạt được thành tựu khoa học trên những phương diện nhất định. Tuy
nhiên một số nội dung còn chưa được đề cập tới, đặc biệt là các nội dung được
sửa đổi bổ sung kể từ năm 2014 trong các văn bản pháp luật như Luật Bảo vệ
môi trường (Luật BVMT), các văn bản hướng dẫn mới ra đời như Nghị định của
Chính phủ số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Bảo vệ môi trường (Nghị định số 19/2015/NĐ-CP) ....

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam về hoạt
động bảo vệ môi trường của CĐDC như: Luật BVMT 2014 và các văn bản
hướng dẫn, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 (Luật BV&PTR 2004) và các
văn bản hướng dẫn,... và thực tiễn CĐDC thực hiện vai trò của mình trong
những năm gần đây.


3

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các phương pháp nghiên cứu gồm:
phân tích, so sánh, lịch sử, chứng minh, tổng hợp, quy nạp được kết hợp để triển
khai thực hiện đề tài. Trong đó, phân tích, so sánh và chứng minh thông qua
khảo sát thực tiễn là những phương pháp chính của đề tài. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích và khái quát hoá được sử dụng để làm sáng tỏ
các căn cứ, cơ sở khoa học cho việc cần thiết phải hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu, đánh giá pháp luật
hiện hành với các văn bản pháp luật tiền nhiệm và thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh các luận điểm,
các nhận định và các đề xuất phương án xây dựng, hoàn thiện.


5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục tiêu của luận văn nhằm đưa ra cái nhìn toàn cảnh pháp luật hiện
hành quy định về CĐDC tham gia bảo vệ môi trường. Chỉ ra những bất cập của
các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về CĐDC tham gia bảo vệ
môi trường. Luận văn cũng đưa ra một số giải pháp đề xuất pháp nhằm hoàn
thiện chính sách, pháp luật và bảo đảm tính hiệu quả của quá trình thực thi.

6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của cộng đồng dân cư trong
bảo vệ môi trường
Chương 2. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện vai trò
của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm tham
gia bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư.


4

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CỘNG
ĐỒNG DÂN CƯ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

1.1. Khái niệm cộng đồng dân cư
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
Dưới góc độ ngôn ngữ học, trên thế giới, thuật ngữ cộng đồng community được sử dụng phổ biến hơn nhưng lại có cách hiểu tương tự với
thuật ngữ CĐDC - residential community. Theo từ điển Oxford Advanced
Learner, hiểu một cách đơn giản, cộng đồng là một nhóm người sống trong một

khu vực địa lý nhất định (Oxford advanced learner’s dictionary). Chi tiết hơn,
Từ điển trực tuyến Wikitionary định nghĩa cộng đồng là một nhóm người có
cùng hệ tư tưởng và thường sử dụng chung ngôn ngữ, phong tục tập quán,
truyền thống và luật lệ.
Dưới góc độ xã hội học, cộng đồng có nội hàm bao chứa CĐDC. Cụ thể,
theo Wikipedia, nếu như cộng đồng là một đơn vị xã hội, không giới hạn cấp
bậc, có hệ thống tiêu chuẩn chung, ví dụ cộng đồng mạng, cộng đồng Châu
Âu... Thì CĐDC là một cộng đồng ở phạm vi hẹp (ví dụ: thị trấn nhỏ) cùng với
doanh nghiệp và cơ sở sản xuất công nghiệp là 3 yếu tố chính tạo nên một cộng
đồng đặc trưng. Nó được hình thành trên cơ sở dân cư tập trung sinh sống lâu
dài với khế ước xã hội, các hoạt động tương trợ lẫn nhau và có giá trị văn hóa
riêng biệt so với các hình thức tổ chức xã hội khác của loài người (Từ điển bách
khoa toàn tư Britannica).
Dưới góc độ luật học Việt Nam, khái niệm CĐDC được xây dựng dựa
trên đơn vị hành chính và thường từ cấp hành chính thấp nhất (xã, phường, thị
trấn) trở xuống. Khoản 3 Điều 5 Luật Đất đai 2013 định nghĩa “Cộng đồng dân


5

cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp,
bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục,
tập quán hoặc có chung dòng họ”. Luật BVMT 1993, 2005 và 2014 đều không
chính thức đưa ra khái niệm CĐDC mà phải dựa vào văn bản hướng dẫn, gần
đây nhất là Nghị định số 19/2015/NĐ-CP, tại khoản 10 Điều 3 định nghĩa
“Cộng đồng dân cư là cộng đồng người sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng,
ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư”. Chuyên biệt hơn, Luật
BV&PTR 2004 giải nghĩa thuật ngữ cộng đồng dân cư thôn tại khoản 13 Điều 3
“là toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp,
buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương”.

