Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.02 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN KHÁNH THU

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC
MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số
: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP

5

ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ


HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1.

Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và vai trò của nó trong nền

5

kinh tế thị trường
1.2.

Bản chất pháp lý của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa

15

1.3.

Khái quát pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa

20

CHƯƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ

28

HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Chủ thể của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa

28

2.2. Giao kết hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa


30

2.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy thác mua bán hàng

34

hóa
2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy thác mua

37

bán hàng hóa
2.5. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa

42

2.6. Chấm dứt hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa

47

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

49

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA
Ở VIỆT NAM
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy thác

49


mua bán hàng hóa ở Việt Nam
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy

52

thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam
KẾT LUẬN

63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

64


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với những ưu điểm của mình đang
ngày càng trở thành hoạt động thương mại phổ biến trong nền kinh tế thị trường. So
với Luật thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 đã sửa đổi một số quy
định để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của loại hoạt động thương mại này
cũng như để bảo vệ quyền lợi của thương nhân và các bên thứ ba tham gia quan hệ
ủy thác mua bán hàng hóa theo hướng tăng cường nguyên tắc tự do thỏa thuận của
các bên. Tuy nhiên, sau hơn 8 năm thi hành, những quy định về hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa tại Luật Thương mại năm 2005 cũng đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập cần phải tiếp tục được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn phát triển
của các hoạt động thương mại ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội

nhập kinh tế quốc tế cũng như khắc phục những mâu thuẫn, không thống nhất giữa
Luật Thương mại với các văn bản pháp luật có liên quan. Do vậy, để đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa, thì việc hoàn thiện các quy định của Luật Thương mại về hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa nói riêng và yêu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp đồng
nói chung là rất cần thiết. Với mong muốn tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý
luận về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa để tạo tiền đề phân tích và đánh giá
được những hạn chế, bất cập của những quy định hiện hành về hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn nội dung:
Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam làm đề tài
cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề pháp lý về hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa nói chung và
hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng đã được trình bày, giới thiệu trong
giáo trình Luật Thương mại của một số cơ sở đào tạo luật như Trường Đại học Luật
Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội… hay trong một số cuốn sách chuyên
khảo như chuyên khảo Luật Kinh tế năm 2004 của TS. Phạm Duy Nghĩa (Nhà xuất


2

bản Đại học Quốc gia); Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - Những
vấn đề pháp lý cơ bản năm 2009 của TS. Nguyễn Thị Dung, chủ biên (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia) … Trong các cuốn giáo trình, cuốn sách chuyên khảo này,
những quy định về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được nghiên cứu và giới
thiệu chủ yếu dừng ở việc mô tả các quy định của pháp luật nhằm trang bị những
kiến thức cơ bản cần thiết cho người đọc chứ chưa có điều kiện nghiên cứu chuyên
sâu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến loại hợp đồng này.
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa

cũng được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu với tích chất là một hoạt
động trung gian thương mại như Luận án tiến sỹ luật học “Pháp luật điều chỉnh
hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam” năm 2007 của Nguyễn Thị Vân Anh
(Trường Đại học Luật Hà Nội), Luận án tiến sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật
thương mại hàng hóa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” năm
2004 của Lê Hoàng Oanh (Trường Đại học Luật Hà Nội)… Những công trình này
nghiên cứu bao quát về các hoạt động trung gian thương mại mà không tập trung
nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Nghiên
cứu đối với từng hoạt động trung gian thương mại đã có một số công trình như:
“Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn tự góc độ Luật so
sánh” năm 2009 của TS. Ngô Huy Cương (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4),
Luận văn thạc sỹ luật học “Hợp đồng

đại lý mua bán hàng hóa- những vấn đề lý

luận và thực tiễn” năm 2010 của Trần Quỳnh Anh (Trường Đại học Luật Hà Nội).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm pháp lý về hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa và pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, các
văn bản pháp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới quy định về hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích những khía cạnh
pháp lý của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trên cơ sở lý luận cũng như các
quy định có liên quan đến hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được quy định chủ
yếu tại Bộ Luật dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005.


3

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin về duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng
những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xây dựng chính sách, pháp
luật thương mại tạo điều kiện phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ là vấn đề trọng
tâm. Luận văn được thực hiện dựa trên việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu
tổng hợp như: Phân tích, thống kê, tổng hợp và so sánh luật học…
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Để trên
cơ sở đó, luận văn đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải giải quyết là:
- Làm sáng tỏ được những vấn đề lý luận cơ bản nhất về hợp động ủy thác
mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng cũng
như những vấn đề lý luận của pháp lý hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa;
- Xác định và phân tích được những nội dung cơ bản của pháp luật về hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam;
- Đề xuất phương hướng và kiến nghị được một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động ủy thác mua
bán hàng hóa nói chung và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng, qua đó
giúp phân biệt với những hoạt động và hợp đồng trong lĩnh vực trung gian thương
mại khác.
- Luận văn đã chỉ ra và phân tích được những nội dung cơ bản của pháp luật
về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam, nhất là việc chỉ ra những hạn
chế, bất cập cần tiếp tục hoàn thiện.



4

- Luận văn đã đề ra được phương hướng và kiến nghị được một số giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa và pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.
Chương 2: Những nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC
MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY
THÁC MUA BẢN HÀNG HÓA
1.1. Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và vai trò của nó trong nền
kinh tế thị trường
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của hoạt động ủy thác mua bán
hàng hóa
Trong lịch sử phát triển thương mại có rất nhiều phương thức giao dịch khác
nhau. Phương thức giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ phổ biến nhất là
phương thức giao dịch trực tiếp.

