Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hợp đồng môi giới thương mại theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.01 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TIỆP

HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60.38.0107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ YẾN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, em đã nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ, tạo điều kiện của các thầy cô trong Ban Giám hiệu, Khoa Luật Kinh
tế và Khoa sau đại học Trường Đại học Luật Hà Nội. Em xin bảy tỏ sự cảm
ơn chân thành về sự giúp đỡ đó.
Em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Yến,
người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và Ban Giám
hiệu Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên đã động viên, khuyến khích, tạo


điều kiện và giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn
này.
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014

Tác giả

Nguyễn Thị Tiệp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 7
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI, HỢP ĐỒNG
MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MÔI
GIỚI THƯƠNG MẠI .................................................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của môi giới thương mại .............. 7
1.1.1. Khái niệm môi giới thương mại ......................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của môi giới thương mại ................................... 10
1.1.3. Vai trò của hoạt động môi giới thương mại đối với thương
nhân và nền kinh tế ............................................................................... 13
1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng môi giới thương mại ............... 16
1.2.1. Khái niệm hợp đồng môi giới thương mại ........................ 16
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng môi giới thương mại ................... 18
1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại ............ 20
1.3.1. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thương mại ...... 20
1.3.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại ...... 21
CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 24
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH .......................................... 24
HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ........................ 24
2.1. Chủ thể của hợp đồng môi giới thương mại ............................. 24

2.1.1. Bên môi giới ..................................................................... 24
2.1.2. Bên được môi giới ............................................................ 30


2.2. Đối tượng của hợp đồng môi giới thương mại ......................... 31
2.3. Nội dung của hợp đồng môi giới thương mại ........................... 32
2.4. Hình thức của hợp đồng môi giới thương mại .......................... 45
2.5. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng môi giới thương mại ........ 46
2.6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng môi giới thương mại ......... 48
2.7. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mô giới thương mại
................................................................................................................. 49
2.8. Chấm dứt hợp đồng môi giới thương mại ................................ 49
CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 52
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI
THƯƠNG MẠI .......................................................................................... 52
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng môi giới
thương mại ............................................................................................... 52
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng môi giới
thương mại ............................................................................................... 58
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp
đồng môi giới thương mại. ....................................................................... 63
KẾT LUẬN ................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 68
DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ..................................................... 69


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi giới thương mại là một trong những hoạt động có vai trò và ý
nghĩa rất lớn trong tiêu thụ và phân phối hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Cùng với các hoạt động trung gian thương mại khác, hoạt động môi giới
thương mại giúp thương nhân thực hiện phân phối hàng hóa, dịch vụ trên
phạm vi rộng, tiết kiệm chi phí giao dịch, cải thiện môi trường kinh doanh và
mang lại hiệu quả đáng kể trong đầu tư so với các hình thức phân phối trực
tiếp.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động môi giới thương mại đã xuất hiện
từ khá sớm, hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả và thực sự trở
thành một kênh phân phối hàng hóa, dịch vụ quan trọng của thương nhân. Ở
Việt Nam, hoạt động môi giới thương mại mặc dù đã ra đời từ lâu nhưng chỉ
chính thức được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997 và tiếp tục được
quy định trong Luật Thương mại năm 2005 (LTM 2005). Trên cơ sở đó, các
văn bản pháp luật chuyên ngành đã quy định về từng hoạt động môi giới cụ
thể, trong đó có một số hoạt động môi giới đặc thù như: môi giới bất động
sản, môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải... Hệ thống
các văn bản pháp luật này đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện các
hoạt động môi giới thương mại ở Việt Nam. Theo đó, các chủ thể thực hiện
hoạt động môi giới thương mại trên cơ sở hợp đồng môi giới thương mại.
Hợp đồng môi giới thương mại là cơ sở pháp lý quan trọng để thương
nhân thực hiện cung ứng dịch vụ môi giới thương mại cho khách hàng. LTM
2005 đã quy định những nguyên tắc chung cho việc thực hiện hoạt động môi
giới thương mại và giao kết hợp đồng môi giới thương mại. Trong từng lĩnh
vực môi giới, pháp luật đã điều chỉnh tương đối cụ thể các vấn đề như: chủ
thể của hợp đồng, nội dung của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ cụ thể của các