Pháp luật Việt Nam thường sử dụng thuật ngữ CĐDC đồng nhất với
nhiều thuật ngữ như cộng đồng, cơ sở, khu dân cư ... Cụ thể, trong Bộ luật Dân
sự 2005, thông qua khái niệm sở hữu chung của cộng động quy định tại khoản 1
Điều 220: “Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, làng,
bản, buôn, sóc, cộng đồng tôn giáo và các cộng đồng dân cư khác đối với tài
sản ...”, có thể suy ra cộng đồng bao gồm dòng họ, thôn, ấp, làng, bản, buôn,
sóc, cộng đồng tôn giáo và các hình thức dân cư khác. Luật Hòa giải ở cơ sở
2013 tại khoản 2 Điều 2 định nghĩa cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum,
sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và CĐDC khác (gọi chung là thôn, tổ dân
phố). Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 23/2012/TT-BCA ngày 27/04/2012 của
Bộ Công an quy định về khu dân cư, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp,
nhà trường đạt tiêu chuẩn “an toàn về an ninh, trật tự”, khu dân cư được hiểu là
nơi tập hợp người dân, hộ gia đình cư trú tập trung trong phạm vi một khu vực
nhất định, bao gồm: Thôn, xóm, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc, khóm, tổ dân
phố và đơn vị dân cư tương đương. Như vậy, căn cứ vào cách thức giải thích và
sử dụng thuật ngữ, dễ thấy các thuật ngữ nêu trên và CĐDC có cùng bản chất
pháp lý. Sự tương đồng về mặt nội hàm này phần nhiều xuất phát từ cơ sở văn


6

hóa Việt Nam với đặc trưng là lối sống định cư quần tụ, thể hiện rõ rệt ở tính
cộng đồng của làng xã Việt Nam.
Tóm lại, CĐDC, đặc biệt là CĐDC ở Việt Nam là nhóm dân cư cùng sinh
sống trong một khu vực địa lý từ cấp xã trở xuống (thôn, làng, ấp, bản, buôn,
phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư), gắn kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở
cùng chung văn hóa, lối sống, ngôn ngữ, dòng họ. CĐDC có ba đặc điểm cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, CĐDC gồm số đông người cùng cư ngụ trên một phạm vi địa
lý nhỏ hẹp như làng, buôn, tổ dân phố .... Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt

CĐDC với cộng động.
Thứ hai, CĐDC gắn kết nội tại chặt chẽ không dựa trên các quy tắc rõ
ràng thành văn (hương ước làng, xã chỉ xuất hiện sau khi làng, xã hình thành và
tồn tại một thời gian dài) mà do những yếu tố tinh thần, quan hệ tình cảm sâu
sắc giữa các cá nhân với nhau và giữa cá nhân với tập thể. Những nhân tố này
chi phối cảm xúc của cá nhân khi thực hiệc công việc, nhiệm vụ cụ thể được
CĐDC giao phó mà biểu hiện rõ rệt thông qua sự hiến dâng về mặt tinh thần
hoặc dấn thân thực hiện các giá trị xã hội được cả CĐDC đề cao. Ngoài ra, ý
thức đoàn kết tập thể cũng là một biểu hiện quan trọng và phổ biến ở CĐDC.
Thứ ba, là đặc điểm phái sinh của hai đặc điểm kể trên, cụ thể: các thành
viên của CĐDC thường có cùng ngôn ngữ, địa điểm sinh sống, thành phần giai
cấp, hoạt động kinh tế, văn hóa (tín ngưỡng, phong tục, tập quán).
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của cộng đồng dân cư ở Việt Nam
Làng là hình thức biểu hiện tiêu biểu của CĐDC ở Việt Nam. Trên cơ sở
làng, các hình thức biểu hiện khác của CĐDC ở Việt Nam ra đời, phát triển và
tồn tại tới tận ngày nay.
Cùng với quá trình tan rã công xã thị tộc và hình thành công xã nông
thôn, làng Việt ra đời. Theo nhiều sử sách truyền lại, làng Việt có từ thời Văn