Giao dịch trực tiếp là phương thức giao dịch trong đó người bán và người mua
trực tiếp bàn bạc và thoả thuận với nhau về các nội dung giao dịch như: Đối tượng,
giá cả, phương thức thanh toán và các điều kiện giao dịch khác. Phương thức giao
dịch này có những ưu điểm như: các bên trực tiếp thương thảo hợp đồng nên ít xảy ra
hiểu lầm, sai sót đáng tiếc, do đó nâng cao hiệu quả của đàm phán giao dịch; thương
nhân có điều kiện trực tiếp tiếp cận thị trường, do đó có thể nhanh chóng thích ứng
với nhu cầu thị trường một cách tốt nhất; thương nhân có thể trực tiếp phát triển mối
quan hệ với bạn hàng nước ngoài một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, phương thức
giao dịch trực tiếp cũng có những hạn chế nhất định như khi thương nhân mua bán
hàng hoá ở thị trường mới hay đối với sản phẩm mới, vì do chưa am hiểu thị trường,
chưa có nhiều thông tin nên thương nhân dễ bị ép giá, dễ gặp rủi ro lớn. Mặt khác,
phương thức giao dịch này chỉ có thể đạt hiệu quả khi thương nhân có đội ngũ thực
hiện giao dịch giàu kinh nghiệm và phải tốn khá nhiều chi phí giao dịch.
Do đó, đối với các thương nhân vừa và nhỏ hoặc lần đầu tiên tham gia thị
trường, đặc biệt là thị trường quốc tế hoặc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ mới
hoặc tại thị trường mới thì phương thức giao dịch trực tiếp chưa hẳn đã tốt, dễ gây
rủi ro. Trong những trường hợp này, thương nhân có thể lựa chọn phương thức giao
dịch qua trung gian.
Phương thức giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương
thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán


6

hàng hoá (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ) và việc xác định các
điều kiện giao dịch phải thông qua một người trung gian [29, tr.17].
Trong phương thức giao dịch trực tiếp chỉ có hai chủ thể trực tiếp thiết lập
quan hệ với nhau còn trong phương thức giao dịch qua trung gian sẽ xuất hiện một
chủ thể nữa, người này đứng ở vị trí độc lập với hai bên còn lại trong quan hệ và là
người thực hiện dịch vụ theo sự uỷ quyền và vì lợi ích của người khác để hưởng thù

lao. Có thể gọi công việc do người trung gian thực hiện trong hoạt động thương mại
để hưởng thù lao là dịch vụ trung gian thương mại. Đây là loại dịch vụ được thực
hiện chủ yếu trong lĩnh vực phân phối thương mại và đối với nhà sản xuất thì thông
qua dịch vụ này giúp họ tiếp cận với người tiêu dùng một cách nhanh chóng hơn [28].
Xuất phát từ nhu cầu này mà nhiều hoạt động trung gian thương mại đã ra
đời như: dịch vụ đại diện, dịch vụ môi giới, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý
thương mại. Trong các dịch vụ trung gian thương mại liên quan đến hoạt động mua
bán hàng hóa, nhất là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thì ủy thác mua bán hàng
hóa là phổ biến và được ưa chuộng trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Dưới giác độ lịch sử, trên thế giới hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa đã
xuất hiện từ đầu thế kỷ XIII. Vào thời điểm đó, các thương nhân, thay vì theo hàng
hóa giao tại cảng đến, họ ủy thác cho thương nhân khác thực hiện công việc đó thay
mình và trả thù lao. Đó là khởi nguồn của việc sử dụng ủy thác trong hoạt động
thương mại. Cùng với sự phát triển của thương mại toàn cầu, đặc biệt từ nửa sau thế
kỷ XIX, khi các quan hệ quốc tế gia tăng đáng kể thì ủy thác trong hoạt động
thương mại, đặc biệt là hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa ngày càng trở nên có ý
nghĩa. Đến nay, ở hầu hết các nước đều tồn tại các hoạt động thương mại qua trung
gian, trong đó có hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa [28].
Ở Việt nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ủy thác mua bán
hàng hóa chủ yếu tồn tại trong khu vực kinh tế có yếu tố nước ngoài. Các khu vực
kinh tế khác, hoạt động này chưa có điều kiện để hình thành. Thời kỳ này, một số
văn bản pháp luật của Bộ ngoại thương (sau này là Bộ thương mại) dưới hình thức
Thông tư, được ban hành để điều chỉnh các hoạt động ủy thác xuất nhập khẩu và đại
lý mua bán hàng hóa ở nước ngoài.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, trước những đòi hỏi bức


7

thiết của việc sử dụng các hoạt động thương mại qua trung gian, Luật Thương mại

năm 1997 ra đời, có những quy định cơ bản về các hoạt động trung gian thương
mại,

trong đó hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa được quy định từ Điều 99 đến

Điều 110. Sau hơn bảy năm thi hành, Luật Thương mại năm 1997 bộ lộ nhiều bất
cập cần phải sửa đổi, bổ sung, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển thương mại trong
nước và quốc tế.
Ngày 14/6/2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật
Thương mại năm 2005. Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01/01/2006
thay thế Luật Thương mại năm 1997. Luật Thương mại năm 2005 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các thương nhân thực hiện hoạt động kinh doanh. Các hoạt động
thương mại nói chung trong đó có hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa được điều
chỉnh một cách linh hoạt bởi một hành lang pháp lý mềm dẻo. Luật Thương mại
năm 2005 quy định hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa từ Điều 155 đến Điều 165,
theo đó ủy thác mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ
thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều
kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác. Như vậy, không
giống như nhiều nước trên thế giới, Luật Thương mại nước ta đã tách hoạt động ủy
thác mua bán hàng hóa ra khỏi hoạt động đại lý mua bán hàng hóa thành hoạt động
thương mại độc lập với những nét đặc trưng riêng.
1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung với hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Thành
phần kinh tế tư nhân không được thừa nhận và bị liệt vào dạng phải cải tạo và xoá
bỏ. Do không có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, toàn bộ nền kinh tế cũng
như từng đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa đều phải thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh
đã được phân bổ từ trước, ký kết hợp đồng kinh tế là kỷ luật của Nhà nước nên thời
kỳ này nền kinh tế không có tính cạnh tranh [18, tr.575]. Trong lĩnh vực ngoại
thương, nhà nước thông qua các doanh nghiệp của mình thành lập độc quyền đối

với hoạt động xuất nhập khẩu. Vì vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và
hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng không có cơ hội phát triển.
Sau năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế theo hướng phát triển