2


bên tham gia giao kết hợp đồng, hình thức của hợp đồng ... Nhìn chung,
những quy định này đã tạo điều kiện cho các bên trong việc xác lập và thực
hiện các hợp đồng môi giới trong từng lĩnh vực cụ thể.
Tuy nhiên, quá trình triển khai áp dụng các quy định của pháp luật hiện
hành về hợp đồng môi giới thương mại cho thấy các quy định về hợp đồng
môi giới thương mại còn chưa đầy đủ, bộc lộ nhiều mâu thuẫn, chồng chéo,
nhiều quy định còn chưa cụ thể dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng và ảnh
hưởng đến sự phát triển của hoạt động môi giới thương mại nói chung và việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng môi giới thương
mại nói riêng.
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và
thực trạng pháp luật điều chỉnh về hợp đồng môi giới thương mại ở Việt Nam
hiện nay, việc nghiên cứu các quy định chung của pháp luật Việt Nam hiện
hành về hợp đồng môi giới thương mại trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật chuyên ngành về một số hợp đồng môi giới đặc thù là cần
thiết và có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý, pháp luật điều chỉnh hợp đồng môi giới
thương mại chưa được nghiên cứu nhiều. Các vấn đề pháp lý về hợp đồng
môi giới thương mại mới chỉ được đề cập trong giáo trình Luật Thương mại
của một số cơ sở đào tạo Luật: Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật
Trường Đại học quốc gia. Tuy nhiên, những tài liệu này mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu các quy định chung nhất của pháp luật về hoạt động môi giới
thương mại, trong đó có đề cập đến nội dung về hợp đồng môi giới thương
mại, chưa có sự nghiên cứu sâu sắc về mặt lý luận cũng như những bất cập
của pháp luật hiện hành về vấn đề này.


3


Ở các cấp độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau, có thể kể đến Luận án
tiến sỹ Luật học “Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại ở
Việt Nam” của Nguyễn Thị Vân Anh (Trường Đại học Luật Hà Nội). Trong
công trình này, tác giả đã tập trung phân tích các nội dung cơ bản của pháp
luật về hoạt động trung gian thương mại theo LTM 2005 và một số đạo luật
chuyên ngành khác có quy định về hoạt động trung gian thương mại, trong đó
có đề cập đến các quy định chung về hợp đồng môi giới thương mại. Ngoài
ra, còn một số công trình khác nghiên cứu về một số hoạt động môi giới đặc
thù, cụ thể như: Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về môi giới bất động
sản” của Phạm Thị Trang (Trường Đại học Luật Hà Nội), luận văn thạc sỹ
“hoạt động môi giới thuê tầu tại công ty Vietfrancht” của Hoàng Thị Tuyết
(Trường Đại học ngoại thương) và một số bài viết đăng trên các tạp chí
chuyên ngành về các hoạt động môi giới thương mại như: “dịch vụ môi giới
bất động sản: kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn và định hướng phát triển ở Việt
Nam” của Lưu Đức Khải, Hà Huy Ngọc đăng trên tạp chí quản lý kinh tế số
24 năm 2009, ... Trong những công trình này, các tác giả mới chỉ tập trung
nghiên cứu các quy định của pháp luật về từng dịch vụ môi giới thương mại
cụ thể, trong đó các quy định về hợp đồng môi giới chưa được tập trung phân
tích và làm rõ.
Qua việc đánh giá tình hình nghiên cứu về hợp đồng môi giới thương
mại, có thể nhận thấy, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu
sắc những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng môi giới thương mại cũng
như pháp luật điều chỉnh về hợp đồng môi giới thương mại. Trên cơ sở kế
thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công
bố, có thể khẳng định Luận văn thạc sỹ: “Hợp đồng môi giới thương mại theo
pháp luật Việt Nam hiện hành” là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách


4


tổng quát các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh hợp đồng
môi giới thương mại theo quy định của pháp luật hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về hợp đồng môi giới thương mại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại.
Với mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động môi giới thương
mại; tìm hiểu khái niệm, đặc điểm về hợp đồng môi giới thương mại và pháp
luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng môi giới
thương mại;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng môi giới
thương mại và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các hợp
đồng môi giới thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn nghiên
cứu các quy định của pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại trong LTM
2005 và một số văn bản pháp luật chuyên ngành về hợp đồng môi giới trong
từng lĩnh vực cụ thể, đồng thời có tham khảo và so sánh quy định về hợp
đồng môi giới thương mại của một số nước trên thế giới.
LTM 2005 đã mở rộng phạm vi môi giới thương mại, bao gồm tất cả
các hoạt động môi giới nhằm mục đích sinh lợi như môi giới bất động sản,
môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới mua bán hàng hóa, môi
giới hàng hải ... Vì vậy, pháp luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thương mại
rộng và được quy định trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành. Trong
phạm vi luận văn thạc sỹ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những nội


5


dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại theo LTM 2005
và một số luật chuyên ngành khác có điều chỉnh về các hợp đồng môi giới
thương mại đặc thù như: Luật kinh doanh bất động sản, Luật kinh doanh bảo
hiểm, Luật chứng khoán, Bộ Luật hàng hải.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu trên, luận văn đã sử dụng
phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp và phân tích, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu.
6. Những điểm mới của luận văn
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây về hợp đồng môi
giới thương mại, luận văn có những điểm mới sau:
- Luận văn đã phân tích một cách cụ thể những vấn đề pháp lý về hợp
đồng môi giới thương mại, qua đó, luận văn đã chỉ rõ những điểm bất cập,
hạn chế của pháp luật hiện hành quy định về hợp đồng môi giới thương mại;
- Trên cơ sở thực trạng pháp luật điều chỉnh về hợp đồng môi giới
thương mại và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về hợp đồng
môi giới thương mại, luận văn đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về hợp đồng môi giới thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của hoạt động môi giới thương mại trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về môi giới thương mại, hợp đồng môi giới
thương mại và pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại.