7

Lang, đến thời Lý, làng Việt đã rất phát triển [24]. Từ thời Hùng Vương, làng
được gọi là chạ, đơn vị này có thể coi tương đương với sóc (của người Khơme),
bản, mường (của các dân tộc thiểu số phía Bắc), buôn (của các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên); còn làng của người làm nghề chài lưới gọi là vạn hay vạn chài.
Từ thế kỷ XV, để cùng nhau chống giặc ngoại xâm và bọn đạo tặc, làng được tổ
chức chặt chẽ với hương ước quy định tổ chức cuộc sống của cả cộng đồng từ lễ
tiết, sinh hoạt học tập và sản xuất, ngôi thứ, thưởng phạt làm tiêu chuẩn sống
[24]. Mỗi làng bao gồm nhiều gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lý

nhất định, gắn kết với nhau bởi nhiều mối quan hệ như quan hệ láng giềng, quan
hệ huyết thống (dòng họ), quan hệ nghề nghiệp (cùng phương kế sinh nhai),
quan hệ tín ngưỡng, quan hệ tương trợ... Khi đất nước trải qua nạn ngoại xâm,
nhiều làng đã bị phá huỷ nghiêm trọng về kiến trúc nhưng các mối quan hệ nội
tại của làng lại càng trở nên bền chặt, biến mỗi làng trở thành một thành lũy
kiên cố chống giặc, làm nên sức sống lâu bền của làng Việt.
Từ thời vua Lê Thái Tổ, mầm mống của xã (tiểu xã, trung xã và đại xã)
đã xuất hiện nhưng phải đến đầu thế kỷ X thông qua chính sách cải cách hành
chính của chính quyền họ Khúc, làng mới thật sự trở thành đơn vị hành chính
cấp cơ sở, gọi là xã [11]. Thời kỳ đầu một xã chỉ có một làng nhưng sau đó dần
mở rộng bao gồm vài ba làng, thậm chí nhiều hơn. Khoảng giữa thế kỷ X, thôn
ra đời do nhu cầu quản lý hành chính mà theo bình luận của GS.TS Nguyễn
Quang Ngọc [11] nó giữ vai trò như một đầu mối giáp nối, gắn kết và điều hòa
giữa xã và làng – hành chính và tự trị, luật phát và tục lệ, chính trị và xã hội.
Qua các thời đại, các thuật ngữ thôn, xóm, làng được dùng lẫn lộn, tùy tập tục
từng địa phương.
Hiện nay trong hệ thống hành chính của Việt Nam, đơn vị cấp thấp nhất
là xã (phường, thị trấn). Điểm tụ cư dưới xã bao gồm thôn, xóm, bản, buôn,
bom, phum, sóc; dưới phường, thị trấn là tổ dân phố, khu phố, khối phố, khóm,


8

tiểu khu. Các CĐDC này có tính chất tự quản, xây dựng hương ước hoặc quy
ước theo định hướng của Hội đồng nhân dân ban hành trên cơ sở các quy định
của pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, phong tục, tập quán tốt
đẹp.
Nhìn chung, CĐDC ở Việt Nam có lịch sử tồn tại lâu dài, bền vững và có
những biến chuyển phù hợp với sự thay đổi của xã hội, thời đại.


1.2. Vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường
1.2.1. Cơ sở hình thành vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi
trường
Thách thức lớn của công tác bảo vệ môi trường nằm ở mâu thuẫn trong
suy nghĩ, thái độ, hành vi về môi trường giữa các nhóm người khác nhau, giữa
các cá nhân với nhau và mâu thuẫn ngay trong chính bản thân mỗi con người về
nhu cầu vừa có một môi trường trong sạch lại vừa thỏa mãn đời sống vật. Giải
pháp duy nhất cho vấn đề này là xây dựng các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi
trường thành một thể thống nhất, hài hòa, đồng thời huy động được sự tham gia
của mọi cá nhân, tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Đặc biệt, qua các cấp
quản lý hành chính, càng xuống thấp thì vai trò của người dân càng trở nên quan
trọng. Sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo vệ môi trường được xem
như một giải pháp hiệu quả khơi dậy lòng tích cực ở người dân. Bởi lẽ một
trong những đặc trưng của CĐDC chính là tinh thần cộng đồng hay sức mạnh
cộng đồng, xuất phát từ: tính đoàn kết, gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau vì quyền lợi
chung; lòng tự hào về truyền thống của làng xóm, của quê hương gắn với tình
yêu dân tộc. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến tính tự quản của CĐDC
như làng, bản, tổ dân cư... Hình thành trên cơ sở sự gắn kết nội tại chặt chẽ lâu
dài giữa các cá nhân với nhau và giữa mỗi cá nhân với cả cộng đồng, tính tự
quản của CĐDC được duy trì và có khả năng định hướng, chi phối hành động
của cá thể và toàn thể, tạo nên một sự thống nhất tương đối ổn định. Sự tham