8

nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự
quản lý của Nhà nước do Đại hội Đảng VI (12/1986) khởi xướng, các cơ sở sản
xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại bình đẳng.
Quyền tự do kinh doanh được ghị nhận tại Hiến pháp (1992) với sự đa dạng về các
thành phần kinh tế được thừa nhận và được tạo điều kiện để phát triển đã tạo ra và
thúc đẩy môi trường cạnh tranh phát triển. Cạnh tranh không còn là một hiện tượng
mới mẻ trong nền kinh tế. Thực tiễn đó, buộc Nhà nước ta phải ban hành các văn
bản pháp luật thể chế hóa đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng [18, tr.575]. Luật
Thương mại năm 1997 ra đời là một minh chứng, tạo hành lang pháp lý cho các
hoạt động thương mại nói chung và hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế, các hoạt động thương mại trong đó có hoạt
động ủy thác mua bán hàng hóa ngày càng có ý nghĩa và vài trò quan trọng, được
các thương nhân sử dụng phổ biến, thể hiện ở một số ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, người nhận ủy thác thường hiểu rõ và nắm bắt đầy đủ thông tin thị
trường, am hiểu pháp luật và tập quán địa phương, do đó có khả năng đẩy mạnh
việc buôn bán, phòng tránh hoặc giảm thiểu rủi ro cho người ủy thác. Điều này đặc
biệt có ích đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập và
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ở nước ta. Đã từng có bài học đắt giá được rút
ra đối với một công ty xuất khẩu ở Đà Nẵng khi xuất khẩu một lô hàng mây tre đan
sang Úc mà không biết quy định của pháp luật nước đó, khiến toàn bộ lô hàng
không được chấp nhận và bị tiêu hủy [25]. Từ đó có thể thấy rằng việc hiểu biết rõ
tình hình pháp luật, tập quán địa phương nơi dự định thực hiện giao dịch thương
mại đóng vai trò hết sức quan trọng. Khi một doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị

trường nước ngoài, nhất là ở những thị trường mới mà không am hiểu về pháp luật
và tập quán thương mại của nước đó; đồng thời cũng không có khả năng tự tìm bạn
hàng tiêu thụ sản phẩm thì việc sử dụng dịch vụ thương mại qua trung gian, đặc biệt
là hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa sẽ có vai trò quan trọng, khắc phục được
những hạn chế nêu trên.
Thứ hai, hoạt động ủy thác mau bán hàng hóa góp phần phát triển nền kinh tế
đất nước, tăng thu ngân sách. Trong hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu là lĩnh
vực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó chi phối lớn đền nhiều ngành kinh tế quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu muốn được đẩy mạnh phải tìm được đầu mối xuất nhập


9

khẩu, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Dịch vụ ủy thác đã góp phần không nhỏ đối với
những doanh nghiệp không đủ điều kiện trực tiếp xuất nhập khẩu, không tìm được
đầu mối để xuất nhập khẩu. Ví dụ: Một cơ sở sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ có các
sản phẩm tranh thêu, muốn đưa sản phẩm của mình xuất khẩu ra thị trường nước
ngoài nhưng là chủ thể không được phép xuất khẩu hoặc không thông thạo về các
thủ tục xuất nhập khẩu cần thiết, thì có thể thông qua dịch vụ ủy thác xuất nhập
khẩu để tiếp cận thị trường.
Thứ ba, nhờ dịch vụ ủy thác trong việc lựa chọn, phân loại đóng gói, người
ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Người nhận ủy thác thường có sẵn cơ sở vật
chất, khi sử dụng dịch vụ này, người ủy thác đỡ được khoản đầu tư đáng kể. Nếu
nhà sản xuất, kinh doanh tự mình tổ chức phân phối hàng, tự tìm bạn hàng, ký hợp
đồng và thực hiện hợp đồng thì khoản đầu tư là rất lớn. Trong khi đó người được ủy
thác đã có đầy đủ kể cả đội ngũ công nhân viên có kinh nghiệm, hiểu biết thị
trường, hiểu biết pháp luật và tập quan thương mại… Như vậy, dù lợi nhuận bị chia
sẻ, phải trả thù lao cho người nhận ủy thác nhưng khoản đầu tư và chi phí vẫn ít hơn
nhiều. Ví dụ: một doanh nghiệp muốn bán sản phẩm của mình sang nước ngoài khi
sử dụng dịch vụ ủy thác; người nhận ủy thác sẽ tiến hành tất cả các khâu như tìm

đối tác, ký kết và thực hiện hợp đồng, làm thủ tục hải quan, thuê phương tiện vận
tải… Tất cả các công việc đó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp xuất
khẩu. Hay như nhà sản xuất thực phẩm đóng hộp Vissan thông qua dịch vụ ủy thác
để thu mua hải sản được phân bố ở khắp các vùng đánh bắt hải sản, sẽ tiết kiệm
được một khoản chi phí không nhỏ cho việc phân loại sản phẩm thu được.
Thứ tư, nhà kinh doanh có thể tổ chức một hệ thống rộng rãi các trung gian
tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ do tiết kiệm được chi phí khi sử dụng dịch vụ ủy thác.
Người ủy thác có thể mở rộng thêm thị trường, dần dần hình thành mạng lười buôn
bán để chiếm lĩnh thị trường. Nhờ đó việc buôn bán được xúc tiến mạnh mẽ hơn so
với việc tự mình tìm kiếm bạn hàng, tổ chức phân phối sản phẩm. Ta có thể thấy
qua việc doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hàng thực phẩm, hàng may mặc sang nước
ngoài và sử dụng dịch vụ ủy thác. Bên nhận ủy thác đã tìm bạn hàng, ký và thực
hiện hợp đồng với cơ sở vật chất và kinh nghiệm sẵn có, còn doanh nghiệp ủy thác
chỉ phải trả thù lao cho người nhận ủy thác.


