Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Những vấn đề pháp lý của việc phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ LÊ THU TRANG

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CỦA VIỆC PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HÀ THỊ MAI HIÊN

HÀ NỘI - 2014





3.1.. Đánh giá chung về tình trạng BLGĐ giữa vợ và chồng

55

3.2. Thực trạng áp dụng pháp luật phòng chống BLGĐ


60

3.3. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả việc áp dụng pháp luật phòng

63

chống BLGĐ giữa vợ và chồng
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật phòng chống BLGĐ giữa vợ và

63

chồng
3.3.2. Xây dựng mạng lưới phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

66

phòng chồng BLGĐ có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương
3.3.3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật về phòng chống

67

BLGĐ giữa vợ và chồng
KẾT LUẬN

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71



1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển phức tạp và biến chuyển không ngừng của xã
hội, bên cạnh sự hòa bình, ổn định, hiện tượng bạo lực đang xảy ra từng ngày, ở nhiều
nơi, với nhiều đối tượng, trong các lĩnh vực khác nhau mà đặc biệt phải kể đến đó là
hiện tượng bạo lực giữa vợ và chồng. Bạo lực gia đình nói chung, BLGĐ giữa vợ và
chồng nói riêng đã và đang trở thành mối quan tâm, sự lo lắng cho toàn xã hội. Bởi mỗi
chúng ta, ai cũng mong muốn có một mái ấm cho riêng mình để được trao và nhận
những yêu thương, để động viên, giúp đỡ nhau trong cuộc sống…
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới việc
phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp liên
quan như: Hiến pháp năm 1992; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính; Pháp lệnh về
Người cao tuổi; Pháp lệnh về Người tàn tật.. và đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình. Những văn bản này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, thực tế áp dụng cho thấy, các quy phạm
pháp luật này chưa thực sự đi vào cuộc sống, sự quan tâm và hiểu biết về lĩnh vực này
chưa đi vào chiều sâu, tình trạng bạo lực giữa vợ và chồng trong gia đình vẫn đang
diễn ra ngày càng phức tạp. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý về
việc phòng, chống BLGĐ giữa vợ và chồng ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số
giải pháp tăng cường hiệu quả việc áp dụng pháp luật phòng, chống BLGĐ giữa vợ và
chồng là vô cùng cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề bạo lực trong gia đình bắt đầu được quan tâm nghiên cứu từ
những năm 90 của thế kỷ XX. Sau Hội nghị quốc tế về bạo lực trên cơ sở giới tổ chức
ở Bali năm 1993 và Hội nghị quốc tế về phụ nữ lần thứ 4 tổ chức tại Bắc Kinh năm



2

1995,“bạo lực trong gia đình” đã được khẳng định là một chủ đề quan trọng trong
nghiên cứu xã hội phục vụ cho công cuộc phát triển.
Trước khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời, những nghiên cứu về pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình thường lồng trong các nghiên cứu về hôn nhân gia
đình. Từ khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời, những nghiên cứu pháp lý về
vấn đề này đã xuất hiện nhiều hơn và có trọng tâm, hệ thống hơn,. Hiện tại có thể kể
tới Luận văn thạc sĩ luật học "Luật phòng chống bạo lực gia đình với việc hạn chế ly
hôn do bạo lực gia đình" của tác giả Nguyễn Thị Lệ (Hà Nội, 2010); Khóa luận tốt
nghiệp "Tìm hiểu hành vi bạo lực gia đình - nguyên nhân, giải pháp hạn chế" của tác
giả Nguyễn Thị Bình (Hà Nội, 2010), “Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Hồng Minh (Hà Nội, 2011)…. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về các quy định của Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng.và đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật phòng, chống BLGĐ giữa vợ và chồng. Chính vì vậy, tôi chọn
đề tài “Những vấn đề pháp lý về việc phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
ở Việt nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Tính mới của đề tài
Đề tài “Những vấn đề pháp lý về việc phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và
chồng ở Việt nam hiện nay” tập trung đi vào nghiên cứu những quy định về phòng,
chống BLGĐ giữa vợ và chồng trong Luật phòng, chống BLGĐ của Việt Nam, bên
cạnh đó có tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vấn đề này. Từ
đó, xem xét thực trạng bạo lực giữa vợ và chồng trong gia đình và thực trạng áp dụng
pháp luật về phòng, chống BLGĐ giữa vợ và chồng ở Việt Nam trong thời gian qua để
đưa ra kiến nghị về một số giải pháp pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo
lực trên thực tế.
4. Mục đích, phạm vi nghiên cứu



3

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu các quy định của pháp luật về bạo
lực gia đình giữa vợ và chồng hiện nay, xem xét thực trạng áp dụng pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình gữa vợ và chồng để tìm ra một số giải pháp pháp lý
nhằm phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả hành vi này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào các quy định của Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, có xem xét tới các quy định có liên quan
trong các văn bản pháp luật khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được tác giả sử dụng khi nghiên cứu đề tài bao gồm: quy
nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp. so sánh, …
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn gồm 3
chương:
Chương 1: Khái quát vấn đề bạo lực gia đình giữa vợ và chồng và điều chỉnh
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
Chương 2 Thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và
chồng
Chương 3: Thực trạng bạo lực gia đình giữa vợ và chồng và một số giải pháp
tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và
chồng ở Việt Nam hiện nay.