9

gia bảo vệ môi trường của CĐDC không chỉ xuất phát từ nhu cầu của công tác
bảo vệ môi trường nói chung mà còn từ chính mong muốn của bản thân CĐDC.
Sự hình thành, phát triển và tồn tại của CĐDC luôn gắn liền với một khu vực
địa lý nhất định. Điều này tạo nên mối liên hệ gắn bó sâu sắc về mặt tinh thần
cũng như vật chất giữa CĐDC và mảnh đất họ sinh sống. Nói cách khác, bảo vệ

môi trường ở cơ sở xã, phường, thị trấn gắn liền với lợi ích của CĐDC tại nơi
đó.
Nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan trọng của CĐDC trong công tác
bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định và đề cao vai trò của
CĐDC trong các văn bản pháp luật. Cụ thể:
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nêu rõ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân. Trên cơ sở đó, Nghị quyết của số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ
Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước đặt nền tảng vững chắc cho sự tham gia của CĐDC vào công
tác bảo vệ môi trường thông qua giải pháp chiến lược – Đẩy mạnh xã hội hóa
bảo vệ môi trường: khuyến khích cộng đồng tham gia công tác bảo vệ môi
trường; chú trọng xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, cam kết về bảo
vệ môi trường và các mô hình tự quản về môi trường của CĐDC; phát triển các
phong trào quần chúng tham gia bảo vệ môi trường; đề cao trách nhiệm tăng
cường sự tham gia có hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội; phát hiện các
mô hình điển hình tiên tiến trong hoạt động bảo vệ môi trường để khen thưởng,
phổ biến, nhân rộng, duy trì và phát triển... Thực hiện Nghị quyết số 41 của Bộ
Chính trị, ngày 22/02/2005, Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số
34/2005/QĐ-TTg về việc Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, có
4 nội dung chính: thể chế hoá các qui định về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền


10

hạn của CĐDC, cá nhân tham gia công tác bảo vệ môi trường; đa dạng hoá các
loại hình hoạt động bảo vệ môi trường, khuyến khích sự tham gia của cộng
đồng thực hiện các dịch vụ bảo vệ môi trường; xây dựng phong trào toàn dân
bảo vệ môi trường; xây dựng và thực hiện hương ước, qui định, cam kết bảo vệ

môi trường và phát triển các mô hình CĐDC tự quản trong hoạt động bảo vệ
môi trường. Cụ thể hơn, tại Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 04/2012/TT-BNV
ngày 31/08/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ
dân phố ghi nhận giữ gìn vệ sinh môi trường là một trong những nội dung hoạt
động của CĐDC thôn, tổ dân phố.
Việc huy động toàn dân tham gia phát triển bền vững được xây dựng theo
các định hướng cụ thể tại Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam ban hành kèm
theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính
phủ, bao gồm: nâng cao sự tham gia của cộng đồng trong việc xem xét đánh giá
tác động môi trường (ĐTM); phát triển các phong trào quần chúng và hoạt động
cộng đồng trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường sống, bảo vệ các nguồn tài
nguyên môi trường tại địa phương; thành lập các nhóm bảo vệ tự quản lý, giám
sát việc sử dụng tài nguyên ở địa phương; xây dựng các điểm cộng đồng điển
hình về phát triển bền vững, về hệ thống tự quản tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
và nhân rộng các điển hình. Những vấn đề này được tái khẳng định và nâng tầm
quan trọng trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia qua từng thời kỳ, và
gần đây nhất là Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia trong đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày
05/09/2012 của Thủ tướng Chính phủ, tại Điều 1 xác định: phát huy vai trò của
cộng đồng trong bảo vệ môi trường; lồng ghép có hiệu quả tiêu chí bảo vệ môi
trường vào Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; thúc
đẩy sự hình thành hợp tác xã thu gom, vận chuyển chất thải rắn tại các điểm dân


11

cư; đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật tới người dân và xã hội hóa hoạt
động bảo vệ môi trường.
1.2.2. Những yêu cầu đối với việc thực hiện vai trò của cộng đồng dân
cư trong bảo vệ môi trường