10

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa cũng
có những nhược điểm nhất định, đó là:
Thứ nhất, khi hoạt động thương mại được thực hiện thông qua người trung
gian, người sử dụng dịch vụ trung gian thương mại sẽ có nguy cơ bị mất mối liên hệ
trực tiếp với thị trường và đối tác. Do vậy, các nhà kinh doanh khi sử dụng dịch vụ
ủy thác mua bán hàng hóa có thể không cần tìm hiểu nhu cầu thị trường cũng như
đối tác, do đó có thể họ không điều chỉnh kịp thời kế hoạch kinh doanh, thay đổi
mặt hàng sản phẩm phù hợp với điều kiện thực tế. Nếu họ không tự tìm bạn hàng,
nghiên cứu thị trường, họ sẽ luôn ở thế bị động, phụ thuộc vào người nhân ủy thác.
Thứ hai, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của người ủy thác bị
chia sẻ do họ phải trả một khoản tiền thù lao khi sử dụng dịch vụ ủy thác của người
nhận ủy thác. Số tiền này tính theo phần trăm giá trị hợp đồng hoặc tùy theo sự thỏa

thuận của hai bên. Ngay cả khi lợi nhuận chưa chắc đã thu được nhưng tiền thù lao
thì vẫn phải trả cho người nhận ủy thác vì số tiền này không phụ thuộc người ủy
thác kinh doanh có lãi hay không.
Thứ ba, người ủy thác luôn ở thế bị động trong việc tiếp cận thị trường và đối
tác, họ phụ thuộc vào người nhận ủy thác. Nếu người nhận ủy thác làm việc kém
hiệu quả, không thành công hay gian lận, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại, tổn thất,
bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh… thì người ủy thác sẽ phải chịu. Chẳng hạn có nhiều
doanh nghiệp mua lúa của nông dân nhưng ít đầu mối xuất khẩu trực tiếp nên phía
đầu mối được dịp ép giá hưởng lợi từ bên ủy thác.
Tóm tại, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa vừa có những ưu điểm và vừa
có những hạn chế nhất định. Do vậy, khi sử dụng dịch vụ ủy thác, bên ủy thác phải
cân nhắc sao cho phù hợp và hiệu quả nhất.
1.1.3. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với các hoạt động
trung gian thương mại khác
1.1.3.1. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với hoạt động đại
diện cho thương nhân
Trên thế giới, chế định đại diện thương mại có lịch sử phát triển lâu đời và
được xem là chế định quan trọng bậc nhất trong số các hoạt động trung gian thương
mại. Ở Việt Nam, đại diện cho thương nhân là một dạng của đại diện theo ủy quyền


11

được thực hiện trong hoạt động thương mại. Theo Điều 141 Luật Thương mại năm
2005, đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên
đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt
động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được
hưởng thù lao về việc đại diện.
Như vậy, đại diện cho thương nhân được hiểu là việc bên đại diện nhân danh
bên giao đại diện thực hiện các hoạt động thương mại trong phạm vi ủy nhiệm và được

hưởng thù lao đại diện. Với bản chất là thực hiện công việc trong nội dung ủy nhiệm
thay thương nhân giao đại diện, đại diện cho thương nhân có những điểm khác căn bản
so với hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể, đại diện cho thương nhân bắt buộc bên giao đại diện
phải là thương nhân, trong khi đó, bên ủy thác không nhất thiêt phải là thương nhân.
Luật thương mại quy định, bên giao đại diện phải là thương nhân có quyền
thực hiện hoạt động thương mại mà mình ủy quyền, trong khi, đối với hoạt động ủy
thác, bên ủy thác không nhất thiết phải có quyền hoạt động thương mại đối với lĩnh
vực mà họ ủy thác.
Thứ hai, về tư cách pháp lý khi thực hiện ủy nhiệm, đối với hoạt động ủy
thác mua bán hàng hóa, bên nhận ủy thác nhân danh chính mình khi thực hiện giao
dịch với bên thứ ba, do vậy, mọi hậu quả pháp lý của hành vi từ giao dịch đó sẽ trực
tiếp mang lại cho chinh bên nhận ủy thác. Ngược lại, trong quan hệ đại diện cho
thương nhân, bên đại diện nhân danh bên giao đại diện khi thực hiện giao dịch với
bên thứ ba và như vậy, mọi hậu quả pháp lý phát sinh từ hành vi của bên đại diện sẽ
mang lại cho bên giao đại diện.
Thứ ba, về phạm vi nhận ủy nhiệm, theo Điều 161 Luật Thương mại năm
2005, bên nhận ủy thác có thể nhận ủy thác mua bán hàng hóa cho nhiều bên ủy
thác, trong khi bên đại diện cho thương nhân có thể không thực hiện được điều này
trừ trường hợp hợp đồng đại diện có thỏa thuận. Bởi khoản 4 Điều 145 Luật thương
mại năm 2005 quy định: Bên đại diện không được thực hiện các hoạt động thương
mại với danh nghĩa của mình hoặc của người thứ ba trong phạm vi đại diện.
Thứ tư, về quyền chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng do bên trung
gian thương mại ký với bên thứ ba không đúng thẩm quyền, bên giao đại diện có


12

quyền quyết định chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng do bên đại diện ký với
bên thứ ba không đúng thẩm quyền, trong khi ủy thác mua bán hàng hóa không đặt

ra vấn đề này.
Do bản chất của hoạt động đại diện cho thương nhân, bên đại diện chỉ là
người được ủy quyền thực hiện hành vi thay cho thương nhân, mọi hậu quả pháp lý
của hành vi đại diện trực tiếp mang lại cho chính bên giao đại diện. Vì vậy, theo
khoản 1 Điều 146 Luật Thương mại năm 2005, bên giao đại diện có quyền chấp
nhận hay không chấp nhận hợp đồng ký ngoài phạm vi đại diện giữa bên đại diện
với bên thứ ba. Trong khi đó đối với hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa, bên nhận
ủy thác nhân danh chính mình khi ký kết hợp đồng với bên thứ ba, mọi hậu quả
pháp lý phát sinh từ hành vi đó trực tiếp mang lại cho chính họ. Do vậy, bên nhận
ủy thác có quyền tự do lựa chọn đối tác để giao kết hợp đồng, không phụ thuộc vào
vấn đề chấp nhận hay không chấp nhận việc giao kết hợp đồng từ phía bên ủy thác.
1.1.3.2. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với hoạt động môi
giới thương mại
So với các hoạt động trung gian thương mại khác, hoạt động môi giới thương
mại ở Việt Nam mới có điều kiện hình thành và phát triển những năm gần đây. Ở
thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, hoạt động môi giới thương mại gần như không có
cơ hội phát triển. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung buộc các thực thể kinh doanh
vận động theo cơ chế đã được hoạch định, trên cơ sở chỉ tiêu pháp lệnh được giao,
do đó khó có cơ hội cho các trung gian thương mại nói chung và hoạt động môi giới
thương mại nói riêng hoạt động. Sau đổi mới, đặc biệt khi kinh tế thị trường tạo lập
được nền móng và đi vào phát triển tương đối ổn định, hoạt động môi giới thương
mại mới thực sự có điều kiện phát triển. Tuy thế, so với thế giới, hoạt động môi giới
thương mại mới chỉ đi những bước đầu tiên. Ở các nước tư bản, đặc biệt là Mỹ,
Anh, Pháp, Nhật Bản, nơi có thị trường chứng khoán, tài chính, bất động sản phát
triển sôi động thì vai trò, vị thế và những hiệu quả to lớn mà môi giới thương mại
mang lại mới thực sự thể hiện được những giá trị của nó.
Ở Việt Nam những năm gần đây, khi thị trường chứng khoán, bất động sản
được giao dịch chính thức, công khai trên các sàn giao dịch, vị thế của môi giới
thương mại đang dần được khẳng định và ngày càng có nhiều nhà môi giới chứng