4

Chương 1
KHÁI QUÁT VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA VỢ VÀ CHỒNG VÀ
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA

VỢ VÀ CHỒNG
1.1 Khái niệm bạo lực gia đình, bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
1.1.1 Khái niệm bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình luôn là vấn đề thời sự của cuộc sống, từ lâu là mối quan tâm
của tất cả các quốc gia trên thế giới. Bởi lẽ bạo lực gia đình trực tiếp xâm hại đến
quyền con người của chính những người có quan hệ thân thuộc, gần gũi với nhau hàng
ngày; là nguy cơ thường trực ảnh hưởng đến quyền sống , phẩm giá và danh dự, sức
khỏe, làm băng hoại đạo đức gia đình và xã hội. Trên thế giới có nhiều quan niệm về
bạo lực gia đình. Để có thể phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu quả cần có sự nhận
thức đúng về bạo lực gia đình.
Trong Tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “ sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn
áp hoặc lật đổ” [13, tr41]. Với giải thích này, bạo lực thường được hiểu theo nghĩa là
phương thức thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền và thiên về sử dụng sức
mạnh vật chất.
 Nhìn từ góc độ giới:
Trong tuyên bố về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ năm 1993 đã được định
nghĩa khá đầy đủ về bạo lực gia đình đối với phụ nữ: “Bạo lực đối với phụ nữ có nghĩa
là mọi hành vi bạo lực trên cơ sở giới tính dẫn đến hoặc có thể dẫn đến sự xâm hại về
thể chất, tình dục hoặc tâm lý hoặc sự đau khổ cho phụ nữ, kể cả việc đe dọa có những
hành vi như vậy, việc cưỡng đoạt hoặc tước đoạt vô cớ tự do của phụ nữ, cho dù diễn
ra trong đời sống công cộng hoặc đời sống riêng tư”. Có thể nói, Tuyên bố dù không
phải là điều ước có tính ràng buộc về mặt pháp lý nhưng đây là văn kiện quốc tế đầu
tiên cho rằng các quốc gia cần có nghĩa vụ ngăn ngừa nạn bạo lực gia đình.
Công ước CEDAW về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ đã xây dựng được khái niệm khá đầy đủ và toàn diện về phân biệt đối xử với


5

phụ nữ: “Bạo lực giới là hành vi nhằm gây áp lực hoặc nhằm điều khiển một người

phụ nữ một cách không chính đáng. Nó bao gồm những hành hạ về thể chất, tinh thần
hoặc gây tổn thương hay đau đớn về tình dục, việc đe doạ gây ra những hành động
như vậy, sự cưỡng chế và tước đoạt các tự do khác...”.
Theo tinh thần của Luật bình đẳng giới 2006 thì bạo lực gia đình còn được hiểu
là sự phân biệt đối xử dưới bất cứ hình thức nào trên cơ sở gây tổn hại hoặc có nguy cơ
gây tổn hại đến quyền, lợi ích về mọi mặt, mọi lĩnh vực…
Như vậy,từ góc độ giới, có thể hiểu bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi nào của
các thành viên gia đình đối với nhau trên cơ sở giới tính, được biểu hiện dưới những
hình thức nhất định, có khả năng gây ra hoặc đe doạ gây ra những tổn hại nhất định về
thể chất, tinh thần, kinh tế, tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do của các thành viên khác
trong gia đình.
 Nhìn từ góc độ pháp luật
Theo Luật mẫu về bạo lực gia đình của Uỷ ban nhân quyền của Liên Hợp Quốc
ngày 02/ 02/ 1996 :"Bạo lực gia đình là tất cả các hành vi lạm dụng thể chất, tinh thần,
tình dục dựa trên cơ sở giới đối với một thành viên, một người phụ nữ trong gia đình,
từ hành vi đánh đập giản đơn đến gây thương tích nặng, bắt cóc, đe doạ, doạ dẫm,
cưỡng bức, quấy rối,lăng nhục bằng lời nói, dùng vũ lực để vào nhà trái pháp luật,
phóng hoả, huỷ hoại tài sản,bạo lực tình dục, hiếp dâm trong hôn nhân, bạo lực liên
quan đến thách cưới hoặc của hồi môn, cắt bộ phận sinh dục nữ, bạo lực liên quan đến
bóc lột mại dâm, bạo lực đối với người giúp việc trong gia đình...".
Mặt khác, theo quy định tại Khoản 2, Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình năm 2007- bạo lực gia đình được hiểu là “hành vi cố ý của thành viên gia đình
gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về vật chất, tinh thần, kinh tế đối với thành
viên khác trong gia đình”. Như vậy, hành vi bạo lực gia đình được giới hạn bởi các
chủ thể là thành viên của gia đình – “tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn
nhân, huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
với nhau…”(khoản 10 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) khi họ thực hiện


6


hành vi với lỗi cố ý gây tổn hại hay đe doạ gây tổn hại về mọi mặt trong đời sống của
nạn nhân.
Có thể thấy rằng bạo lực gia đình là hành vi trái pháp luật, nó xâm phạm đến
nhân quyền bao gồm quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng. Mỗi khi
bạo lực gia đình xảy ra đều xâm hại tới một trong các quyền vốn có của mỗi người. Đó
là: quyền tự do, bình đẳng, quyền sống, quyền an toàn về thân thể, quyền được tôn
trọng về tư tưởng, nhân cách… Điều này trái với mong ước của nhân loại, bởi: “Tất cả
mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và nhân quyền. Mọi
người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau bằng
tình bằng hữu” (Điều 1, Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948).
Những nội dung này cũng đã được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam và nhiều văn
bản pháp luật quốc tế. Bởi vậy, việc xâm phạm nhân quyền thông qua hành vi bạo lực
gia đình là sự vi phạm pháp luật và bị pháp luật, cộng đồng lên án.
Dù có nhiều định nghĩa về bạo lực gia đình nhưng khi xem xét hành vi bạo lực
gia đình có thể thấy các đặc điểm sau:
- Trước tiên, đó là hành vi trái pháp luật
- Thứ hai, hành vi đó được thực hiện do “lỗi cố ý” của người là thành viên của gia
đình;
- Thứ ba, hành vi cố ý đó gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về vật chất,tinh
thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
- Thứ tư, người bị tổn hại là thành viên gia đình, đó là những người có quan hệ hôn
nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người thực hiện hành vi bạo lực.
Nhưng, cũng theo quy định tại khoản 2, Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
thì hành vi bạo lực gia đình cũng được áp dụng đối với các thành viên của gia đình khi
đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của luật đối với các trường hợp này không nhằm
mục đích khuyến khích hoặc tạo cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa những người
không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng; mà ở đây cần phải hiểu