Để vai trò của CĐDC được phát huy một cách hiệu quả, việc thực thi cần
đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, tham gia bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm mà còn là
quyền lợi của CĐDC và tất cả người dân. Quyền lợi này được thực thi bằng
chính quyền lực của CĐDC trong hoạt động bảo vệ môi trường cơ sở. Nhà nước
trao quyền chủ động cho CĐDC; tăng cường sự kiểm soát, tiếp cận của CĐDC
đối với một số vất đề môi trường. Việc Nhà nước tăng quyền lực của CĐDC
(tạo thuận lợi cho các cộng đồng và cá nhân tự kiểm soát cuộc sống của mình,
kể cả tạo ảnh hưởng đến các quyết định có tác động đến mình) đảm bảo cho sự
an toàn trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên; sự công bằng trong quản lý tài
nguyên và triển khai các dự án; xây dựng ý thức môi trường tự quản và xây
dựng các mô hình tự quản về môi trường tại cộng đồng. Các thành viên của
CĐDC có quyền tiếp nhận thông tin, quyền hưởng lợi ích (trực tiếp và gián tiếp)
và trách nhiệm chia sẻ chi phí do việc triển khai các hoạt động bảo vệ môi
trường cấp cơ sở một cách bình đẳng.
Thứ hai, CĐDC nhận thức và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo vệ môi
trường cấp cơ sở một cách hợp lý nhằm cải thiện và duy trì môi trường sinh
thái, như bảo tồn đất và tài nguyên nước, sử dụng tài nguyên sinh học, khống
chế ô nhiễm, phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái, cải thiện chất lượng môi
trường... Bền vững sinh thái đòi hỏi CĐDC phải xem xét trạng thái, bản chất
của nguồn tài nguyên môi trường, để vừa phát triển kinh tế vừa không tổn hại
đến lợi ích của thế hệ tương lai.


12

Thứ ba, vai trò của CĐDC trong bảo vệ môi trường phải được thực hiện
thật sự trên thực tế. Để hiện thực hóa những nội dung về vai trò của cộng động
dân cư ghi nhận trên giấy tờ, ba yêu cầu được đặt ra, gồm: Nhà nước xây dựng
hành lang pháp lý khuyến khích vai trò của CĐDC cũng như đảm bảo trách

nhiệm của các tổ chức có hoạt động ảnh hưởng tới môi trường cơ sở; các tổ
chức này thực hiện nghĩa vụ một cách nghiêm túc, đầy đủ; và bản thân CĐDC
phải tích cực thực thi vai trò của mình. Bên cạnh đó, mọi ý kiến tư vấn của
CĐDC phải đúng với thực tế, có tính xây dựng và được cởi mở, công khai.
Thứ tư, ý kiến của CĐDC phải được cơ quan có thẩm quyền dánh giá,
xem xét, cân nhắc cẩn thận trước khi đưa ra quyết định. Những người ra quyết
định, lập quy hoạch không nhất thiết phải đồng ý với những ý kiến của CĐDC;
tuy nhiên họ cần phải quan tâm đến cộng đồng một cách nghiêm túc và khi thấy
cần thiết, hợp lý, họ phải có quyết định thay đổi quy hoạch, điều chỉnh quyết
định kịp thời. Yêu cầu này một mặt xóa bỏ tình trạng xin ý kiến nhân dân chỉ
mang tính hình thức, mặt khác thể hiện sự tôn trọng đối với nhân dân, từ đó
giảm khả năng nhân dân khiếu nại về môi trường trong tương lai.
1.2.3. Các biểu hiện của vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi
trường
Sự tham gia của CĐDC trong bảo vệ môi trường là việc một CĐDC được
tham gia tư vấn ý kiến, tỏ thái độ và mối quan tâm của họ về một kế hoạch phát
triển hay một quy hoạch phát triển kinh tế hoặc kế hoạch sử dụng tài nguyên tại
nơi họ sinh sống. Sự tham gia này được biểu hiện bằng các cách khác nhau. Cụ
thể:
Căn cứ vào hình thức thể hiện, vai trò của CĐDC được biểu hiện bằng
ngôn ngữ và bằng chữ viết. Thông qua ngôn ngữ, tức lời nói, người dân, đại
diện CĐDC có thể đề đạt ý kiến của mình tại buổi đối thoại như về ĐTM, góp ý
dự thảo văn bản pháp luật... Chữ viết được ghi nhận trong các văn bản liên quan