13

khoán, môi giới bất động sản, môi giới vận tải ...chuyên nghiệp. Tuy thế hoạt động
môi giới vẫn chưa thể hiện hết những tiềm năng đích thực của nó.
Về phương diện pháp lý, Luật Thương mại không dành nhiều quy định cho
môi giới thương mại, nếu không nói là thiếu nhiều quy định pháp lý cần thiết về
hoạt động môi giới, đặc biệt là các quy định liên quan đến quyền của bên môi giới
và bên được môi giới. Những năm tới đây, khi môi giới thương mại thực sự phát
huy tiềm năng, hiệu quả của nó, với tính chất phức tạp của hoạt động này ở những
thị trường nhạy cảm như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản... thì việc sửa đổi, bổ
sung các quy định điều chỉnh hoạt động môi giới thương mại là cần thiết.
Theo Điều 150 Luật thương mại, môi giới thương mại là hoạt động thương
mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán,
giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng
môi giới.
Như vậy, môi giới được hiểu là người làm trung gian cho các bên tiếp xúc,
giao thiệp với nhau, trong hoạt động thương mại đó là người xúc tiến cho các bên
giao kết, xác lập quan hệ thương mại. So với hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa,
môi giới thương mại có những điểm khác nhau sau đây:
Thứ nhất, về pham vi hoạt động, môi giới thương mại được thực hiện trên
nhiều lĩnh vực (du lịch, dịch vụ, bất động sản, tài chính, chứng khoán...), trong khi
đó ủy thác mua bán hàng hóa được thực hiện trong phạm vi hẹp là ủy thác mua
hàng hóa hoặc là ủy thác bán hàng hóa.
Thứ hai, về quan hệ pháp lý xác lập với bên thứ ba, bên môi giới không trực
tiếp tham gia vào quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba, trong khi
bên nhận ủy thác trực tiếp giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thức ba.
Ở phương diện này, người môi giới chỉ là bên trung gian thuần túy làm
nhiệm vụ tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các bên được môi giới tiếp xúc, giao dịch

với nhau và sau đó các bên được môi giới tự đi đến ký kết hợp đồng. Bên môi giới
không có quan hệ với bên thức ba về mặt pháp lý.
Thứ ba, về hình thức hợp đồng, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được
pháp luật quy định chặt chẽ dưới hình thức văn bản hoặc các hình thức khác có giá


14

trị pháp lý tương đương, trong khi hợp đồng môi giới không thể hiện sự bắt buộc về
hình thức. Như vậy, hợp đồng môi giới có thể giao kết bằng văn bản, thậm chí bằng lời
nói, hành vi cụ thể theo quy định của Bộ Luật dân sự về hình thức hợp đồng dân sự.
1.1.3.3. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với hoạt động đại lý
thương mại
Mô hình đại lý thương mại được sử dụng phổ biến hơn khi nhu cầu mua bán
hàng hóa của các nhà sản xuất từ quy mô nhà máy, xí nghiệp đến các công ty, tập
đoàn lớn đòi hỏi nguồn cung nguyên, nhiên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ổn định và
có hệ thống.
Ở Việt Nam, khi kinh tế thị trường có điều kiện phát triển, không còn hiếm
những hệ thống đại lý bán hàng được các tập đoàn lớn ủy nhiệm như Honda, các
siêu thị, đại lý phân phối sản phẩm điện máy, điện lạnh, hay đại lý thu mua nông
sản... Khó có thể phủ nhận những cơ hội mà toàn cầu hóa tạo ra cho các nhà sản
xuất có thể đưa sản phẩm của mình trực tiếp đến tay khách hàng mà chi phí lại ít tốn
kém như khi tổ chức một hệ thống tiêu thụ thông qua các đại lý thương mại. Hãng
IBM muốn bán máy tính của họ tại Việt Nam, sẽ là tốn kém và không hợp lý nếu
IBM trực tiếp tổ chức hệ thống tiêu thụ bằng chính nhân lực và chi phí của mình.
Thay vì điều đó, họ sử dụng dịch vụ trung gian thương mại, các đại lý bán hàng sẵn
có tại Việt Nam [22, tr.536] .
Theo Điều 166 Luật Thương mại năm 2005, đại lý thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân
danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của

bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
Như vậy, đại lý thương mại được hiểu là thương nhân thực hiện việc thu mua
hoặc tiêu thụ sản phẩm hay cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý để hưởng thù lao.
Xét từ bản chất, đại lý thương mại khác ủy thác mua bán hàng hóa đặc điểm pháp lý
chủ yếu sau:
Thứ nhất, về chủ thể, trong quan hệ đại lý thương mại cả hai bên giao đại lý
và bên đại lý đều phải là thương nhân, trong khi chủ thể của quan hệ ủy thác mua
bán hàng hóa, bên ủy thác không nhất thiết phải là thương nhân.
Thứ hai, về phạm vi hoạt động, đại lý thương mại có phạm vi hoạt động rộng