6

Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thương
mại ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại.


7

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI,
HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của môi giới thương mại
1.1.1. Khái niệm môi giới thương mại
Môi giới thương mại là một trong các phương thức giao dịch qua trung
gian, được hình thành cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại, do
nhu cầu của thương nhân và dần phát triển thành một nghề kinh doanh chuyên
nghiệp trên nhiều lĩnh vực: môi giới chứng khoán, môi giới bất động sản, môi
giới mua bán hàng hóa, môi giới hàng hải ... Nghề môi giới được hình thành
khá sớm trong lịch sử nền kinh tế. Có thể thấy, tiền thân của nghề môi giới tài
chính là nghề thợ vàng, nghề đổi tiền, sau đó tới các hoạt động đầu tư bất
động sản, đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Hoạt động môi giới bảo hiểm
đầu tiên ra đời có liên quan đến các rủi ro hàng hải và bắt đầu từ nghiệp vụ
bảo hiểm các rủi ro từ các thảm họa thiên nhiên của hoạt động hàng hải. Nghề
môi giới thuê tầu ra đời đầu tiên ở nước Anh, từ thế kỷ XVII, dần vượt ra khỏi
phạm vi của nước Anh và phát triển ngày càng mạnh mẽ tại các quốc gia hàng
hải hoặc kinh doanh dịch vụ hàng hải... Trong hoạt động thương mại quốc tế,
lúc đầu, người môi giới chỉ đơn thuần là người phiên dịch, sau đó họ đóng vai

trò là người chuyển tải các thông điệp về pháp luật, kinh tế tại các hội chợ
thương mại quốc tế. Dần dần họ trở thành một bên được ủy thác để giúp các
bên tìm hiểu thị trường, tìm hiểu đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng [1,tr.13].
Ở Việt Nam, Bộ luật thương mại năm 1972 của Việt Nam Cộng hòa đã
có một số quy định về hoạt động thương mại qua người trung gian, trong đó
hành vi trọng mãi được xem là giống với hành vi môi giới theo pháp luật hiện


8

hành. Theo quy định tại Điều 357, BLTM năm 1972, trọng mãi là hoạt động
trong đó người trọng mãi là người cam kết tìm một người để hai bên liên lạc
rồi ký kết hợp đồng với nhau [1, tr.15]. Sang nền kinh tế kế hoạch tập trung,
Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch chi
tiết và chế độ cấp phát, giao nộp theo quan hệ hiện vật. Hoạt động thương mại
chủ yếu do các cơ sở thương nghiệp của Nhà nước thực hiện và chủ yếu theo
phương thức giao dịch trực tiếp, vì vậy hoạt động môi giới nói riêng và các
hoạt động trung gian thương mại nói chung không có điều kiện để phát triển
tự do theo đúng nghĩa của các dịch vụ vì lợi nhuận. Tuy nhiên, trong thời gian
này, đã có một số doanh nghiệp nhà nước được thành lập nhằm thực hiện các
hoạt động môi giới thương mại như: Công ty vận tải và thuê tàu Vietfracht
được thành lập năm 1963 theo Quyết định số 10/BNT-QĐ-TCCB của Bộ
Ngoại thương, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam được thành lập và bắt đầu
hoạt động từ năm 1964... Song, nhìn chung hầu hết các hoạt động môi giới
thương mại ở Việt Nam đều phát triển khá muộn. Hoạt động môi giới thương
mại chỉ chính thức được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997 và tiếp
tục được ghi nhận trong LTM 2005.
Về khái niệm, dưới góc độ ngôn ngữ, “Môi giới được hiểu là: Người
trung gian giúp hai bên tiếp xúc, giao thiệp với nhau” [17, tr.168]. Dưới góc
độ pháp lý, theo Từ điển Luật học: “Môi giới: hành vi trung gian cho các bên

tiếp xúc, đàm phán và thiết lập các quan hệ để hưởng thù lao”. Luật Thương
mại năm 2005 định nghĩa: “Môi giới thương mại là hoạt động thương mại,
theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc
đàm phán, giao kết hợp đồng, mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù
lao theo hợp đồng môi giới” (Điều 150).


9

Tuy LTM 2005 không đưa ra khái niệm thương mại nhưng hiện nay
khái niệm này được hiểu theo nghĩa rộng, theo Luật mẫu của UNCITRAL về
trọng tài thương mại: “Thuật ngữ “thương mại” cần được giải thích theo nghĩa
rộng liên quan đến tất cả các vấn đề phát sinh từ các quan hệ có bản chất
thương mại, dù là quan hệ hợp đồng hoặc không phải là quan hệ hợp đồng.
Những quan hệ có bản chất thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn bởi
các giao dịch sau: giao dịch thương mại để cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa,
dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; hoa hồng;
thuê mua, xây dựng công trình; tư vấn, kỹ thuật; li – xăng; đầu tư; tài chính;
ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận thăm dò hoặc khai thác; liên doanh và các
hình thức hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh khác; vận tải hàng hóa hoặc
hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”.
Trong khi đó, thương mại theo cách hiểu thông qua các hiệp định của WTO
bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến
đầu tư, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật Việt Nam
không đưa ra khái niệm “thương mại” nhưng đưa ra khái niệm “hoạt động
thương mại” theo đó: “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (khoản 11 Điều 3
LTM 2005).