13

đến vấn đề môi trường địa phương như: hương ước làng, quy ước thôn, bản kiến
nghị hay khiếu nại của CĐDC gửi tới cơ quan có thẩm quyền.
Căn cứ vào cơ chế tham gia, CĐDC thực hiện bảo vệ môi trường bằng

phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp. CĐDC trực tiếp thực hiện vai trò của mình
thông qua các hoạt động làm sạch, cải thiện môi trường sống; thi hành cưỡng
chế đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, CĐDC còn có thể
tham gia bảo vệ môi trường một cách gián tiếp, ví dụ gửi văn bản tham vấn cho
chủ dự án về ĐTM địa phương.
Căn cứ vào nội dung tham gia, vai trò của CĐDC trong bảo vệ môi
trường có ba biểu hiện. Một là CĐDC tham gia tư vấn, góp ý kiến về những vấn
đề môi trường, ví dụ: tham vấn cộng đồng trong ĐTM các dự án phát triển kinh
tế - xã hội tại địa phương. Hai là CĐDC xây dựng hương ước, quy ước bảo vệ
môi trường tại địa phương. Ba là CĐDC tham gia xã hội hóa bảo vệ môi trường
thông qua các mô hình tự quản tại địa phương, thực hiện dịch vụ môi trường
như: dịch vụ môi trường rừng, thành lập hợp tác xã môi trường... Bốn là CĐDC
kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường của cá nhân, tổ chức thậm chí
cả cơ quan nhà nước, từ đó kịp thời ngăn chặn những hành vi trái pháp luật môi
trường.
Mức độ và biểu hiện của vai trò của CĐDC trong bảo vệ môi trường ở
từng vùng mang tính đặc trưng riêng, tùy thuộc vào tâm lý, trình độ dân trí và
khả năng nhận thức những vấn đề liên quan đến môi trường cơ sở cần tham vấn,
đóng góp ý kiến. Ví dụ đối với những nơi có trình độ dân trí thấp, hiểu biết của
người dân về pháp luật hạn hẹp thì một số biểu hiện như tham vấn cộng đồng
thường không có hoặc đạt hiệu quả không cao. Ngược lại, vai trò bảo vệ môi
trường của CĐDC ở đô thị - nơi tập trung nhiều thành phần tri thức, thậm chí
chuyên gia được thể hiện một cách đa dạng và sâu sắc.


14

1.3. Ý nghĩa của việc cộng đồng dân cư tham gia bảo vệ môi
trường
Thứ nhất, sự tham gia của CĐDC khẳng định bản chất xã hội chủ nghĩa

của Nhà nước Việt Nam, một nhà nước của dân, do dân và vì dân. CĐDC thực
thi vai trò trên cơ sở ý kiến chung của tập thể và hướng tới lợi ích của toàn dân.
Nói cách khác, mô hình bảo vệ môi trường cấp cơ sở này lấy dân làm gốc, dựa
vào sức mạnh của nhân dân mà phát triển và vì lợi ích của dân để tồn tại. Sự
tham gia của CĐDC trong hầu hết các nội dung bảo vệ môi trường góp phần
tăng cường dân chủ theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra.
Thứ hai, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được đảm bảo. Xét cho
cùng, mục tiêu lớn nhất của việc CĐDC tham gia bảo vệ môi trường chính là
đảm bảo quyền được sống trong môi trường sống trong lành (Điều 43 Hiến
pháp 2013). Đây là cơ hội để người dân bày tỏ ý kiến và bằng cách đó họ có thể
làm ảnh hưởng đến quyết định của các cấp có thẩm quyền. Cộng đồng và người
dân dùng chính quyền lực được Nhà nước trao cho để thực hiện và đảm bảo
hiệu quả thực hiện quyền lợi của mình.
Thứ ba, xuất phát từ mối liên hệ mật thiết, thường xuyên giữa CĐDC với
nơi họ cư trú và nhu cầu sống trong môi trường trong lành, cộng đồng trở thành
lực lượng giám sát môi trường nhanh và hiệu quả, một nguồn cung cấp thông tin
môi trường luôn cập nhật và chính xác, giúp cho các cơ quan quản lý môi
trường kịp thời giải quyết sự ô nhiễm môi trường ngay từ khi mới xuất hiện.
Đây được xem là một ưu điểm nổi bật khi CĐDC tham gia bảo vệ môi trường
tại địa phương.
Thứ tư, những đề xuất, góp ý của người dân và CĐDC giúp cơ quan nhà
nước giải quyết đúng đắn, hợp tình, hợp lý các vấn đề môi trường được đặt ra
tại địa phương. Những quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế tại


