Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

So sánh phương thức hòa giải với thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.97 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ TÂM

SO SÁNH PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢI VỚI THỦ TỤC HÒA GIẢI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI TÒA ÁN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới Ban giám hiệu, khoa sau
đại học trường Đại học Luật Hà Nội cùng toàn thể các quý thầy cô trong
trường đã giúp tôi trang bị tri thức, tạo môi trường điều kiện thuận lợi nhất
trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn tới
PGS.TS. Trần Ngọc Dũng đã khuyến khích chỉ dẫn nhiệt tình cho tôi trong
suốt thời gian thực hiện nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn tới các tổ chức, cá nhân đã hợp tác chia sẻ thông


tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tài liệu, tư liệu hữu ích.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động
viên, hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành
luận văn.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Thị Tâm


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự


LTM

Luật Thương mại

TAND

Tòa án nhân dân

TCKT

Tranh chấp kinh tế

TCTM

Tranh chấp thương mại

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UNCITRAL

United Nations Commission on International Trade Law - Ủy
ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế

VIAC

Internationl Arbitration Centre at the Vietnam Chamber of
Commerce and Industry - Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam


WTO

The World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƯƠNG 1

5

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI

1.1.

Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp thương mại

5

1.2.

Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại


9

1.3.

Vai trò của hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại

17

1.4.

Lịch sử phát triển của pháp luật về hòa giải ở Việt Nam

18

CHƯƠNG 2
SO SÁNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH CỦA

21

PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢ VỚI THỦ TỤC HÒA GIẢI TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI TÒA ÁN

2.1.

Các quy định của pháp luật về chủ thể có tranh chấp thương mại

21

2.2.


Các quy định của pháp luật về người trung gian hòa giải

26

2.3.

Các quy định của pháp luật về đối tượng hòa giải các tranh chấp

30

thương mại
2.4.

Các quy định của pháp luật về nguyên tắc hòa giải các tranh

37

chấp thương mại
2.5.

Các quy định của pháp luật về điều kiện, phương thức hòa giải
các tranh chấp thương mại

42


2.6.

Các quy định của pháp luật về thủ tục hòa giải các tranh chấp


48

thương mại
2.7.

Các quy định của pháp luật về tính cưỡng chế của các quyết

54

định về hòa giải các tranh chấp thương mại
2.8.

Thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về hòa giải các
tranh chấp thương mại

56
CHƯƠNG 3

59

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI

3.1.

Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về hòa

60


giải trong giải quyết tranh chấp thương mại
3.2.

Các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hòa

63

giải trong giải quyết tranh chấp thương mại
3.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành các quy định pháp luật
về hòa giải các tranh chấp thương mại
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69
71


1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới và mở cửa ở Việt Nam, hợp tác và giao lưu thương
mại ngày càng phát triển, các nhà kinh doanh có nhiều mối quan hệ thương mại với
nhau. Khi tham gia các mối quan hệ đó, các nhà kinh doanh thường hợp tác chặt chẽ
để cùng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, với nhiều nguyên nhân khác nhau, các
TCTM giữa các đối tác vẫn có thể xảy ra. Do vậy thực tế đặt ra là phải giải quyết

nhanh gọn, hiệu quả nhưng tranh chấp để tạo điều kiện cho thương mại phát triển.
Phương thức giải quyết TCTM bằng hòa giải ngày càng có những bước đi ổn
định và bước đầu khẳng định được vị trí của mình trong việc giải quyết các TCTM.
Hệ thống pháp luật điều chỉnh cũng ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng hoạt
động thực tiễn. LTM (2005) đã quy định khung pháp lý cho hoạt động kinh tế với
việc công nhận hòa giải là một hình thức giải quyết tranh chấp.
Phương thức hòa giải và thủ tục hòa giải tại Tòa án trong giải quyết TCTM
hiện nay là những hình thức đang được các doanh nghiệp ưa chuộng. Thực tế cho
thấy khi tranh chấp xảy ra, doanh nghiệp nào cũng muốn giải quyết tranh chấp bằng
con đường "hòa bình". Khi bất đắc dĩ phải đề nghị Toà án giải quyết tranh chấp, họ
vẫn muốn tận dụng các cơ hội có thể để giải quyết êm đẹp các tranh chấp. Do đó,
hình thức hòa giải luôn được đặt ra trong suốt quá trình giải quyết TCTM.
Với việc chọn vấn đề " So sánh phương thức hòa giải với thủ tục hòa giải
trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án " làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học Luật của mình, tác giả muốn khẳng định tính ưu việt của các phương thức
giải quyết TCTM này thông qua việc chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt
trong nguyên tắc, điều kiện, quy trình ... của phương thức hòa giải (hòa giải ngoài tố
tụng) và thủ tục hòa giải tại Tòa án (hòa giải trong tố tụng). Tác giả mong muốn đưa
ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về các