15

hơn, bao gồm các hoạt động đại lý mua bán hàng hóa, hoạt động đại lý cung ứng
dịch vụ, trong khi ủy thác mua bán hàng hóa chỉ giới hạn ở hoạt động mua hoặc bán
hàng hóa.
Thứ ba, bên đại lí được tự do hơn bên nhận uỷ thác trong việc lựa chọn bên
thứ ba để giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.
Thứ tư, quan hệ uỷ thác thường mang tính vụ việc, đơn lẻ còn quan hệ đại lí
thường là quá trình hợp tác lâu dài giữa bên đại lí và bên giao đại lí. Vì vậy, trong
quan hệ đại lí bên đại lí có sự gắn bó phụ thuộc vào bên giao đại lí đồng thời bên
giao đại lí có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của bên đại lí hơn so
với quan hệ giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác.
1.2. Bản chất pháp lý của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng ủy thác mua bán hàng
Quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa được xác định trên cơ sở hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng
trong hoạt động thương mại. Vì vậy, nó mang đầy đủ những đặc điểm của hợp đồng
nói chung và hợp đồng trong hoạt động thương mại nói riêng. Đối tượng của hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa là một công việc cụ thể, do vậy, hợp đồng ủy thác

mua bán hàng hóa còn phản ánh đầy đủ các đặc điểm của loại hợp đồng dịch vụ.
Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng ủy thác
mua hàng hóa, song có thể dựa vào khái niệm hoạt đồng ủy thác mua bán hàng hóa
được quy định tại Điều 155 Luật Thương mại năm 2005 cũng như những biểu hiện
đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng dịch vụ được quy định tại Điều 518 Bộ Luật
dân sự năm 2005, có thể định nghĩa hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa như sau:
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên nhận ủy thác thực hiện công việc mua bán hàng hóa với danh nghĩa của mình
theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác, còn bên ủy thác có nghĩa vụ trả
thù lao cho bên nhận ủy thác.
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được xác lập trên cơ sở có đề nghị giao kết
và có chấp nhận đề nghị giao kết hay thỏa thuận được tạo ra và xác định bởi nghĩa vụ
về công việc mua, bán hàng hóa có điều kiện giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác.
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa mang bản chất của hợp đồng dịch vụ,


16

nói cách khác hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là hợp đồng dịch vụ dân sự trong
hoạt động thương mại. Về phương diện chủ thể, bên nhận ủy thác là chủ thể cung
ứng dịch vụ thương mại chuyên nghiệp được thuê thực hiện công việc mua bán
hàng hóa, nhân danh chính mình cho bên ủy thác và được bên ủy thác trả thù lao
theo thỏa thuận. Về đối tượng của hợp đồng này là công việc mua bán hàng hóa đối tượng của một loại hợp đồng dịch vụ. Về nội dung, hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa chứa đựng các điều khoản của hợp đồng dịch vụ như thỏa thuận về công
việc phải làm, phạm vi, thời hạn, thù lao.
Ngoài bản chất của một loại hợp đồng dịch vụ, hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa còn chứa đựng trong đó các dấu hiệu của hợp đồng ủy quyền. Yếu tố ủy
quyền được thể hiện ở nghĩa vụ thực hiện công việc của người được ủy quyền
trong phạm vi được ủy quyền và được nhận thù lao theo thỏa thuận. Tuy nhiên, ủy
thác không đồng nhất với ủy quyền.Về bản chất của hành vi, ủy quyền trong dân sự

là hành vi giao cho người khác sử dụng một số quyền mà pháp luật đã trao cho
mình. Trong khi đó ủy thác trong hoạt động mua bán hàng hóa là hành vi giao cho
người khác làm thay công việc mua bán hàng hóa cho mình. Do đó, về tư cách chủ
thể khi thực hiện hành vi, bên được ủy quyền thực hiện công việc được ủy quyền
nhân danh bên ủy quyền, còn bên nhận ủy thác thực hiện công việc được ủy thác
nhân danh chính mình. Về phạm vi, bên được ủy quyền có thể được ủy quyền thực
hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại trong khi ủy thác mua bán hàng hóa mang
tính vụ việc, thu hẹp trong lĩnh vực mua bán hàng hóa. Về năng lực pháp lý, bên
được ủy quyền có thể là cá nhân, tổ chức có hoặc không có tư cách thương nhân,
tùy thuộc vào hành vi được ủy quyền, còn bên nhận ủy thác phải là thương nhân,
đặc biệt phải có giấy phép kinh doanh phù hợp với hàng hóa được ủy thác mua bán.
Như vậy, ủy thác có dấu hiệu của ủy quyền dân sự nhưng không phải ủy quyền dân
sự trong hoạt động thương mại.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
cũng có những điểm tương đồng và khác biệt. Về bản chất, quan hệ hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa là quan hệ ba bên (quan hệ giữa bên ủy thác với bên nhận ủy
thác và quan hệ giữa bên nhận ủy thác với bên thứ ba), còn quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hóa là quan hệ mua bán trực tiếp giữa bên mua và bên bán. Về phương


17

diện chủ thể, bất kỳ cá nhân, tổ chức có hay không có tư cách thương nhân cũng có
thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong khi hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa có yêu cầu đặc thù đối với năng lực chủ thể của bên nhận ủy thác
(Bên nhận uỷ thác mua bán hàng hoá là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp
với hàng hoá được uỷ thác và thực hiện mua bán hàng hoá theo những điều kiện đã
thoả thuận với bên uỷ thác). Về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được
thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, trong khi hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
bắt buộc về hình thức phải bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý

tương đương văn bản. Về đối tượng, hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là
hàng hóa, trong khi đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là công việc
mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, việc cùng hướng đến mua hoặc bán được hàng hóa
cũng là một điểm tương đồng giữa hai loại hợp đồng này. Điều này dẫn đến trong
hợp đồng có nhiều điều khoản quy định tương tự nhau, chẳng hạn: chủng loại hàng
hóa, số lượng, chất lượng, quy cách, giá, địa điểm, phương thức, thời hạn giao hàng.
Thông qua khái niệm và sự phân tích nêu trên, có thể rút ra những đặc điểm
của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, cụ thể là:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Chủ thể của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bao gồm bên ủy thác và bên
nhận ủy thác.
Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, bên ủy thác là thương nhân
hoặc không phải là thương nhân. Tuy nhiên, bên nhận ủy thác phải là thương nhân
kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hóa được ủy thác và thực hiện việc mua bán
hàng hóa theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác.
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động mua bán
hàng hóa. Như đã phân tích ở trên, bản chất của hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa là một loại cụ thể của hợp đồng dịch vụ nên đối tượng của hợp đồng là việc
thực hiện một công việc cụ thể.
Thứ ba, về nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là các điều khoản thỏa
thuận giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác, thể hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của


18

các bên trong quan hệ ủy thác, theo đó bên nhận ủy thác có nghĩa vụ thực hiện công
việc ủy thác mua bán hàng hóa theo ủy quyền của bên ủy thác và được hưởng thù
lao; bên ủy thác có nghĩa vụ trả tiền thù lao cho bên nhận ủy thác.