Như vậy, môi giới thương mại là một trong các hoạt động trung gian
thương mại nhằm cung ứng dịch vụ thương mại cho một hoặc một số thương
nhân nhất định để hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. Nội dung và phạm
vi của môi giới thương mại rất rộng, bao gồm các hoạt động như: tìm kiếm và
cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành
các hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các
bên tiếp xúc, gặp gỡ nhau và có thể soạn thảo hợp đồng khi các bên yêu cầu.


10

Hoạt động môi giới thương mại là hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tìm
kiếm lợi nhuận từ các hợp đồng môi giới.
Môi giới thương mại là khái niệm chung chỉ hoạt động trung gian
thương mại. Khái niệm môi giới trong từng lĩnh vực thương mại cụ thể được
quy định tại nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau. Ví dụ, theo
quy định tại Điều 44 khoản 1 Luật kinh doanh bất động sản năm 2006: Môi
giới bất động sản được hiểu là hoạt động của tổ chức, cá nhân làm trung gian
trong việc đàm phán, ký hợp đồng kinh doanh bất động sản và được hưởng
thù lao, hoa hồng theo hợp đồng môi giới bất động sản; theo khoản 1 Điều
166 Bộ luật hàng hải năm 2005: Môi giới hàng hải là dịch vụ làm trung gian
cho các bên liên quan trong việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng vận
chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng thuê tầu, hợp đồng mua bán
tàu biển, hợp đồng lai dắt tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên và các hợp
đồng khác liên quan đến hoạt động hàng hải theo hợp đồng môi giới hàng hải;
theo khoản 20 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: Môi giới chứng khoán là
việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán
cho khách hàng ...
1.1.2. Đặc điểm của môi giới thương mại
Thứ nhất, môi giới thương mại là việc thực hiện hành vi trung gian

nhằm kết nối các bên tiếp xúc, đàm phán và xác lập các giao dịch.
Cũng giống như các hình thức trung gian thương mại khác, môi giới
thương mại là hành vi cung ứng dịch vụ thương mại theo phương thức trung
gian. Người môi giới được thuê để thực hiện các hoạt động giúp các bên được
môi giới giao kết hợp đồng với nhau.
Hoạt động môi giới thương mại trước tiên là một hoạt động cung ứng
dịch vụ thương mại, vì vậy chủ thể của hoạt động này cũng bao gồm hai bên
là bên thực hiện dịch vụ (bên môi giới) và bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ


11

(bên được môi giới). Cũng giống như các hoạt động trung gian thương mại
khác, trong hoạt động môi giới thương mại có sự xuất hiện của bên thứ ba
nhưng bên môi giới chỉ có chức năng kết nối giữa bên được môi giới với bên
thứ ba trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng chứ không trực tiếp tham gia
vào việc giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba.
Thứ hai, hoạt động môi giới thương mại có nội dung và phạm vi rộng.
Hoạt động môi giới thương mại là hoạt động thương mại của thương
nhân nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái niệm
thương mại được hiểu theo nghĩa rộng (như đã phân tích ở mục 1.1.1). Vì vậy
nội dung và phạm vi của hoạt động môi giới thương mại theo quy định của
pháp luật hiện hành cũng rộng và phong phú. Nếu Luật Thương mại năm
1997 quy định thương nhân chỉ thực hiện hoạt động môi giới trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa hoặc có liên quan đến mua bán hàng hóa thì LTM 2005 đã
mở rộng phạm vi môi giới thương mại sang tất cả các lĩnh vực thương mại
bao gồm mua bán hàng hóa, các dịch vụ thương mại như: môi giới trong lĩnh
vực bảo hiểm, bất động sản, chứng khoán ...
Thứ ba, trong hoạt động môi giới thương mại, bên môi giới phải có tư

cách pháp lý độc lập với bên được môi giới và bên thứ ba.
Tuy giữ vai trò kết nối giữa bên môi giới với bên thứ ba nhưng bên môi
giới có tư cách pháp lý độc lập. Theo pháp luật hiện hành, bên môi giới phải
là thương nhân độc lập và có đăng ký kinh doanh để thực hiện hoạt động môi
giới một cách chuyên nghiệp. Điều này cũng cho thấy hoạt động môi giới
thương mại được coi là một nghề kinh doanh, chuyên cung ứng các dịch vụ
môi giới trong các lĩnh vực thương mại cụ thể. Đặc điểm này giúp phân biệt
hoạt động môi giới thương mại với các hoạt động môi giới tự phát khác.