15

địa phương sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của CĐDC. Nên
với tư cách đối tượng chịu tác động trực tiếp, CĐDC có quyền đề xuất ý kiến

với cơ quan có thẩm quyền. Trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về mảnh đất họ gắn bó,
CĐDC sẽ đưa ra những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho quy hoạch, kế
hoạch. Từ đây, góp phần tạo lập phương hướng lâu dài và tổ hợp các mục tiêu
kinh tế và bảo vệ môi trường tiến đến phát triển bền vững trên địa bàn cơ sở,
rộng hơn là toàn quốc.
Thứ năm, giảm thiểu tranh chấp xã hội do ô nhiễm môi trường gây ra.
Thông qua những cuộc đối thoại trực tiếp và gián tiếp, CĐDC đề đạt được ý
kiến của mình trong khi chủ dự án cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xem xét và tiếp thu. Sự trao đổi thông tin hai chiều được diễn ra đến khi các bên
đi đến quan điểm thống nhất. Điều này sẽ tác động rất lớn đến kế hoạch của một
vùng rộng lớn, hoặc cũng có thể là một dự án nhỏ. Nâng cao trách nhiệm của tổ
chức kinh tế - xã hội đối với môi trường địa phương. Tranh chấp môi trường
trong và sau thời gian thực hiện dự án vì thế ít xảy ra hơn.
Thứ sáu, thông qua việc huy động mọi sức mạnh và kỹ năng bao gồm cả
đã sử dụng và chưa sử dụng, sự tham gia của CĐDC tạo thêm nguồn lực tại chỗ
cho công cuộc bảo vệ môi trường. Tuy rằng đa phần công tác bảo vệ môi trường
dựa vào CĐDC có kinh phí tư thấp song lại đạt hiệu quả cao về sử dụng con
người và tài nguyên vật chất. Lợi ích của cộng đồng và hiệu quả kinh tế chính
trị cho nhà nước vì thế cùng tăng đồng thời.

1.4. Vai trò pháp luật nhằm bảo đảm sự tham gia bảo vệ môi
trường của cộng đồng dân cư
Pháp luật là một công cụ quan trọng đảm bảo vai trò của CĐDC trong
bảo vệ môi trường được thực hiện một cách hiệu quả. Cụ thể:
Thứ nhất, một trong những vai trò quan trọng của pháp luật là điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực môi trường có sự tham gia của CĐDC.


16


Các bên liên quan chính trong các quan hệ này gồm: CĐDC, chủ dự án phát
triển kinh tế - xã hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Từ đây phát sinh bốn
mối quan hệ cơ bản giữa: CĐDC với chủ dự án phát triển kinh tế - xã hội tại địa
phương; CĐDC và cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chủ dự án với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Pháp luật biến các mối quan hệ xã hội này trở thành các
mối quan hệ pháp lý và giữ chúng luôn ở thế cân bằng, tức đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên.
Thứ hai, xuất phát từ một thuộc tính cơ bản của pháp luật nói chung, pháp
luật môi trường có giá trị bắt buộc thực hiện đối với mọi cá nhân, tổ chức cư trú
trên lãnh thổ Việt Nam. Vai trò này biểu hiện thông qua các nội dung của pháp
luật như: dự liệu tình huống điển hình, xác định cách hành xử bắt buộc, đưa ra
cách xử lý khi không tuân theo.
Thứ ba, pháp luật đảm bảo sự tham gia của CĐDC. Bằng cách quy định
cụ thể quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của CĐDC, pháp luật áp đặt
CĐDC tham gia vào công tác bảo vệ môi trường. Nhà nước sử dụng và kết hợp
các phương tiện khác nhau để thực hiện vai trò này của pháp luật, như: giáo dục
pháp luật, phương pháp hành chính, biện pháp kinh tế và các biện pháp cưỡng
chế.
Thứ tư, pháp luật định hướng sự tham gia của cộng đồng. Pháp luật xây
dựng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ xã hội; quy định chi
tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm; xác định cụ thể cách cư xử lẫn
những hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi phạm. Trên cơ sở đó, CĐDC xác
định cách cư xử của mình, đồng thời nhận thức được nghĩa vụ của chủ thể khác
để thực hiện quyền giám sát, kiểm tra.
Thứ năm, pháp luật tạo sự đồng bộ, thống nhất cho sự tham gia trên các
phương diện: lãnh thổ, phương thức, giới hạn. Đây là vai trò phái sinh của
những vai trò kể trên. Chính tính phổ biến, tính định hướng của pháp luật đã