Trong thực tiễn, tùy thuộc vào công việc được ủy thác, nội dung của hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa được thể hiện khác nhau. Tuy nhiên, thông thường
nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bao gồm các điều khoản chủ yếu
sau: hàng hóa được ủy thác mua, bán; thù lao ủy thác; thời hạn thực hiện hợp đồng
ủy thác mua bán hàng; các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng; trách nhiệm vật
chất khi vi phạm hợp đồng; các trường hợp miễn trách nhiệm; thủ tục giải quyết
tranh chấp. Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận về vấn đề mua bảo hiểm cho hàng
hóa ủy thác để dự liệu cho trường hợp bên nhận ủy thác đã thực hiện đúng nghĩa vụ
bảo quản hàng hóa ủy thác song hàng hóa vẫn gặp rủi ro ngoài tầm kiểm soát...
Pháp luật các nước có những cách khác nhau trong quy định về nội dung hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Các nước theo truyền thống luật Anh - Mỹ thường
không có quy định riêng điều chỉnh các dịch vụ trung gian trong hoạt động thương
mại. Tất cả các giao dịch qua trung gian, bất kể nhằm mục đích gì cũng được quy
định chung trong Luật đại diện (Luật của Anh là The commercial Agents
Regulatiens Luật của Hoa Kỳ là Law of Agency). Về nội dung hợp đồng, về cơ bản
chỉ bắt buộc thỏa thuận về điều khoản đối tượng của hợp đồng, những nội dung
khác, nếu các bên không có thỏa thuận cụ thể, có thể được dẫn tập quán thương mại
để xác định [36].
Các nước khác theo truyền thống Châu Âu lục địa, bên cạnh Bộ Luật dân sự,
còn có Luật Thương mại, quy định cụ thể về từng hoạt động trung gian thương mại,
trong đó có vấn đề về nội dung hợp đồng. Điển hình là pháp luật của Cộng hòa
Pháp, nội dung hợp đồng phải thỏa thuận rõ về đối tượng, chất lượng, giá cả [12].
Thứ thư, về hình thức của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Về nguyên tắc, hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận kết quả
mà các bên thoả thuận với nhau. Phương tiện này có thể bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể.
Tuy nhiên, Điều 159 Luật Thương mại năm 2005 quy định: Hợp đồng uỷ
thác mua bán hàng hoá phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có



19

giá trị pháp lý tương đương (các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn
bản bao gồm: điện báo, TELEX. FAX, Thông điệp dữ liệu)
Như vậy, một trong những điều kiện để hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
có hiệu lực pháp luật là phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hình thức của
hợp đồng. Quy định này có phần cứng nhắc, không phù hợp tính năng động, linh
hoạt của sự tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cũng như các hợp đồng khác có vai trò
quan trọng trong giao dịch thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa
nói riêng trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Thứ nhất, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là phương tiện pháp lý tạo
điều kiện cho cá nhân, tổ chức, nhà kinh doanh thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh
doanh của mình.
Để tồn tại và phát triển, mọi cá nhân cũng như tổ chức phải tham gia vào các
mối quan hệ kinh tế khác nhau. Tuy nhiên các quan hệ đó chỉ được hình thành từ
những hành vi có ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Sự thỏa thuận bằng ý chí tự
nguyện của các bên là cơ sở hình thành hợp đồng. Một doanh nghiệp muốn bán
hoặc mua sản phẩm cho mình nhưng không có đủ điều kiện trực tiếp bán hoặc mua
từ đối tác, họ sẽ ký một hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa với bên kinh doanh
dịch vụ ủy thác để bên nhận ủy thác ký hợp đồng bán hoặc mua hàng từ bên thứ ba
thay họ. Như vậy nhu cầu tiêu thụ hoặc thu mua sản phẩm của doanh nghiệp đã
được đáp ứng. Thông qua hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa mà hoạt động sản
xuất kinh doanh được diễn ra thuận lợi, các chủ thể kinh doanh có thêm lợi nhuận,
phát triển sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là căn cứ pháp lý ghi nhận
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được giao kết hợp pháp, có hiệu lực
pháp luật sẽ ràng buộc các bên thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của

mình. Nói cách khác, bên ủy thác và bên nhận ủy thác có cơ sở pháp lý để thực hiện
trách nhiệm của mình như thỏa thuận và yên tâm là bên kia cũng phải thực hiện
nghĩa vụ đối với mình. Bởi vì hợp đồng ủy thác là sự thể hiện ý chí thống nhất của


20

các bên, bao gồm những điều khoản mà các bên đã cam kết. Do đó, các bên phải
thực hiện những cam kết mà mình đã đồng ý xác lập, không thể viện lý do để từ
chối nghĩa vụ.
Thứ ba, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là cơ sở pháp lý để Nhà nước
kiểm tra tính hợp pháp của quan hệ kinh tế và giải quyết tranh chấp, vi phạm nếu
có, thông qua đó kiểm soát được các hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa
Qua kiểm tra, phát hiện sai phạm trong quá trình ký kết và thực hiện hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa, các cơ quan chức năng có thể đề xuất sửa đổi, bổ
sung, ban hành mới các văn bản pháp luật phù hợp với thực tiễn kinh doanh, bảo vệ
quan hệ hợp đồng, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Hay các cơ quan giải
quyết tranh chấp chỉ giải quyết yêu cầu của các bên khi giữa họ có hợp đồng ủy thác
hợp pháp, tức là hợp đồng có hiệu lực. Khi đó, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
sẽ là chứng cứ quan trọng để giải quyết tranh chấp, vi phạm phát sinh giữa các bên.
Ví dụ: Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng, điều khoản phương thức
giải quyết tranh chấp sẽ quy định việc các bên sẽ giải quyết tranh chấp như thế nào,
thông qua cơ quan tài phán nào, luật áp dụng ra sao… Hay khi một bên cố tình
không thực hiện hợp đồng mà không có lý do chính đáng thì hợp đồng chính là căn
cứ buộc bên vi phạm thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng.
1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
1.3.1.Nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại nói chung và hoạt động ủy
thác mua bán hàng hóa nói riêng, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản điều chỉnh
quan hệ hợp đồng, trong đó có hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.