12

Trong khi đó, bên được môi giới và bên thứ ba không nhất thiết phải là
thương nhân.
Thứ tư, khi thực hiện hoạt đông môi giới thương mại, thông thường bên
môi giới chỉ có quan hệ với bên được môi giới mà không có quan hệ với bên
thứ ba (trừ trường hợp bên môi giới cũng ký hợp đồng môi giới với bên thứ
ba).
Khi thực hiện môi giới thương mại, bên môi giới không phải là đại diện
cho các bên được môi giới và cũng không nhân danh bên được môi giới để
giao dịch cũng như thực hiện bất kỳ giao dịch nào với bên thứ ba. Bên môi
giới chỉ làm các công việc giúp bên được môi giới và bên thứ ba tiếp xúc với
nhau và tạo điều kiện cho các bên đi đến ký kết hợp đồng. Đặc điểm này của
hoạt động môi giới thương mại khác với các hoạt động trung gian thương mại
khác. Ví dụ, trong hoạt động đại diện cho thương nhân, bên đại diện sẽ thay
mặt, nhân danh bên giao đại diện để thực hiện hoạt động thương mại với bên
thứ ba vì lợi ích của bên giao đại diện; trong hoạt động đại lý thương mại, bên
đại lý sẽ nhân danh chính mình để thực hiện việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ với bên thứ ba để hưởng thù lao đại lý. Có thể nói, với đặc điểm này,
môi giới thương mại được coi là “hoạt động trung gian thương mại điển

hình”.
Thứ năm, hoạt động môi giới thương mại được thực hiện bởi những
người có năng lực, trình độ và kinh nghiệm liên quan đến lĩnh vực môi giới.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước trên thế giới đều quy
định điều kiện của thương nhân kinh doanh dịch vụ môi giới thương mại.
Trong đó, điều kiện được xem là quan trọng và quyết định đến kết quả của
hoạt động môi giới là điều kiện về đội ngũ nhân viên thực hiện hoạt động môi
giới. Để hoạt động môi giới mang tính chuyên nghiệp và hiệu quả, đa số các
lĩnh vực môi giới có tính chất phức tạp, pháp luật đều quy định người thực


13

hiện hoạt động môi giới phải có chứng chỉ hành nghề môi giới. Điều đó có
nghĩa là chủ thể thực hiện hoạt động môi giới phải đạt được những yêu cầu
nhất định về trình độ, năng lực và hiểu biết liên quan đến lĩnh vực được môi
giới. Chính vì thế, hoạt động môi giới thương mại đã dần trở thành một nghề
mang tính chuyên môn cao trong xã hội.
1.1.3. Vai trò của hoạt động môi giới thương mại đối với thương
nhân và nền kinh tế
Môi giới thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng sản phẩm,
dịch vụ. Hoạt động môi giới thương mại chuyên nghiệp, hiệu quả sẽ giúp cho
việc trao đổi, mua bán và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của nhà đầu tư trở lên
thuận tiện và đơn giản hơn, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
và cải thiện môi trường kinh doanh. Vai trò của môi giới thương mại được thể
hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, hoạt động môi giới thương mại giúp các thương nhân trong
việc phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ một cách có hiệu quả.
Phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ là khâu quan trọng trong quá
trình đầu tư của thương nhân. Sau quá trình sản xuất, việc đưa hàng hóa, dịch

vụ đến tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất mà lại tiết
kiệm được chi phí là một trong những yếu tố quyết định thành công của nhà
đầu tư. Việc sử dụng phương thức phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ thông
qua các nhà môi giới chuyên nghiệp mang lại hiệu quả cao vì những lý do
sau:
Một là, nhà môi giới thương mại là những người thực hiện hoạt động
môi giới thương mại một cách chuyên nghiệp, họ có hiểu biết, kinh nghiệm và
kiến thức sâu trong lĩnh vực môi giới, vì vậy, họ có thể giúp nhà sản xuất
phân phối hàng hóa, cung ứng dịch vụ một cách tốt nhất. Hơn nữa, không
phải lúc nào người bán cũng tìm được người mua, người cung ứng dịch vụ


14

cũng tìm được người sử dụng dịch vụ và ngược lại, vì thế, với việc nắm bắt
nhanh nhạy các điều kiện về thị trường, sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng,
xu hướng của thị trường..., người môi giới sẽ đóng vai trò là cầu nối giúp cho
các bên tìm đến nhau nhanh hơn và dễ dàng trong việc thương lượng, ký kết
hợp đồng. Đặc biệt, những người môi giới cũng là những người am hiểu sâu
pháp luật, tập quán và các đối tác, vì vậy, họ có khả năng đẩy mạnh việc giao
lưu buôn bán trên phạm vi rộng.
Hai là, sử dụng dịch vụ môi giới thương mại sẽ tiết kiệm đáng kể chi
phí giao dịch cho nhà sản xuất trong phân phối và cung ứng dịch vụ trên thị
trường. Như trên đã nói, người môi giới thương mại thực hiện hoạt động môi
giới một cách chuyên nghiệp, vì vậy, họ có các mối quan hệ khách hàng rộng,
có sẵn các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nghiệp vụ môi giới, họ
thực hiện phân phối hàng hóa, dịch vụ cho nhiều nhà sản xuất nên hoạt động
phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của họ sẽ nhanh chóng, hiệu quả và ít
tốn kém hơn việc từng nhà sản xuất thực hiện.
Ba là, sử dụng dịch vụ môi giới thương mại góp phần đẩy mạnh quá