7

quy định như vậy có ý nghĩa bảo đảm cho tất cả nạn nhân của bạo lực gia đình đều
được hỗ trợ và bảo vệ.
1.1.2 Bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
Bạo lực trong gia đình diễn ra dưới nhiều hình thức và giữa các thành viên
khác nhau trong gia đình, và dạng bạo lực gia đình điển hình, phổ biến và nhận được
nhiều sự quan tâm và lo lắng của mọi thành viên trong xã hội đó chính là bạo lực giữa
vợ và chồng.
Trong Luật phòng chống bạo lực gia đình không có định nghĩa cụ thể về bạo
lực gia đình giữa vợ và chồng, nhưng dựa vào định nghĩa bạo lực gia đình nói chung có
thể thấy rằng bạo lực gia đình giữa vợ và chồng là hành vi cố ý của một hoặc hai bên
vợ chồng gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về vật chất, tinh thần, kinh tế cho
bên đối phương là vợ hoặc chồng của mình, hoặc đã từng là vợ, chồng của nhau. Ở
đây, phạm vi chủ thể của hành vi bạo lực là giữa vợ và chồng, về bản chất hành vi bạo
lực được hiểu như thuật ngữ bạo lực giữa các thành viên trong gia đình - đó là hành vi
trái pháp luật, gây tổn hại về vật chất, tinh thần, kinh tế cho người còn lại.
Trên thực tế, quan niệm về bạo lực gia đình của đa số người dân Việt Nam là
hành vi dùng sức mạnh vật chất với đối phương và để lại những hậu quả nghiêm trọng
về vật chất và tinh thần. Do đó, nhiều hành vi bạo lực gia đình chưa được nhận thức và
xử lý kịp thời như: hành vi đánh vợ không để lại thương tích, ép vợ quan hệ tình dục,
bắt vợ ở nhà không cho vợ đi làm,…thường không được coi là bạo lực và những nạn
nhân đó vẫn thường xuyên nhẫn nhịn, cam chịu cách đối xử này. Đã đến lúc phải thay
đổi quan niệm của mỗi người về bạo lực gia đình để có thể bảo vệ, giúp đỡ hiệu quả
những nạn nhân của vấn nạn này.
Qua những phân tích trên đây, có thể thấy rằng dưới góc độ pháp lý bạo lực gia
đình giữa vợ và chồng là một chế định pháp luật gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành nhằm ngăn ngừa, xử lý và đi đến xoá bỏ hành vi bạo lực giữa
vợ và chồng để hướng tới xây dựng một môi trường ổn định, hạnh phúc.

1.2 Các dạng bạo lực gia đình giữa vợ và chồng


8

Qua những tìm hiểu thực tế về nạn bạo lực gia đình, các nhà nghiên cứu đã
nhóm các hành vi bạo lực gia đình ( tại Điều 2, Luật phòng, chống bạo lực gia đình
năm 2007 ) thành các hình thức bạo lực: bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo
lực về tình dục và bạo lực về kinh tế. Với mỗi hình thức bạo lực, do những đặc điểm
khác nhau của các hành vi bạo lực nên có sự khác biệt trong quan niệm và xu hướng
thực hiện bạo lực giữa vợ và chồng.
1.2.1 Bạo lực về thể chất
Bạo lực thể chất bao gồm hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố
ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng.
Cụ thể, bạo lực thân thể là những hành vi bạo lực mà người người gây ra bạo
lực thường sử dụng sức mạnh cơ bắp (tay, chân) hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí) gây
nên sự đau đớn về thân thể. Bạo lực thể chất còn bao gồm cả việc ngăn cấm đối
phương tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn cấm họ không
được tiếp cận với nhu cầu thiết yếu của đời sống như: ăn, ngủ, nghỉ…
Thực tế cho thấy, bạo lực trong gia đình nhất là bạo lực đối với phụ nữ đã và
đang trở thành phổ biến. Nạn nhân của bạo lực gia đình giữa vợ chồng người vợ chiếm
đa số- không chỉ những người phụ nữ có trình độ văn hóa thấp mà cả những người có
trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị xã hội cũng là nạn nhân của nạn bạo lực gia
đình. Nhìn chung, bạo lực về thể chất đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn ở thành thị.
Bạo lực thể chất để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nạn nhân. Có những
trường hợp người vợ bị người chồng đánh đập phải mang thương tật suốt đời. Theo
nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2005 tại 13 tỉnh và thành phố về
bạo lực gia đình với 4175 người (trong đó 53,3% là phụ nữ) cho thấy: gần 6% phụ nữ
trả lời họ đã bị chồng đánh, trong khi đó chỉ có 0,5% phụ nữ thừa nhận họ đã từng
đánh chồng; số nam giới được phỏng vấn trả lời đã từng đánh vợ là 4,6% và 0,7% thú

nhận họ đã từng bị vợ đánh [10]. Qua những số liệu trên đây, một lần nữa cho thấy
trong hình thức bạo lực về thể chất, người vợ là nạn nhân chủ yếu. Điều này xuất phát
từ thực tế: nam giới có sức mạnh thể chất chiếm ưu thế hơn phái nữ. Phụ nữ với thể lực