2

hình thức hoà giải TCTM, đồng thời, cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành các quy định về hoà giải các TCTM.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy hòa giải là một hình thức giải quyết TCTM với nhiều ưu điểm vượt trội,
nhưng từ trước đến nay, khoa học pháp lý ở Việt Nam chưa có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này. Một số công trình nghiên cứu có đề cập đến hình thức
hòa giải trong giải quyết TCTM là: Giáo trình LTM- tập II (2008) của Trường Đại

học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ của Đào Văn Hội (1996) về đề tài "Giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng Tòa án"; Luận văn thạc sĩ của Trương Kim Oanh nghiên
cứu về hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam; Luận án tiến sĩ của Đào Thị Xuân
Lan (2004) về đề tài Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt
Nam; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hoài Sơn (2004) về đề tài "Giải quyết tranh
chấp thương mại bằng phương thức thương lượng hòa giải - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn"; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị An Na về đề tài "Hòa giải - Phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tố tụng (2010)...
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ dừng lại ở việc
tiếp cận hòa giải là một phương thức giải quyết TCTM hay là là một chế định trong
giải quyết TCTM tại Tòa án từ góc độ luật thực định, mà chưa có sự so sánh, đánh
giá phương thức hòa giải với những ưu điểm vượt trội được áp dụng phổ biến trong
quá trình giải quyết TCTM.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu so sánh giữa phương thức
hòa giải và thủ tục hòa giải trong việc giải quyết các TCTM tại Tòa án một cách
toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về hoà giải trong việc giải quyết TCTM cũng như nhằm nâng
cao hiệu quả của việc hòa giải, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa các đối tác kinh
doanh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là khẳng định tính ưu việt của việc giải
quyết TCTM bằng hoà giải và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy


3

định pháp luật về hoà giải. Đồng thời, tác giả luận văn cũng đề xuất một số giải
pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy định về hoà giải trong giải quyết TCTM.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc nghiên cứu, so sánh
đánh giá, phân tích một cách có hệ thống các quy định về hòa giải và thủ tục trong

giải quyết TCTM tại Tòa án cũng như thực tiễn giải quyết TCTM bằng hình thức
này, luận văn làm rõ bản chất của hình thức hòa giải trong quá trình giải quyết các
TCTM, luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về hòa giải trong giải quyết các TCTM ở nước ta. Những nhiệm vụ cụ thể
của việc nghiên cứu đề tài là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc giải quyết các TCTM bằng
phương thức hòa giải và thủ tục hòa giải tại Tòa án.
- So sánh, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về phương thức hòa giải
với các quy định về thủ tục hòa giải tại Tòa án trong giải quyết TCTM.
- Nghiên cứu thực trạng thi hành các quy định pháp luật về giải quyết TCTM
bằng phương thức hòa giải ngoài tố tụng và trong tố tụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định, trình tự thủ tục của pháp
luật Việt Nam về phương thức hòa giải và thủ tục hòa giải trong việc giải quyết các
TCTM tại Tòa án nhằm so sánh và tìm ra những ưu, nhược điểm của hình thức hòa
giải nói chung.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật của Việt Nam và
của một số nước khác về hoà giải các TCTM.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể, như: phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối
chiếu, phương pháp lịch sử để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của pháp
luật về hòa giải ở nước ta, thực trạng của pháp luật về hòa giải các TCTM và
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải các TCTM ở Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn


4


Có thể nói luận văn này là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ thạc sĩ đầu
tiên ở nước ta nghiên cứu phương thức hòa giải dưới góc độ so sánh nó với thủ tục
hòa giải tại Tòa án trong quá trình giải quyết TCTM một cách toàn diện, đầy đủ và
có hệ thống. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn là:
- Luận văn góp phần vào việc luận giải những vấn đề lý luận về việc giải
quyết các TCTM bằng phương thức và thủ tục hòa giải tại Tòa án. Từ đó, có thể
thấy được điểm tương đồng và khác biệt về bản chất của hình thức hòa giải ở mỗi
phương thức giải quyết tranh chấp.
- Luận văn nêu được những ưu điểm, thành công, cũng như những nhược điểm
bất cập của pháp luật về hòa giải các TCTM ở Việt Nam. Từ đó, góp phần vào việc
xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nước ta về hòa giải trong việc
giải quyết TCTM, luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải nhằm phát triển phương pháp này
trong việc giải quyết TCTM.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm có Lời nói đầu, 3 chương, phần Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo. Ba chương của luận văn là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại.
Chương 2: So sánh các quy định pháp luật hiện hành của phương thức hòa giải
với thủ tục hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về
hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại.


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI


1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TCTM

1.1.1. Khái niệm TCTM
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành dòng chảy chủ đạo như
hiện nay, TCTM là thực tế khó tránh khỏi trong các quan hệ kinh tế. Việt Nam đang
ở trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN và là một trong những nước có tốc độ tăng
trưởng GDP hàng năm tương đối cao so với thế giới nên cũng tiềm ẩn nhiều TCTM.
Quan hệ thương mại vốn dĩ rất phức tạp và dễ nảy sinh tranh chấp. Các thương
nhân khi tham gia quan hệ thương mại nếu không tìm thấy được những lợi ích sẽ
xuất hiện những bất đồng về quyền và nghĩa vụ. Chúng ta đang tiến hành phát triển
kinh tế đối ngoại theo hướng tham gia ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế,
tham gia gia khối mậu dịch tự do AFTA và Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, áp
dụng các chuẩn mực thương mại quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu để
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
thương mại trong nước và quốc tế là điều cần thiết.
Theo LTM (2005) thì hiện nay có bốn phương thức giải quyết TCTM là:
Thương lượng giữa các bên, hòa giải giữa các bên, giải quyết tại Trọng tài thương
mại và giải quyết tại Tòa án.
Trong các phương thức giải quyết TCTM thì hòa giải là phương thức thường
được các nhà kinh doanh lựa chọn và các luật gia của nhiều nước quan tâm nghiên
cứu, sử dụng trong thực tiễn.
Theo từ điển Tiếng Việt thì tranh chấp được hiểu là sự giành giật, giằng co
nhau cái không thuộc về bên nào[ 24]. Khi nói về tranh chấp người ta thường nghĩ
đến những mâu thuẫn, bất đồng hoặc xung đột giữa các chủ thể trong mối quan hệ.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp nhưng suy cho cùng, mọi tranh chấp đều


6


liên quan đến lợi ích kinh tế. Tranh chấp là sự bất đồng, xung đột về quyền lợi, mâu
thuẫn về quan điểm của các thể nhân, pháp nhân với nhau trong một xã hội có giai
cấp.
Trước khi sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” thì thuật ngữ "tranh
chấp kinh tế" được sử dụng khá rộng rãi trong khoa học pháp lý cũng như trong đời
sống xã hội. Bên cạnh thuật ngữ này chúng ta còn biết đến thuật ngữ “tranh chấp
kinh doanh”, “tranh chấp hợp đồng kinh tế”...
Thuật ngữ TCKT lại được hiểu ở mức độ khác nhau: Nếu xuất phát từ luật nội
dung thì TCKT bao gồm các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh tế mà lĩnh vực
kinh tế thì rất rộng, bao gồm tài chính ngân hàng, kinh doanh, lao động... do vậy
TCKT hiểu theo nghĩa này là rất rộng. Trong phạm vi đề tài này tác giả chỉ tập
trung vào phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa phương thức hòa giải và thủ
tục hòa giải các TCTM tại Tòa án.
Hiện nay thuật ngữ TCTM đã ngày càng trở lên quen thuộc và đi vào đời sống
kinh tế pháp lý của các nước trên thế giới. Tuy nhiên ở nước ta thuật ngữ TCTM
mới được sử dụng rộng rãi trong những năm gần đây thay thế cho thuật ngữ TCKT.
Một khái niệm được biết đến từ thời kỳ kế hoạch hóa.
LTM (1997) sử dụng thuật ngữ "tranh chấp thương mại" tuy cụ thể hơn khái
niệm TCKT nhưng chưa tương thích với quan niệm phổ biến của các nước trên thế
giới về TCTM. Điều 238 LTM (1997) định nghĩa : TCTM là tranh chấp phát sinh
do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động
thương mại". Định nghĩa này đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là TCTM
dù về bản chất hoàn toàn có thể coi là TCTM trong nền kinh tế hiện đại. Điều này
đã tạo ra sự không tương thích giữa luật quốc gia với luật quốc tế. [10, tr24].
Cũng như pháp luật quốc tế, hiện nay pháp luật Việt Nam quan niệm hoạt
động thương mại theo nghĩa rộng bao gồm nhiều hành vi thương mại. Luật Trọng
tài Thương mại tuy không đưa ra định nghĩa về TCTM song với việc quy định về
thẩm quyền giải quyết tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại "1.Tranh chấp giữa các
bên phát sinh từ hoạt động thương mại. 2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong



7

đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại" đã tạo ra sự tương đồng trong quan
niệm về " thương mại " và TCTM với pháp luật và thông lệ quốc tế cụ thể là khái
niệm thương mại trong Luật mẫu của Liên hợp quốc về trọng tài, Hiệp định Thương
mại Việt - Mỹ và WTO.
LTM (2005) đã mở rộng hơn về nội hàm khái niệm hoạt động thương mại.
Mọi hoạt động có mục đích " sinh lợi" đều là hoạt động thương mại. Điều này được
quy định rõ trong Điều 3 LTM (2005) theo đó: " Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác" [ 36].
Hướng tiếp cận này của LTM (2005) tương đồng với khái niệm kinh doanh trong
LDN (1999) và LDN (2005):" Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi." [ 38].
Các khái niệm trên có nội hàm giống như khái niệm thương mại của WTO.
Điều này là phù hợp với luật pháp quốc tế, phù hợp với luật pháp trong nước vì thiết
chế giải quyết TCTM được hiểu là tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, hay
tranh chấp trong hoạt động thương mại theo như các khái niệm nêu trên và tương
xứng với thuật ngữ TCKT được hiểu hiểu theo nghĩa luật tư.
Theo Điều 29 BLTTDS (2004) đã liệt kê các tranh chấp kinh doanh, thương
mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Liệt kê này bao gồm phần lớn các
TCTM được hiểu theo tinh thần của LTM ( 2005).
Qua sự phân tích trên, có thể thấy TCTM là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột
về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt động thương mại
trên thương trường. TCTM còn là sự bất đồng về một hiện tượng pháp lý (bất đồng
về quyền và nghĩa vụ) phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tiến hành
hoạt động thương mại và thông thường gắn liền với các yếu tố, lợi ích về tài sản

[11, tr28] hay có thể là "... tranh chấp phát sinh giữa các bên trong một giao dịch
thương mại". (khoản 4 Điều 9, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ) [35] Cội nguồn


8

của TCTM chính là quyền và lợi ích kinh tế của một trong các bên bị xâm phạm và
các chủ thể không tìm được sự giải quyết.
1.1.2. Đặc điểm của TCTM
TCTM là tranh chấp phát sinh từ các quan hệ thương mại khi các bên có quan
hệ bất đồng, mâu thuẫn với nhau. Đây là những quan hệ có tính chất tài sản với mục
đích kinh doanh và thu lợi nhuận. Chủ thể tham gia quan hệ thương mại phải đáp
ứng những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Từ khái niệm và sự phân tích
ở trên có thể thấy TCTM có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, TCTM là sự biểu hiện của những xung đột, mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ thương mại cụ thể do các bên tham
gia thiết lập. Những mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa vụ này đều có nguồn
gốc là sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên. Khi hình thành quan hệ thương
mại, các chủ thể đều mong muốn đạt được những lợi ích kinh tế cao nhất và lợi
nhuận tối đa. Vì vậy, khi xuất hiện sự vi phạm về quyền và nghĩa vụ thì hệ quả
tranh chấp tất yếu sẽ xảy ra. Bên bị vi phạm sẽ bị thiệt hại về quyền lợi kinh tế và
điều này sẽ kéo theo TCTM phát sinh.
Thứ hai, TCTM luôn gắn liền với hoạt động thương mại của các chủ thể. Điều
này có nghĩa là chỉ những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh trong hoạt động thương
mại, đó là " ...hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác". [36] thì mới có thể được xem là những TCTM.
Thứ ba, TCTM phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân với nhau bao gồm cá
nhân và tổ chức thực hiện kinh doanh (chủ thể của hoạt động kinh doanh). Khoản 1,
Điều 6 LTM (2005) xác định : " Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành

lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh".
TCTM rất đa dạng bắt nguồn từ những hành vi vi phạm hợp đồng, vi phạm
pháp luật, nhưng loại tranh chấp mang tính phổ biến vẫn là tranh chấp về hợp đồng.
Tuy vậy, không phải bất kỳ sự vi phạm hợp đồng nào cũng dẫn đến TCTM. Có


9

những trường hợp không có sự vi phạm nào cũng vẫn phát sinh TCTM. Pháp luật
Việt Nam quy định vấn đề giải quyết TCTM còn thiếu chặt chẽ. Điển hình là các
phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng mới chỉ dùng lại ở mức độ ghi
nhận mà thiếu các quy định cần thiết để cho chúng vận hành và nâng cao hiệu quả
khi thực thi.
Mọi tranh chấp trong thương mại đều cần được giải quyết một cách triệt để,
thích hợp. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh có nghĩa là lựa chọn các hình
thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về lợi ích
giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. "
Tinh thần thương mại tạo cho con người một ý thức về công bằng đúng mức, một
mặt nó phản đối cướp bóc, mặt khác nó phản đối đạo đức đơn thuần khiến người ta
không muốn tranh chấp gay gắt về mình mà sao nhãng lợi ích của người khác" [9,
tr.155].
Khi tiến hành giải quyết TCTM cần phải đáp ứng các yêu cầu sau :
- Nhanh chóng, thuận lợi, tiết kiệm không làm cản trở các hoạt động kinh
doanh
- Đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng trong quá trình giải quyết tranh chấp
- Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường
- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác giữa các bên trong kinh doanh
- Đạt hiệu quả thi hành cao[8, tr.83].
Hiện nay, pháp luật ghi nhận có bốn phương thức giải quyết tranh chấp sau:

Phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng gồm:
+ Thương lương
+ Hòa giải
Phương thức giải quyết tranh chấp trong tố tụng gồm:
+ Trọng tài ( có hòa giải)
+ Tòa án ( có hòa giải)
1.2. KHÁI NỆM HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TCTM

1.2.1. Khái niệm phương thức hòa giải trong giải quyết TCTM


10

Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các chủ thể kinh doanh quan hệ
với nhau bằng cách thiết lập các mối quan hệ thương mại với nhau. Tuy nhiên,
không phải bất cứ mối quan hệ thương mại nào cũng đều tốt đẹp, các quyền và
nghĩa vụ của các bên không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách nghiêm túc
nên việc xảy ra những những TCTM là điều không tránh khỏi. Do vậy các chủ thể
kinh doanh phải tìm cách giải quyết các tranh chấp đó để hoạt động thương mại
được tiếp tục duy và phát triển
Khi xảy ra TCTM thương nhân có nhiều sự lựa chọn để giải quyết TCTM .
Thứ nhất, tự thương lượng với nhau. Trong thực tế, khi tự thương lượng, có nhiều
trường hợp không thành công, do bên nào cũng muốn bảo vệ lợi ích, quan điểm của
mình. Thứ hai, là phương thức trung gian hòa giải, tức là nhờ một người thứ ba hòa
giải. Người thứ ba này thường nhìn nhận vấn đề một cách khách quan. Người trung
gian đưa ra kiến nghị, những giải pháp để hai bên thống nhất. Thứ ba, là phương
thức trọng tài thương mại tức là thỏa thuận một tổ chức trọng tài làm bên thứ ba tiến
hành giải quyết tranh chấp. Thứ tư, là giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Mỗi phương
thức có một ưu điểm riêng nhưng trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải được nhiều doanh nhân, doanh nghiệp ưa chuộng.