17


đảm bảo việc thực thi diễn ra một cách đồng bộ và thống nhất từ trung ương đến
địa phương, giữa các ngành có liên quan.
Tóm lại, CĐDC là nhóm dân cư cùng sinh sống trong một khu vực địa lý
từ cấp xã trở xuống, gắn kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở cùng chung văn hóa,
lối sống, ngôn ngữ, dòng họ. Trải qua chiều dài lịch sử của đất nước với những
biến động xã hội, CĐDC tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức như thôn,
làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư... Nhằm đáp ứng nhu
cầu vừa có một môi trường trong sạch lại vừa nâng cao đời sống vật, CĐDC
tiến hành các hoạt động bảo vệ môi trường tại địa phương thông qua việc bày tỏ
sự quan tâm, thái độ và tư vấn về một kế hoạch phát triển hay một quy hoạch
phát triển kinh tế hoặc kế hoạch sử dụng tài nguyên tại nơi họ sinh sống. Sự
tham gia của CĐDC huy động được cả sức người và sức của tại địa phương, trợ
giúp rất lớn cho hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước. Để vai trò của CĐDC
đạt được hiệu quả, một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra là cơ quan nhà
nước phải tôn trọng ý kiến đóng góp của nhân dân địa phương.


18

Chương 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước khuyến khích
cộng đồng dân tham gia vào các lĩnh vực đời sống. Pháp luật được xem là công
cụ hiệu quả khi đảm bảo đủ bốn yếu tố cấu thành nên tư tưởng dân chủ, bao
gồm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đánh giá pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật điều chỉnh sự tham gia của CĐDC thực chất là bình luận từng
phương diện của dân chủ được cụ thể thóa thành các nội dung tương thích. Vì lẽ
đó, để nhìn nhận vấn đề một cách bao quát và sâu sắc, việc đánh giá được tiến

hành ở từng nội dung vai trò của CĐDC trong bảo vệ môi trường.

2.1. Cộng đồng dân cư tham gia phản biện xã hội về bảo vệ môi
trường
Phản biện xã hội của CĐDC là việc cộng đồng dân cư một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp nhận xét, đánh giá, kiến nghị trong quá trình xây dựng và thực
hiện những chủ trương, chính sách, kế hoạch và pháp luật liên quan đến bảo vệ
môi trường ở các cấp. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, theo Điều 52 Nghị
định số 19/2015/NĐ-CP, CĐDC phản biện xã hội bằng hai hình thức: tham vấn
chủ trương, chính sách của Nhà nước và tham vấn về ĐTM chiến lược, ĐTM.
2.1.1. Cộng đồng dân cư tham vấn chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về môi trường
Nghị định số 19/2015/NĐ-CP quy định phạm vi chủ trương, chính sách
của Nhà nước cần có sự tham vấn của CĐDC về môi trường tại khoản 1 Điều
52, bao gồm:
“a) Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án bảo
vệ môi trường cấp quốc gia, vùng, liên vùng và cấp tỉnh;
b) Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường;


19

c) Xác lập các chỉ tiêu về môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia, liên vùng, vùng và cấp tỉnh”
Là một nội dung của phản biện xã hội nói chung nên bên cạnh các quy
định pháp luật chuyên ngành môi trường, việc CĐDC tham vấn chủ trương,
chính sách của Nhà nước về môi trường còn được điều chỉnh bởi hai văn bản
chỉ đạo của Đảng: Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN và các
đoàn thể chính trị - xã hội ; Quy định về việc MTTQVN, các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Theo
đó, việc CĐDC tham vấn chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về

môi trường mang tính nhân dân, được thực hiện từ Trung ương đến cơ sở, thông
qua việc gửi văn bản lấy ý kiến phản biện hoặc đối thoại trực tiếp. CĐDC xem
xét các văn bản dự thảo trên 4 phương diện: 1-tính cấp thiết; 2-tính phù hợp
(chính sách, pháp luật và thực tiễn); 3-tính khoa học và tính khả thi; 4-dự báo
tác động, hiệu quả tố đời sống xã hội. Từ đó chỉ ra những hạn chế của văn bản
dự thảo. đồng thời kiến nghị hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân. Theo Điều 2 Nghị định số 19/2015/NĐ-CP, việc tham vấn
CĐDC về môi trường chủ yếu được tiến hành bằng các phương tiện truyền
thông đại chúng như truyền hình, truyền thanh, báo in, trang thông tin điện tử...
(khoản 2) hay thông qua họp báo công khai, họp phổ biến thông tin (khoản 3).
Cấp độ hiệu lực pháp lý của văn bản dự thảo chi phối mức độ tham vấn
của cộng đồng. Ở cấp quốc gia, pháp luật chưa ghi nhận phương thức tham vấn
trực tiếp của cộng động. Hiện nay, theo quy định của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2008, Luật BVMT 2014 và Nghị định số 18/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường,
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo
vệ môi trường (Nghị định số 18/2015/NĐ-CP), CĐDC tham vấn chủ trương,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua ba đại diện: Đại biểu Quốc hội,


×