9

hạn chế cùng tâm lý nhẫn nhịn nên thường gánh chịu hậu quả của bạo lực do chính
chồng mình gây ra. Có trường hợp, người vợ phản ứng lại một cách yếu ớt như bỏ trốn,
im lặng… cá biệt có người phụ nữ phản ứng bằng cách đánh trả - đây thông thường là
những hành động tự vệ mà chúng có thể để lại hậu quả nghiêm trọng cho người chồng
mặc dù trên thực tế chúng chiếm một tỷ lệ không lớn (trong các vụ bạo lực do người vợ
thực hiện).
1.2.2 Bạo lực về tinh thần
Bạo lực về tinh thần: bao gồm các hành vi lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc
phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý
gây hậu quả nghiêm trọng; ngăn cản vợ/chồng thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ
gia đình, hành vi trái pháp luật buộc người kia phải ra khỏi chỗ ở…
Với bạo lực về thể xác, nỗi đau hiện rõ nên cơ thể nạn nhân còn vết thương về
tinh thần nông hay sâu thì không ai có thể đo được. Bạo lực tinh thần từng ngày thấm
dần ý chí nạn nhân, dễ dẫn đến tình trạng căng thẳng thần kinh, tâm thần thể nhẹ, thậm
chí hậu quả đau lòng nhất là có nhiều người quá bế tắc mà tìm đến cái chết. Nếu như
những vết thương tích trên cơ thể người phụ nữ do chồng đánh đập theo thời gian sẽ
mờ dần thì bạo lực tinh thần lại là vết thương khó lành, thậm chí càng theo thời gian nó
lại càng hằn sâu trong tâm can người phụ nữ.
Trong nhiều trường hợp khi bị chồng có hành vi bạo lực về thể chất, người vợ
chọn cách đáp trả bằng bạo lực về tinh thần (dùng lời lẽ thách thức, lăng mạ, đay
nghiến chồng…) và kết quả là người chồng không chịu đựng được nên đã sử dụng sức
mạnh thể chất… Cứ như thế, một vòng luẩn quẩn các hành vi bạo lực giữa vợ và chồng
xảy ra mà hậu quả thuộc về những người trong cuộc.

Thực tế cho thấy, bạo lực tinh thần dễ dẫn đến sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Bạo lực tinh thần phổ biến ở thành phố, nhất là những gia đình trí thức, nhiều cặp vợ
chồng tuy sống chung một mái nhà nhưng họ lại không có “đời sống chung vợ chồng”trường hợp họ đã “ly thân”.


10

Nói về bạo lực gia đình phần lớn thường đề cập đến bạo lực chống lại phụ nữ.
Tuy nhiên, theo thống kê cũng cho thấy số vụ bạo lực của vợ đối với chồng trong thời
gian gần đây cũng tăng lên nhanh chóng. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ
bình đẳng giới. Trong xã hội hiện đại, vai trò của người phụ nữ ngày càng được khẳng
định, ngày càng có nhiều phụ nữ nắm kinh tế trong gia đình, do vậy họ ngày càng nắm
quyền chi phối các hoạt động khác trong gia đình. Mặt khác, có những gia đình do
người đàn ông quá hiền lành, nhu nhược, thua kém vợ về nhiều mặt nên luôn bị vợ lấn
át, trở thành nạn nhân của bạo lực đặc biệt là bạo lực về tinh thần. Phần lớn khi người
chồng trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình đều không có cách đối phó lại với vợ
giống như phụ nữ thường làm khi bị chồng hành hạ, đánh đập như là kêu cứu, chạy đi
tìm người giúp đỡ, báo cảnh sát…Lý do có thể vì họ nghĩ mình có thể chống đỡ lại
được, phần vì họ ngại để lộ cho hàng xóm, bạn bè, người thân biết vì họ là “đại trượng
phu”, là“đấng mày râu”.
Như vậy, không phải chỉ người vợ mới là nạn nhân của các loại bạo lực gia
đình mà một bộ phận nam giới cũng là nạn nhân. Nhưng dù là người vợ hay người
chồng trở thành nạn nhân thì bạo lực trong xã hội đã và đang là vấn đề bị xã hội lên án
vì hậu quả mà nó mang lại - nguyên nhân của các cuộc ly hôn, gia đình tan nát, hạnh
phúc bị rạn nứt, con cái bơ vơ…
1.2.3 Bạo lực về kinh tế
Trong thời gian gần đây, hình thức bạo lực được nhắc tới nhiều hơn trước là
hình thức bạo lực về kinh tế. Hình thức bạo lực này được thể hiện qua các hoạt động
như chiếm đoạt, huỷ hoại tài sản riêng hoặc tài sản chung của các thành viên trong gia
đình, cưỡng ép lao động quá sức, cưỡng ép đóng góp tài chính quá khả năng của một

người, kiểm soát thu nhập… Trong quan hệ giữa vợ và chồng, các hành vi đó không dễ
dàng được nhận biết là biểu hiện của bạo lực về kinh tế - lao động vì trong nhiều
trường hợp, nó trùng với những hoạt động tổ chức đời sống sinh hoạt gia đình. Tuy
nhiên, khi những đòi hỏi về tài chính, lao động vượt quá khả năng của một bên vợ hoặc
chồng thì nó đã gây ra một áp lực và tạo những căng thẳng nhất định trong quan hệ gia