Cơ sở lý luận và thực tiễn việc hình thành phương thức hòa giải bắt nguồn từ
quyền tự do kinh doanh, tự do định đoạt tranh chấp của các chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường. Quan điểm của nhiều nước trên thế giới cho rằng pháp
luật dân sự cũng như pháp LTM thuộc mảng “ luật tư”. Điều đó có nghĩa là những
ngành luật này điều chỉnh chủ yếu mối quan hệ giữa các cá nhân, pháp nhân với
nhau. Khi đã là quan hệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau thì vấn đề tâm lý tình cảm
rất dễ được đưa lên hàng đầu, họ dễ dàng thỏa thuận với nhau trên cơ sở tự nguyện
do mối quan hệ đã được xây dựng và duy trì nên dễ dàng chia sẻ lợi ích cũng như
thua thiệt. Trong nền kinh tế thị trường, việc xử lý các mối quan hệ giữa các nhà
kinh doanh trong việc giải quyết tranh chấp xảy ra không chỉ được thực hiện theo
các quy định của pháp luật mà còn cần đến cả các thói quen, thông lệ quy tắc của
đời sống thương mại.


11

Việc giải quyết các TCTM một cách có hiệu quả không chỉ được thực hiện
bằng các quy định của pháp luật mà còn được thực hiện bởi các thông lệ kinh
doanh. Phương thức giải quyết các tranh chấp bằng hòa giải là sự thể hiện rõ nét
việc công nhận các thông lệ thương mại của các nhà kinh doanh.
Theo Từ điển Tiếng Việt (1992) “ Hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột, hay xích mích một cách ổn thỏa” [24]. Hòa giải chính là một
quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó Hòa giải viên là
người thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được một sự thỏa thuận giải
quyết một cách thân thiện.
Hòa giải là một phương pháp truyền thống phổ biến để giải quyết tranh chấp
và được nhà nước công nhận và khuyến khích. Ở một số nước trên thế giới, nhất là
khu vực Châu Á khi mà vấn đề tình cảm con người được đặt lên trên thi phương
thức hòa giải càng được ưa chuộng.
Hiện nay trong các nhiều tài liệu pháp lý thường đề cập đến hai loại hòa giải:

Đó là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng. Hòa giải trong tố tụng được
tiến hành tại Tòa án hoặc Trọng tài khi các cơ quan này thụ lý giải quyết tranh chấp
theo yêu cầu của các bên tranh chấp. Còn hòa giải ngoài tố tụng là hòa giải thông
qua trung gian hòa giải, được các bên tiến hành trước khi đưa vụ việc ra cơ quan tài
phán hoặc tiến hành sau khi có phán quyết có hiệu lực [ 21]. Trong luận văn này tác
giả sẽ làm rõ hơn sự giống và khác nhau của vấn đề hòa giải ngoài tố tụng (thông
qua phương thức hòa giải) và hòa giải trong tố tụng (hòa giải tại Tòa án).
Từ những phân tích tích ở trên có thể hiểu giải quyết tranh chấp bằng phương
thức hòa giải như sau:
“Hòa giải là phương thức giải quyết TCTM mà có sự tham gia của bên thứ
ba độc lập ( hòa giải viên) do hai bên tranh chấp cùng chấp nhận hay chỉ định làm
vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm giải pháp thích hợp cho việc
giải quyết xung đột nhằm chấm dứt các TCTM ”. Nói một cách khái quát, hòa giải
các tranh chấp là Nhà nước không can thiệp, pháp luật không điều chỉnh một cách
trực tiếp, cụ thể. Kết quả của việc hòa giải là một phương án giải quyết TCTM mà


12

các bên có thể chấp nhận được. Hòa giải các TCTM là giải pháp mang tính chất tự
nguyện tùy thuộc vào sự lựa chọn của các thương gia nhằm giải quyết tranh chấp
một cách thân thiện, hòa bình.
Hòa giải trong giải quyết TCTM, ngoài các bên tranh chấp thì không thể thiểu
chủ thể quan trọng đó là Hòa giải viên – người trung gian hòa giải tranh chấp giữa
các bên tranh chấp. Hòa giải viên không phải là Trọng tài viên, không phải là người
đại diện của bất kỳ bên nào. Họ thường là những cá nhân có trình độ chuyên môn
cao, hiểu biết thông thạo pháp luật, có nhiều kinh nghiệm về những vấn đề liên
quan đến TCTM. Đặc biệt, đối với những tranh chấp về mặt khoa học kỹ thuật, dịch
vụ, thương mại giữa các bên thì Hòa giải viên là các chuyên gia có nhiều kinh
nghiệm và trình độ cao về về khoa học, kỹ thuật, thương mại và dịch vụ.