trình chuyên môn hóa lao động và tăng hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh.
Khi sử dụng dịch vụ môi giới, các nhà sản xuất sẽ tập trung vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh mà không bị phân tán các nguồn lực cho khâu cung ứng và
phân phối dịch vụ trên thị trường, do vậy, hiệu quả sản xuất, kinh doanh sẽ
được nâng cao hơn.
Thứ hai, hoạt động môi giới thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng được tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ trên thị trường một cách tốt
nhất.
Những nhà môi giới chuyên nghiệp sẽ giới thiệu đến người tiêu dùng
các hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của người
tiêu dùng, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà đại đa số hiểu biết của người


15

tiêu dùng còn rất hạn chế (chứng khoán, bất động sản ...). Người môi giới sẽ
tư vấn cho khách hàng những điều tốt nhất trong lĩnh vực phân phối hàng hóa,
dịch vụ. Ví dụ, trong lĩnh vực bất động sản, các thông tin về thị trường bất
động sản được người môi giới cung cấp một chính xác, trung thực và đầy đủ
sẽ giúp khách hàng phòng tránh được rủi ro và đảm bảo an toàn về mặt pháp
lý khi tham gia xác lập giao dịch về bất động sản, nhất là khi đối tượng của
các giao dịch liên quan đến bất động sản thường là các tài sản có giá trị lớn;
hay trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm, người môi giới sẽ tư vấn giúp khách
hàng đánh giá những rủi ro của khách hàng, phân tích những rủi ro cần phải
bảo hiểm, giúp khách hàng lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm có đầy đủ
khả năng cung cấp những sản phẩm bảo hiểm, những dịch vụ bảo hiểm phù
hợp theo yêu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm cũng
đồng thời giúp người tham gia thực hiện đàm phán với các doanh nghiệp bảo
hiểm để có thể thu xếp được những điều kiện, điều khoản, mức phí bảo hiểm
đáp ứng được yêu cầu của khách hàng; trong hoạt động môi giới chứng

khoán, người môi giới chứng khoán giúp các nhà đầu tư chứng khoán tiếp cận
thông tin về thị trường chứng khoán một cách dễ dàng, khả năng lệnh đã đặt
được thực hiện ở mức cao và tiết kiệm các chi phí cho việc đi lại, giao dịch ...
Thứ ba, hoạt động môi giới thương mại giúp nhà nước xây dựng và
hoàn thiện nền kinh tế thị trường công khai, minh bạch.
Thông qua các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước, các hoạt động
môi giới thương mại hoạt động nề nếp, chuyên nghiệp sẽ khiến cho nền kinh
tế hoạt động ổn định, lành mạnh, tránh được các hiện tượng đầu cơ, lũng đoạn
về giá gây tâm lý hoang mang cho người dân, đồng thời dần thay đổi thói
quen kinh doanh thông qua phương thức giao dịch trực tiếp của người dân và
hình thành thói quen giao dịch gián tiếp thông qua phương thức trung gian nói
chung và thông qua hình thức môi giới nói riêng.


16

Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, phương thức kinh doanh
qua môi giới thương mại cũng có những hạn chế nhất định, đặc biệt là việc
bên được môi giới không liên hệ trực tiếp với thị trường mà thông qua bên
môi giới. Vì vậy, việc thực hiện hợp đồng được xác lập giữa bên được môi
giới với bên thứ ba phụ thuộc nhiều vào năng lực, phẩm chất của bên môi
giới. Thực tế có nhiều tranh chấp phát sinh từ hoạt động môi giới thương mại
do bên môi giới tư vấn thiếu trách nhiệm, không có năng lực, kinh nghiệm và
kiến thức chuyên môn dẫn đến thiệt thòi cho khách hàng trong quá trình thực
hiện hợp đồng với bên thứ ba.
1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng môi giới thương mại
1.2.1. Khái niệm hợp đồng môi giới thương mại
Hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực
hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết nhu cầu của mình. Trong hoạt động
môi giới thương mại, các bên thực hiện các hoạt động môi giới thông qua hợp