11

đình. Đó chính là biểu hiện của hậu quả từ hình thức bạo lực về kinh tế - lao động,
đồng thời là cơ sở tạo ra những hình thức bạo lực khác.
Ở hình thức bạo lực về kinh tế, người vợ thường có hành vi kiểm soát thu nhập
của người chồng, cưỡng ép chồng đóng góp với một mức tiền nhất định, trong khi đó,
người chồng lại có hành vi ép buộc vợ lao động quá sức bằng cách mặc định công việc
nhà, chăm sóc con cái… thuộc về người phụ nữ. Cụ thể,trên thực tế, có rất nhiều
trường hợp vợ hoặc chồng mỗi khi muốn chi tiêu cái gì đó thì đều phải được sự đồng ý
của người kia, thậm chí còn bắt người vợ hoặc người chồng phải ghi chi tiết những
khoản chi tiêu hàng tháng để mình kiểm tra. Và cũng không khó để bắt gặp cảnh người
vợ tần tảo, chịu thương chịu khó làm ăn kiếm tiền, trong khi người chồng chỉ ở nhà
rượu chè, rồi cờ bạc, bắt vợ làm việc quá sức để kiếm tiền đáp ứng nhu cầu của mình,
nếu không được thì quay ra nhiếc móc, đập phá tài sản, thậm chí còn đánh vợ; nhưng
cũng có trường hợp người chồng vất vả đi làm còn vợ chỉ ở nhà tiêu sài những đồng
tiền chồng làm ra một cách hoang phí, vì riêng lợi ích bản thân mình. Cuộc khảo sát
của Hội liên hiệp phụ nữ Viêt Nam năm 2001 đã có 44,6% phụ nữ bị chồng cấm vận về
kinh tế vì cho rằng vợ ăn tiêu hoang phí.
Như vậy, có thể thấy vấn đề bạo lực kinh tế trong gia đình cũng đang diễn ra
khá phổ biến và được biểu hiện dưới nhiều cung bậc khác nhau thông qua các quan
niệm. trong thực tiễn, bạo lực kinh tế thường không diễn ra một cách độc lập mà còn
công thêm các dạng bạo lực khác.
1.2.4 Bạo lực tình dục

Theo báo gia đình và xã hội năm 2005 số 160 “Bạo lực tình dục là cưỡng ép
buộc phụ nữ phải làm những việc liên quan đến tình dục trái với mong muốn của họ,
bàn luận về những bộ phận trên cơ thể phụ nữ, cưỡng hiếp, giam cầm và sử dụng công
cụ tình dục, xem phụ nữ chỉ như một đối tượng tình dục, ép phụ nữ phải quan hệ tình
dục hoặc bắt phải xem các hình ảnh khiêu dâm mà người phụ nữ không muốn hoặc ép
phải quan hệ tình dục khi đã bị đánh đập, cố tình gây đau đớn hoặc tổn hại cho họ
trong quá trình quan hệ tình dục”.


12

Trong đời sống vợ chồng ở nhiều gia đình, hôn nhân được hiểu như là sự cho
phép người đàn ông tiếp cận tình dục với người vợ vô điều kiện và họ có sức mạnh để
củng cố sự tiếp cận này thông qua cưỡng bức nếu thấy cần thiết. Thực tế cho thấy,
không ít phụ nữ khi không muốn quan hệ với chồng đã bị chì chiết, chửi mắng thậm tệ,
thậm chí bị trói vào cột nhà để hãm hiếp. Khi bị bạo hành về tình dục đã khiến người
phụ nữ có cảm giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng, dần dần sẽ
tạo tâm lý sợ hãi, ngại gần gũi với chồng. Trong quan hệ “phòng the” lẽ ra người phụ
nữ cũng có quyền được trả lời, được bày tỏ ý kiến,được tôn trọng thì trái lại ho lại bị
tước đi quyền làm vợ- quyền được nâng niu, chiều chuộng và được yêu thương. Theo
thống kê của Trung tâm nghiên cứu về Giới, Gia đình, Phụ nữ và Vị thành niên thì
trong hơn 30.000 cuộc gọi điện thoại nhờ Trung tâm tư vấn có liên quan đến bạo lực
gia đình thì có gần 2000 cuộc liên quan đến bạo lực tình dục (Gia đình và xã hội, số
160 ra ngày 6/10/2005). Bạo lực tình dục đang ngày càng trở nên phổ biến ở nông thôn
và thành thị. Tuy nhiên, có nhiều người phụ nữ nói chung, thậm chí cả những người
phụ nữ là nạn nhân của dạng bạo lực này cũng không hề biết họ đang bị bạo lực tình
dục, nhiều người còn rất ngạc nhiên. Có lẽ, bạo lực tình dục còn là vấn đề khá mới mẻ
đối với nhiều phụ nữ trong xã hội hiện nay.
Dạng bạo lực này không chỉ gây đau đớn về mặt thể xác đối với phụ nữ mà còn
gây hậu quả nghiêm trọng về mặt tinh thần, trở thành nỗi kinh hoàng trong đêm của

nhiều phụ nữ.
Tuy nhiên, trong nhóm bạo lực này người vợ là nạn nhân chủ yếu nhưng không
phải duy nhất. Có những gia đình, người vợ độc đoán, không cảm thông, quan tâm đến
chồng, có khi nhận thấy chồng không muốn quan hệ tình dục mà vẫn cố bắt ép…
Có thể thấy rằng, 4 nhóm hay bốn dạng bạo lực kể trên không đứng hoàn toàn
độc lập mà đều có mối liên hệ với nhau, trong nhiều trường hợp còn chuyển hóa cho
nhau. Ví dụ: trong dạng bạo lực tình dục, thường đi kèm với bạo lực thể xác (dùng sức
mạnh cưỡng ép quan hệ tình dục khi chồng hoặc vợ mình không muốn…), còn có thể
đi kèm bạo lực tinh thần (đó là sự sợ hãi, ám ảnh…).