Công việc của Hòa giải viên là: nghiên cứu, phân tích các thông tin dữ liệu
liên quan của vụ tranh chấp, nhận định, nêu ý kiến và bình luận dưới góc độ chuyên
môn, nghiệp vụ pháp lý các vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp để các bên tranh
chấp cùng nhau tham khảo, thảo luận xem xét.
Các Hòa giải viên có thể nêu ra những phương án giải quyết tranh chấp để các
bên lựa chọn, tìm ra phương án giải quyết bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên, làm cho các bên tranh chấp đều chấp nhận được phương án mà Hòa giải
viên đưa ra.
Trong quá trình giải quyết vụ TCTM Hòa giải viên không được ép buộc,
cưỡng bức các bên đương sự, nhất là bên bị đơn, mà phải tôn trọng sự tự nguyện
của các bên, sự tự do ý chí, thỏa thuận của các bên vì bản chất của hòa giải là
phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự tự nguyện, tự quyết định của các bên.
Trong việc giải quyết tranh chấp Hòa giải viên không được làm lộ bí mật các
thông tin của các bên về bí quyết sản xuất, kinh doanh, bí mật quy trình công nghệ,
kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh....
Khi đặt ra việc giải quyết TCTM bằng phương thức hòa giải có một số vấn đề
pháp lý được đặt ra cho các bên như sau:


13

Thứ nhất, khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn người trung
gian hòa giải khi có tranh chấp xảy ra (như Hội đồng giám định, Giám định viên…)
có thể được quy định trước về mặt quyên tắc trong hợp đồng, khi xảy ra tranh chấp
các bên sẽ chỉ định cụ thể. Trong trường hợp không có quy định như vậy, khi tranh
chấp phát sinh các bên phải thỏa thuận chỉ định trung gian hòa giải.
Thứ hai, Các bên trong quan hệ thương mại có thể thỏa thuận, xác định một
quy trình tiến hành trung gian hòa giải. Trong trường hợp không xác định được như
vậy, các bên có thể giành cho người trung gian hòa giải toàn quyền quyết định một
quy trình mềm dẻo và linh hoạt.

Thứ ba, các ý kiến, quan điểm, nhận xét và đề xuất giải pháp của Hòa giải viên
chỉ mang tính chất khuyến nghị đối với các bên, không có tính chất ép buộc, bắt
buộc. Khi được các bên tranh chấp chấp thuận những kiến nghị, giải pháp đó sẽ có
hiệu lực thi hành với tất cả các bên.
Thứ tư, khi các kiến nghị, giải pháp của Hòa giải viên được các bên chấp nhận
chúng phải được ghi nhận thành một văn bản và các bên cần cam kết thi hành các
thỏa thuận đã đạt được. Có thể coi thỏa thuận đạt được thông qua hòa giải như một
bản hợp đồng mới. Nếu bên nào không thi hành nghiêm chỉnh thỏa thuận đó sẽ bị
bên đối tác kiện ra cơ quan tài phán, yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, điều này cho đến nay các quy định của pháp luật vẫn còn bỏ ngỏ.
Thứ năm, để quá trình hòa giải được tiến hành một cách hiệu quả các bên
tranh chấp và Hòa giải viên thiết lập một hợp đồng dịch vụ pháp lý nhằm giải quyết
các vấn đề như: quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp, quyền, nghĩa vụ các
chuẩn mực cần thiết cho trung gian hòa giải, phí tổn hòa giải, chi phí cho Hòa giải
viên.
Hình thức trung gian hòa giải thường thích hợp cho việc giải quyết các tranh
chấp mà ở đó, ngoài yếu tố thiện chí của các bên, còn có các vấn đề đòi hỏi chuyên
môn mà các bên khó có thể xem xét đánh giá chính xác, khách quan được. Thực tế
không phải nhà kinh doanh nào cũng cũng hiểu rõ và nắm vững pháp LTM. Người
thứ ba làm trung gian hòa giải thường là các luật sư, luật gia hoặc những người có