đồng môi giới. Chúng ta có thể đi từ những đặc tính cơ bản của hợp đồng môi
giới để làm rõ sáng tỏ khái niệm hợp đồng môi giới.
Một là, hợp đồng môi giới thương mại trước hết là hợp đồng thương
mại. Hợp đồng là một khái niệm xuất hiện khá lâu và cũng có khá nhiều khái
niệm về hợp đồng. Ví dụ, Bộ Luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ quy
định “Hợp đồng là sự tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự thỏa
thuận của các bên”, Luật Hợp đồng năm 1999 của Trung Quốc quy định “Hợp
đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự giữa các chủ thể bình đẳng, tự nhiên của các tổ chức” [4].
LTM 2005 không đưa ra khái niệm hợp đồng thương mại nhưng căn cứ
vào khái niệm hoạt động thương mại (khoản 1 Điều 3 LTM năm 2005) và
khái niệm hợp đồng dân sự (Điều 388 BLDS năm 2005) có thể hiểu hợp đồng
thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm


17

dứt các quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện hoạt động thương mại với mục
đích sinh lợi.
Hợp đồng môi giới thương mại là hợp đồng thương mại. Vì vậy, hợp
đồng môi giới thương mại cũng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện hoạt động môi giới
thương mại. Mặc dù được quy định ở nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành
khác nhau nhưng bản chất của hợp đồng môi giới thương mại đều thể hiện ở
mục đích cuối cùng là sinh lợi.
Hai là, hợp đồng môi giới thương mại là hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Nếu như đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa – các sản
phẩm hữu hình thì đối tượng của hợp đồng cung ứng dịch vụ là dịch vụ - các
sản phẩm vô hình, “là những thứ mà khi đem bán không thể rơi vào chân bạn”
[7, tr.6].

LTM 2005 định nghĩa cung ứng dịch vụ tại khoản 9 Điều 3 “Cung ứng
dịch vụ là hoạt động thương mại theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung
ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh
toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán
cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận”. Khái niệm
này đã nhìn nhận cung ứng dịch vụ dưới góc độ là một hoạt động thương mại,
có nghĩa là có ít nhất một bên tham gia có mục đích sinh lợi, mặt khác luật
cũng quy định rõ bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán hay nói cách
khác là trả tiền sử dụng dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Hợp đồng môi giới thương mại cũng là hợp đồng cung ứng dịch vụ
thương mại, có đối tượng là dịch vụ môi giới, gồm hai bên, bên cung ứng dịch
vụ (bên môi giới) và bên sử dụng dịch vụ (bên được môi giới) và ít nhất bên
môi giới phải có mục đích sinh lợi.


18

Từ cách hiểu trên, có thể đưa ra khái niệm hợp đồng môi giới thương
mại như sau: Hợp đồng môi giới thương mại là sự thỏa thuận giữa một bên là
thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và bên được môi giới có nghĩa vụ
trả thù lao cho bên môi giới theo thỏa thuận.
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng môi giới thương mại
Là một hợp đồng dịch vụ thương mại, hợp đồng môi giới thương mại
mang các đặc điểm của hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại nói chung,
ngoài ra hợp đồng môi giới thương mại còn có các đặc điểm riêng:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng môi giới thương mại gồm bên môi giới
và bên được môi giới. Bên môi giới phải là thương nhân, đáp ứng đầy đủ các
điều kiện được quy định tại Điều 6 LTM 2005, các điều kiện thực hiện hoạt

động môi giới thương mại theo các văn bản pháp luật chuyên ngành. Bên môi
giới không nhất thiết phải đăng ký kinh doanh cùng ngành nghề với ngành
nghề kinh doanh của bên được môi giới. Pháp luật hiện hành không quy định
bên được môi giới bắt buộc phải là thương nhân. Khi giao kết và thực hiện
hợp đồng môi giới thương mại, bên môi giới sử dụng danh nghĩa của chính
mình.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng môi giới là công việc môi giới nhằm
kết nối các mối quan hệ giữa các bên với nhau, mục đích cuối cùng là giúp
các bên đi đến ký kết hợp đồng. Công việc môi giới trong từng lĩnh vực môi
giới có sự khác nhau phụ thuộc vào nội dung của từng hoạt động môi giới cụ
thể và theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng môi giới. Các công việc
môi giới theo hợp đồng có thể là tư vấn, tìm kiếm, giới thiệu khách hàng; giúp
khách hàng đàm phán, soạn thảo hợp đồng với bên thứ ba; giúp khách hàng
thực hiện một số giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ... Vì đối tượng


19

của hợp đồng môi giới là dịch vụ môi giới nên khi thực hiện hợp đồng, bên
môi giới cung cấp dịch vụ nhưng không chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ
cho bên được môi giới. Đặc điểm này khác so với hợp đồng mua bán hàng
hóa, khi thực hiện hợp đồng, bên bán hàng chuyển giao quyền sở hữu hàng
hóa cho bên mua.
Thứ ba, mục đích mà bên môi giới hướng tới trong hợp đồng là một
khoản thù lao dịch vụ. LTM 2005 quy định bên môi giới sẽ được hưởng thù
lao môi giới khi thực hiện việc chắp nối các giao dịch thành công. Mục đích
mà bên được môi giới hướng tới trong hợp đồng môi giới là một cơ hội giao
kết hợp đồng với bên thứ ba, qua đó cũng hướng tới mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận trong trường hợp bên được môi giới là thương nhân.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng môi giới là tổng hợp các điều khoản quy