13

1.3 Cơ sở xã hội của bạo lực giữa vợ và chồng
1.3.1 Phong tục, tập quán lạc hậu
Nước ta là nước Á Đông, hơn nữa lại là nước có chế độ phong kiến tồn tại lâu
đời với tư tưởng gia trưởng còn nặng nề, chi phối cách xử sự của người dân. Hệ tư
tưởng nam trị và các quan hệ thống trị- phụ thuộc đã ăn sâu vào tư tưởng của người
dân, nó bắt nguồn từ cội rễ sâu xa trong mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ.
Tính gia trưởng được chấp nhận trong gia đình và ngoài xã hội đã tạo ra vị trí đặc biệt
cho những người đàn ông trong gia đình: họ có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng trong gia đình, thậm chí có quyền “dạy vợ”…
Đi cùng với đó là tư tưởng “nhà nào biết nhà đấy”, “vợ chồng đóng cửa bảo
nhau” nên những việc trong gia đình thì những người khác thường không muốn can
thiệp vào. Đây là một yếu tố gây ra sự khó khăn rất lớn đối với công tác phòng chống
bạo lực gia đình nói chung và bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những truyền thống tốt đẹp của ông cha để
lại: vợ chồng đồng cam cộng khổ, yêu thương nhau, “phu thê

cung kính như


khách”…Ngày nay nên tiếp tục phát huy những tư tưởng tiến bộ và áp dụng nó phù
hợp với xã hội hiện nay sẽ góp phần rất lớn vào công cuộc phòng, chống bạo lực gia
đình.
1.3.2 Lệch chuẩn về nhận thức và định kiến về giới
Một nguyên nhân tác động tới tâm lý của người chồng trong ứng xử với vợ đó là
do còn tồn tại định kiến về giới trong xã hội. Đó là “nhận thức, thái độ và đánh giá
thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ” (Khoản
4, Điều 5, Luật Bình đẳng giới năm 2006). Do những định kiến này mà vị thế, vai trò,
giá trị của người phụ nữ chưa được công nhận đúng mức, dẫn tới việc đối xử bất công
với người phụ nữ trong cả gia đình và ngoài xã hội. Những quan niệm sai lệch về trình
độ học vấn, đạo đức của người phụ nữ, quyền lực của người đàn ông trong gia đình…
đã hạn chế sự phát triển của người phụ nữ, không cho họ cơ hội bình đẳng với nam giới


14

để học tập hay lên tiếng bảo vệ bản thân khi bị bạo lực từ phía chồng. Điều này cũng là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi bạo lực với người phụ nữ trong gia đình.
1.3.3 Điều kiện kinh tế xã hội
Điều kiện kinh tế xã hội luôn là yếu tố tác động mạnh mẽ đến các mối quan hệ
trong gia đình và ngoài xã hội. Sự biến đổi của kinh tế thị trường có ảnh hưởng rất lớn
đến vấn đề bạo lực gia đình. Theo nhiều nghiên cứu thì nguyên nhân về kinh tế chiếm
tỷ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình. Khi kinh tế khó khăn thì
mỗi người trong gia đình đều phải lo lắng đến miến cơm manh áo, điều đó làm cho họ
cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng, dễ nổi cáu…Việc thiếu thốn về vật chất khiến không ít
cặp vợ chồng trở nên lục đục, không quan tâm đến nhau, và chính bản thân người vợ,
người chồng cũng không có điều kiện giao lưu, học hỏi, tiếp cận tới những tri thức tiến
bộ dẫn tới việc không định hướng được cách ứng xử trong gia đình, khiến tình trạng
bạo lực gia đình càng dễ xảy ra hơn.

Mặt khác, khi điều kiện kinh tế khá giá, cuộc sống được cải thiện thì không ít
người đã thay đổi thái độ đối với các thành viên khác trong gia đình. Nhiều cặp vợ
chồng lúc khó khăn thì yêu thương, hòa thuận với nhau, nhưng khi đã có của ăn, của để
thì lại bất hòa. Có những ông chồng làm ra của cải vật chất là chính trong gia đình, họ
có thái độ coi thường vợ, nghĩ vợ là người ăn bám, cho mình là người chủ quyết định
mọi vấn đề lớn nhỏ trong gia đình. Ngược lại, nếu người vợ là trụ cột nuôi sống gia
đình, thì người chồng lại sợ mình bị coi thường, sợ cái uy của mình bị giảm sút, vai trò
của mình bị lu mờ nên đã sử dụng hành vi bạo lực đối với vợ minh nhằm ra oai, hy
vọng cứu vãn được “uy quyền” của mình.
1.3.4 Trình độ dân trí và ý thức pháp luật
Trình độ dân trí đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống bạo lực gia
đình. Bởi lẽ, những yếu tố là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình như phong tục tập
quán, tâm lý, định kiến giới…đã làm cho người có hành vi bạo lực , nạn nhân và những
người xung quanh, thậm chí là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho rằng hành vi đó là
đúng, và không phải chịu bất kì trách nhiệm nào. Điều này chỉ xảy ra khi trình độ dân


15

trí còn thấp, bởi nếu như trình độ dân trí được nâng cao, vị trí của gia đình và mỗi
thành viên được khẳng định, nạn nhân sẽ hiểu rõ quyền của mình và có thể áp dụng
những biện pháp tự bảo vệ khi cần thiết; người có hành vi bạo lực biết tính chất sai trái
của hanh vi và hậu quả có thể phải gánh chịu; những người xung quanh, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khi biết được quyền và nghĩa vụ của mình sẽ tham gia phòng
chống bạo lực gia đình chủ động hơn, tích cực hơn.
1.3.5 Yếu tố văn hóa tâm sinh lý cá nhân
Tâm lý của mỗi cặp vợ chồng hiện nay nói chung là vẫn đề cao vai trò tự chủ cả
đàn ông trong gia đình. Điều này đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều thế hệ người Việt
Nam. Nếu như, người vợ đánh chồng, có hành vi bạo lực đối với chồng thì bị coi là
hành vi xấu, bị cả xã hội nên án, nhưng chồng đánh vợ thì dường như nó là lẽ thường