Có thể chia nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa thành 02 nhóm cơ bản:
Thứ nhất, nhóm các quy định chung về hợp đồng, trong có hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa.
Nhóm các quy định này quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc chung
về mọi loại hợp đồng, không phụ thuộc vào đó là hợp đồng gì, phát sinh trong lĩnh
vực nào. Giai đoạn trước ngày 01/01/2006, nhóm các quy định này bao gồm có Bộ
luật dân sự năm 1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989. Giai đoạn kể từ


21

ngày 01/01/2006 tới nay, nhóm các quy định này được tìm thấy ở Bộ luật dân sự
năm 2005.
Bộ luật dân sự năm 2005, có các quy định chung liên quan đến hợp đồng ủy
thác mua bán hàng sau đây:
- Giao dịch dân sự (Chương VI): các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu và xử lý hậu quả của giao dịch dân sự
vô hiệu.
- Đại diện (Chương VII) và ủy quyền (mục 12 Chương XVII): người đại diện
cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập các giao dịch dân sự, vấn
đề đại diện theo ủy quyền.
- Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự (Chương XVII, Chương XVIII): các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân
sự; trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự; các vấn đề liên quan đến
nguyên tắc giao kết hợp đồng; thủ tục giao kết hợp đồng, điều kiện có hiệu lực, sửa
đổi, bổ sung, chấm dứt thanh lý hợp đồng; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ hợp đồng; thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng.
Ngoài ra, Bộ Luật dân sự năm 2005 còn rất nhiều quy định có liên quan đến
hợp đồng nói chung và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng như quy định

về chủ thể của quan hệ dân sự, quy định về tài sản và quyền sở hữu tài sản...
Thứ hai, nhóm các quy định chuyên ngành về hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa
Bên cạnh những quy định chung về hợp đồng được quy định tại Bộ Luật dân
sự năm 2005 thì Luật Thương mại năm 2005 cũng chứa đựng rất nhiều quy định cụ
thể về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa như:
- Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa;
- Điều kiện đối với hàng hóa được ủy thác mua bán;
- Hình thức của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa;
- Vấn đề ủy thác lại cho bên thứ ba;
- Phạm vi nhận ủy thác mua bán hàng hóa;
- Quyền và nghĩa vụ chính của các bên trong quan hệ hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa;


22

- Chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại, trong đó có hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.
Bên cạnh đó, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh bởi
các Nghị định của Chính phủ về xuất nhập khẩu, danh mục hành hóa cấm kinh
doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện.
Như vậy, một hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cụ thể có thể đồng thời
chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau. Bởi
vậy, để áp dụng pháp luật đúng đắn cần nắm vững nguyên tắc áp dụng phối hợp các
văn bản pháp luật.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Thương mại năm 2005, ủy thác mua bán hàng
hóa là một hoạt động thương mại nên phải tuân thủ quy định của Luật Thương mại
và pháp luật có liên quan. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật
khác thì áp dụng quy định của luật đó. Nếu không có quy định trong Luật thương

mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 để
điều chỉnh.
Ngoài ra, đối với các hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa quốc tế, nguồn
luật điều chỉnh đối với loại hợp đồng này còn bao gồm cả các điều ước quốc tế và
các tập quán thương mại quốc tế, chẳng hạn như: Công ước Viên 1980 về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, các nguyên tắc thương mại quốc tế (PICC), Công ước về
đại diện trong mua bán hàng hóa quốc tế của UNIDROIT, các điều kiện thương mại
quốc tế (INCOTERMS), các tập quán và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ
(UCP)...
Phù hợp với tinh thần này, Điều 5 Luật Thương mại năm 2005 quy định,
trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có
quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế
đó. Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp
dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài,
tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam.
1.3.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng


23

ủy thác mua bán hàng hóa
Dựa trên nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa,
những nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa bao gồm:
- Các quy định về chủ thể hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Đây là nội dung quy định về các điều kiện chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Chủ thể của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
gồm bên ủy thác và bên nhận ủy thác. Pháp luật của các nước đều quy định bên

nhận ủy thác là thương nhân, trong khi đó bên ủy thác không nhất thiết phải là
thương nhân. Điều này được lý giải dựa trên hoạt động mang tính nghề nghiệp của
thương nhân. Sẽ là không hợp lý khi người thực hiện công việc được ủy thác thay
cho người khác không am hiểu nghiệp vụ thương mại. Nói cách khác, người nhận
ủy thác thực hiện hành vi thay cho người khác buộc phải có nghiệp vụ thương nhân.
Trong khi đó, người ủy thác là chủ thể có nhu cầu mua hoặc bán hàng hóa nào đó những công việc xuất phát từ nhu cầu mua bán hàng hóa phục vụ hành vi thương
mại (sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm...), cũng có thể phục vụ mục đích tiêu
dùng trong đời sống sinh hoạt.

Do đó, không đòi hỏi tư cách thương nhân của họ.

- Giao kết hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa phát sinh trên cơ sở hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác. Do vậy, một trong những
nội dung quan trọng của pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa là những quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng, đại diện ký kết hợp
đồng và trình tự thủ tục giao kết hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.
- Hiệu lực pháp lý của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Để bảo đảm hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có hiệu lực pháp luật,
ràng buộc trách nhiệm pháp lý giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác, pháp luật
quy định các điều kiện về nội dung, các điều kiện về hình thức của hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa cũng như vấn đề vô hiệu và xử lý hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa vô hiệu.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là những điều khoản


×