định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng môi giới. Để đảm bảo
nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giao kết hợp đồng, pháp luật thường không có
quy định cụ thể về nội dung của hợp đồng môi giới mà để các bên tự thỏa
thuận dựa trên các quy định chung của pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo tính
chặt chẽ của hợp đồng môi giới và tạo điều kiện thuận lợi cho các bên khi
thực hiện hợp đồng, trong hợp đồng môi giới, các bên sẽ phải thỏa thuận rất
kỹ các nội dung của hợp đồng, đặc biệt là các quy định về quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng môi giới.
Thứ năm, hình thức của hợp đồng môi giới thương mại có thể được xác
lập bằng văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. Tùy từng hợp đồng môi
giới cụ thể, pháp luật có quy định về hình thức của hợp đồng môi giới. Ngoài
ra, cũng giống như các hợp đồng cung ứng dịch vụ khác, trong các lĩnh vực
môi giới thương mại các bên thường sử dụng khá phổ biến hình thức hợp
đồng mẫu, trong đó, bên cung cấp dịch vụ môi giới đã soạn thảo sẵn các điều
khoản của hợp đồng, trên cơ sở đó, nếu bên được môi giới ký vào hợp đồng


20

đồng nghĩa với việc bên được môi giới chấp nhận tất cả các điều khoản trong
hợp đồng.
1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại
1.3.1. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thương mại
Xuất phát từ quan niệm hợp đồng môi giới thương mại là dạng hợp
đồng cung ứng dịch vụ thương mại qua trung gian, trong đó, thương nhân môi
giới đóng vai trò là cầu nối giúp các bên trong đàm phán, giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa, dịch vụ, pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại được
hiểu là một bộ phận của pháp luật hợp đồng điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hoạt động môi giới thương mại.

Ở Việt Nam, pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng môi giới thương
mại được đề cập trong nhiều văn bản như: BLDS 2005, LTM 2005, Luật
Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010, Luật Kinh doanh bất
động sản năm 2006, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2001, sửa đổi, bổ sung
năm 2010, Bộ luật hàng hải năm 2005 ... và trong rất nhiều văn bản dưới luật.
Các văn bản này đã tạo nên một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh quy
định về hợp đồng môi giới thương mại. Ngoài ra, quan hệ hợp đồng môi giới
thương mại có thể còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước ngoài, tập quán
quốc tế và các điều ước quốc tế trong trường hợp ít nhất một bên là cá nhân
hoặc tổ chức nước ngoài thỏa thuận lựa chọn. Chẳng hạn, Bộ luật hàng hải
năm 2005 quy định “các bên tham gia trong hợp đồng liên quan đến hoạt
động hàng hải mà trong đó có ít nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước
ngoài thì có quyền thỏa thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập quán hàng hải
quốc tế trong các quan hệ hợp đồng ...”. Hay Luật Chứng khoán năm 2006
quy định “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng


21

theo quy định của điều ước quốc tế”. Như vậy, nguồn luật điều chỉnh hợp
đồng môi giới thương mại bao gồm: các văn bản pháp luật quốc gia, tập quán
thương mại quốc tế và các điều ước quốc tế. Nguyên tắc xác định thứ bậc văn
bản pháp luật áp dụng điều chỉnh các hoạt động thương mại nói chung và hợp
đồng môi giới thương mại nói riêng được quy định tại Điều 4, Điều 5 của
LTM 2005. Theo đó, mọi hoạt động thương mại phải tuân theo LTM và các
văn bản pháp luật có liên quan, hoạt động thương mại đặc thù được quy định
trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó, hoạt động thương mại không
được quy định trong LTM và trong các luật khác thì áp dụng quy định của
BLDS. Trong trường hợp, quy định của LTM và văn bản pháp luật nước

ngoài, tập quán quốc tế mà các bên lựa chọn áp dụng trái với quy định của
điều ước quốc tế thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
1.3.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại
Pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại là một bộ phận của pháp
luật về hợp đồng nói chung, bởi vậy, nội dung pháp luật về hợp đồng môi
giới thương mại cũng bao gồm các quy định chung như: điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng, các căn cứ chấm dứt hợp đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng... Ngoài ra, pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại còn bao
gồm các nội dung điều chỉnh trực tiếp hoạt động này như: điều kiện, năng lực
chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, hình thức của
hợp đồng và nội dung của hợp đồng.
Pháp luật về hợp đồng môi giới thương mại có thể phân chia theo nhiều
cách, dựa trên những tiêu chí khác nhau:
* Căn cứ vào tính chất của quy phạm pháp luật điều chỉnh có:
- Nhóm quy phạm pháp luật quy định chung về hợp đồng môi giới
thương mại như: nguyên tắc giao kết hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, chế tài do vi phạm hợp đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ


×