tình, thậm chí còn được coi là “biết dạy vợ”…Mặt khác, với người đàn ông, việc sử
dụng sức mạnh thể chất để khẳng định mình đã là lẽ thường tình, là một điều không thể
thiếu. Hơn nữa, sự kiềm chế của đàn ông không bằng phụ nữ, khi hai vợ chồng xuất
hiện mâu thuẫn, thì người chồng rất dễ “động tay động chân”.
Một điều đáng nói nữa là, phụ nữ thường hay nói nhiều, khi phát sinh mâu
thuẫn, tuy không như đàn ông dùng cơ bắp, nhưng sự đay nghiến, chì chiết chồng đôi
khi còn là vũ khí lợi hại hơn nhiều. Tưởng chừng như sự đay nghiến, dày vò bằng ngôn
ngữ của người vợ là bình thường nhưng họ không hề biết đó cũng chính là hành vi bạo
lực, gây tổn thương về tinh thần cho người chồng.
1.3.6 Yếu tố văn hóa xã hội
Hiện nay, nước ta đang ở trong thời kì hội nhập toàn cầu, kéo theo đó là trong
xã hội tồn tại một số tư tưởng thiếu lành mạnh, những quan niệm và hành vi không
đúng đắn về tình yêu, tình dục, hôn nhân và gia đình. Hàng ngày trên các phương tiện
thông tin đại chúng và mạng internet ở tất cả các quốc gia lối sống thực dụng, đề cao,
coi trọng cá nhân, “coi tiền là tất cả”, chối bỏ các chuẩn mực tốt đẹp của gia đình trong
bối cảnh nền kinh tế thị trường đã và đang diễn ra một cách phổ biến. Và trong mối
quan hệ vợ chồng thời nay, cách thể hiện tình cảm, sự yêu thương, hy sinh dành cho


16

nhau ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó, còn chưa kể tới
tình trạng một bộ phận giới trẻ chỉ sống trong thế giới ảo, những mối quan hệ ảo trên
Internet mà quên đi cuộc sống thực đang tồn tại. Chính điều này làm cho đời sống gia
đình hiện nay ẩn chứa nhiều mâu thuẫn với mức độ ngày càng phức tạp và diễn biến
dưới nhiều hình thức. Tình trạng ngoại tình, kết hôn bất hợp lý, bạo lực gia đình, ly
thân, ly hôn; các kiểu sống gia đình lệch lạc so với lối sống truyền thống đang nảy sinh
và trở thành vấn đề xã hội nan giải mà hậu quả của nó để lại nhiều tiêu cực đối với việc
ổn định thiết chế gia đình.
1.4 Hậu quả của hành vi bạo lực gia đình đình giữa vợ và chồng

Bạo lực gia đình nói chung, bạo lực gia đình giữa vợ, chồng nói riêng để lại
nhiều hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho cá nhân, gia đình của họ mà còn ảnh hưởng
tiêu cực cho xã hội và cản trở sự phát triển của xã hội. Hậu quả của nó có thể tiếp cận
dưới góc độ xã hội và góc độ pháp luật.
1.4.1 Hậu quả về mặt xã hội
- Đối với cá nhân: vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ đã để lại nhiều hậu quả xấu cho nạn nhân, họ bị xâm phạm nghiêm trọng các
quyền con người, không chỉ phải chịu nỗi đau đớn về thể xác (ảnh hưởng đến sức khoẻ,
gây đau đớn, thương tích, thậm chí còn dẫn đến tử vong) mà còn chịu nỗi đau đớn về
tinh thần (nạn nhân phải sống trong sự đau khổ, lo sợ, bất an, dễ mắc bệnh trầm
cảm…). Tuy nhiên, còn phải kể đến hậu quả mà chính những người gây ra bạo lực
gánh chịu- đó là sự dằn vặt, ân hận sau những hành vi do sự nóng nảy, tức thời; đồng
thời cũng phải gánh chịu sự mất mát tài sản vì ài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản
chung hợp nhất của vợ chồng.
-Đối với gia đình: vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và
chồng sẽ ảnh hưởng xấu tới cuộc sống gia đình (khiến nhiều gia đình tan nát, ly thân,
ly hôn…), và những thành viên khác- mà trong đó không thể không nhắc tới là những
đứa con. Chúng phải chịu sự tác động xấu tới sự phát triển cả về thể chất, tinh thần,
đạo đức và trí tuệ. Những nghiên cứu gần đây nhất đã chỉ ra rằng, bạo lực gia đình


17

khiến trẻ em khủng hoảng, sợ hãi, thất vọng, rỗi nhiễu tâm lý, trầm cảm và là một trong
những nguyên nhân làm gia tăng bạo lực học đường, tăng trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ
em lang thang, cơ nhỡ.
- Đối với xã hội: Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ làm mất ổn định trật tự xã hội, gây bức xúc trong nhân dân đồng thời tác động xấu
đến nhiều mặt của xã hội. Trước hết là gây gánh nặng cho hệ thống y tế của xã hội bởi
vì nhiều nạn nhân của bạo lực gia đình đã phải đến điều trị tại các cơ sở y tế, điều này

làm tăng số bệnh nhân cho các dịch vụ y tế. Tiếp đó, vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình giữa vợ và chồng tác động tiêu cực đến lực lượng lao động: làm giảm
chất lượng của lực lượng lao động trong xã hội đồng thời làm cho nạn nhân lâm vào
những hoàn cảnh khó khăn.
Ngoài ra, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
còn làm nảy sinh vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực khác trong xã hội, đó là sự gia
tăng thêm trẻ em lang thang, trẻ em vi phạm pháp luật, nạn nhân bị nhiễm HIV và các
loại bệnh tình dục... Điều này đã đặt gánh nặng lên hệ thống bảo trợ xã hội
Như vậy, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã gây ra
nhiều hậu quả cho xã hội, tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
1.4.2 Hậu quả về pháp luật
Vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm pháp luật về phòng, chống BLGĐ giữa
vợ và chồng nói riêng đều là những hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội. Tuy
nhiên các loại hành vi này lại có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Căn cứ vào
tính chất và mức độ vi phạm mà người có hành vi vi phạm pháp luật bị áp dụng các
biện pháp xử lý với các loại chế tài khác nhau: có thể là chế tài hành chính, dân sự,
hình sự. Cụ thể:
- Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): được định nghĩa tại điều 8, BLHS nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam năm 1999 : "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện


18

một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa".
- Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý

hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước nhưng không phải là tội phạm hình
sự và theo quy định của pháp luật, phải bị xử phạt hành chính.
- Vi phạm pháp luật dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới
những quan hệ tài sản và những quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản và nhân thân
trong lĩnh vực hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
Như vậy, trong trường hợp vợ-chồng có hành vi BLGĐ đáp ứng đầy đủ điều
kiện cấu thành tội phạm thì sẽ chịu sự áp dụng của chế tài hình sự, nếu hành vi đó xâm
phạm quy tắc quản lý nhà nước nhưng không phải tội phạm thì bị xử phạt hành chính,
và nếu hành vi BLGĐ giữa vợ và chồng xâm hại tới quan hệ tài sản và quan hệ nhân
thân thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật dân sự.
1.5 Vai trò của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội. Trong mỗi gia đình, các thành viên sống bình đẳng,
yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và không có bạo hành là nền tảng tiến tới một xã hội
phát triển bền vững.
Xuất phát từ ý nghĩa gia đình là tổ ấm và thực tiễn đã cho thấy những thành quả
phát triển đất nước có được phần lớn từ sự đóng góp của mỗi gia đình; trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng và bảo vệ gia
đình. Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21 tháng 2 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đề ra mục tiêu
“mỗi gia đình Việt nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã
hội”. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình,


19

trong đó có vấn đề bạo lực gia đình như Hiến pháp năm 1992, Luật Hôn nhân và gia
đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân
sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính,
Pháp lệnh Người cao tuổi... Các quy định pháp luật tuy đã đề cập đến các biện pháp
bảo vệ gia đình và phòng ngừa bạo lực gia đình, song xét một cách tổng quát, những

quy định đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật, thiếu tính cụ thể và
chưa có những quy định pháp lý đặc thù.
Trong khi đó, trên thực tế, tình trạng bạo lực gia đình đang diễn ra ngày càng phổ
biến ở nhiều nơi, số vụ bạo hành gia đình gây hậu quả nghiêm trọng có chiều hướng
tăng cao, tình trạng xúc phạm danh dự, nhân phẩm và tính mạng của con người xảy ra
hàng ngày, chủ yếu đối với phụ nữ và trẻ em.
Để thực hiện mục tiêu “mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và
là tế bào lành mạnh của xã hội”, vấn đề cần đặt ra là xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ và phòng, chống bạo lực gia đình
Chính vì vậy, ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua Luật phòng, chống bạo lực gia đình
nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong
gia đình, góp phần củng cố và xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc trong điều kiện hội nhập quốc tế. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2008.
Có thể thấy, Pháp luật hình sự, pháp luật hành chính…thiên về tính chất trừng
phạt đối với người thực hiện hành vi bạo lực, gắn với chế tài cụ thể. Các hành vi khi có
đủ yếu tố để xử lý hành chính hoặc cấu thành tội phạm hình sự thì sẽ áp dụng các chế
tài tương ứng. Do đó, các luật này mang tính chất bị động trước hành vi bạo lực.
Ngược lại, Luật Phòng chống bạo lực gia đình không chỉ điều chỉnh đối với những
hành vi đã xảy ra mà còn điều chỉnh cả những hành vi chưa xảy ra. Luật chú trọng vào


20

công tác phòng ngừa, đồng thời hướng tới khắc phục hậu quả và giảm thiểu thiệt hại do
hành vi bạo lực gây ra.
* Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời là công cụ pháp lý để ngăn chặn và
loại trừ bạo lực gia đình. Luật quy định nguyên tắc: Kết hợp và thực hiện đồng bộ các
biện pháp phòng chống “lấy phòng ngừa là chính”, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp

thời các hành vi bạo lực gia đình...Luật chú trọng giải quyết những vấn đề bạo lực
ngay từ khởi nguồn, không để tình trạng “chạy theo” khắc phục hậu quả
* Mục tiêu chính của Luật là bảo vệ gia đình bền vững và hạnh phúc. Bà Trương
Thị Mai, Chủ nhiệm ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội nói: “Phải thừa nhận rằng
vấn đề bạo lực gia đình hiện đang nghiêm trọng (...) Lâu nay chúng ta chỉ mới điều
chỉnh hành vi bạo lực gia đình bằng đạo đức, dư luận xã hội. Song có những điều đạo
đức và dư luận không thể điều chỉnh được mà cần phải có sự can thiệp của luật pháp”.
Đặt mục tiêu hàn gắn gia đình là ưu tiên hàng đầu, Luật đã gửi đi một thông điệp
rõ ràng: “Bạo lực gia đình là hành vi vi phạm pháp luật và không phải là việc riêng
của từng gia đình” . Vấn đề là làm sao để bằng tác động của luật pháp, các nạn nhân
được bảo vệ, hành vi bạo lực gia đình được ngăn chặn kịp thời nhưng vẫn phải phù hợp
với tập quán, truyền thống văn hoá Việt Nam.
Luật Phòng chống bạo lực gia đình không chỉ bảo vệ người phụ nữ mà cả người
đàn ông nếu họ bị bạo hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên 90% số nạn nhân của bạo
lực gia đình là phụ nữ, tiếp đến là trẻ em.
Sẽ có nhiều khó khăn trong quá trình đưa Luật Phòng chống Bạo lực gia đình vào
cuộc sống. Tuy nhiên, đây là một dấu ấn pháp lý trên con đường hoàn thiện pháp luật
về bình đẳng giới, về hôn nhân và gia đình của nước ta. Để thực hiện tốt Luật này, mỗi
cá nhân, gia đình và đặc biệt là các cơ quan đoàn thể thuộc hệ thống chính trị cần phải
phát huy vai trò của mình, có nhận thức đầy đủ và tích cực tham gia phòng chống bạo
lực gia đình.
1.6 Nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng


×