14

kiến thức về kinh doanh, pháp luật. Chính vì thế, khi là các trung gian hòa giải với
kiến thức pháp luật của mình sẽ là kênh quan trọng giúp các bên tranh chấp nắm rõ
các quy định của pháp luật về hoạt động thương mại, quyền và nghĩa vụ của các bên
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Từ đó, các bên hiểu rõ được các vấn đề
dẫn đến việc hòa giải tranh chấp được nhanh gọn và ít tốn kém. Ở nhiều quốc gia
trên thế giới, hòa giải được xem là hình thức giải quyết tranh chấp quan trọng. Đây

cũng là điều giải thích cho việc ra đời các trung tâm hòa giải (ví dụ như trung tâm
hòa giải Bắc Kinh để giải quyết các TCTM và hàng hải quốc tế…[28, tr. 17]; và các
quy trình hòa giải mẫu ( chẳng hạn như quy trình hòa giải Folloberg –Taylor, “ quy
trình hòa giải không bắt buộc” của Phòng Thương mại Quốc tế tại London, quy
trình hòa giải mẫu của UNCITRAL năm 1980…)
1.2.2. Khái niệm thủ tục hòa giải trong giải quyết TCTM
Giải quyết TCTM tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp với sự
tham gia của bên thứ ba là Tòa án - cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước. Khi
tranh chấp phát sinh, các bên, đặc biệt là bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm, có thể
đưa đơn kiện đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Việc Tòa án có chấp nhận đơn kiện của các bên có tranh chấp hay không và
Tòa án giải quyết tranh chấp đó theo hình thức, trình tự, thủ tục nào đều do pháp
luật tố tụng quy định.Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các bên tranh chấp hay những
người có liên quan đến vụ kiện đều phải tuân thủ các quy định đó. Các quyết định,
bản án do Tòa án tuyên tại mỗi giai đoạn được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của cơ quan Nhà nước phù hợp với các quy định của pháp luật.
Như vậy, vai trò của bên thứ ba là Tòa án không chỉ dừng lại ở việc tư vấn, đề
xuất phương án giải quyết tranh chấp như Hòa giải viên, mà pháp luật còn giao cho
Tòa án có quyền quyết định cuối cùng đối với vụ kiện cũng như quyền quyết định
các biện pháp cần thiết đảm bảo thi hành án, nếu như các bên tranh chấp không tự
thỏa thuận được. Các quyết định của Tòa án phải đảm bào tính công khai, chính
xác. khách quan, đúng pháp luật.


15

Từ sự phân tích ở trên ta có thể thấy phương thức giải quyết TCTM bằng hòa
giải và giải quyết TCTM tại Tòa án đều là phương thức độc lập mà các chủ thể kinh
tế có thể lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa

họ. Nhưng khi nói đến hòa giải trong giải quyết TCTM tại Tòa án tức là đã đề cập
tới việc sử dụng kết hợp cả hai phương thức giải quyết TCTM, trong đó phương
thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án làm "nền tảng" còn hòa giải được "tích hợp"
vào quá trình giải quyết tranh chấp bằng thủ tục tố tụng.
Việc sử dụng kết hợp các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau là một
hiện tượng bình thường xuất phát từ chính những như cầu khách quan của các bên
có tranh chấp là phải tìm mọi cách thích hợp để giải quyết nhanh gọn, dứt điểm có
hiệu quả các xung đột, vướng mắc gây thiệt hại và xâm phạm tới quyền và lợi ích
của các bên tranh chấp.
Thông thường, khi xảy ra tranh chấp, các nhà kinh doanh cố gắng gặp nhau để
đàm phán tìm cách tháo gỡ những bất đồng. Nếu không có kết quả thì họ sẽ tìm đến
bên thứ ba có kiến thức sâu về chuyên môn nghiệp vụ có thể giúp họ giải quyết
tranh chấp. Nếu hòa giải không thành công, các bên buộc phải sử dụng đến những
phương thức có tính chính thức hơn, hành chính hơn, mà ở đó quyền quyết định sự
việc thuộc về bên thứ ba (đó là Trọng tài, Tòa án) và các bên tranh chấp phải chấp
nhận thi hành quyết định đó, dù có hài lòng hay không.
Xuất phát từ góc độ của người thứ ba, tuy được pháp luật trao quyền quyết
định vụ việc, nhưng cũng xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, tự do thỏa thuận của
các bên nhằm giúp các bên tranh chấp nhận thức rõ hơn về vụ việc tranh chấp, các
quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong vụ tranh chấp nên
trong quy trình thủ tục, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án,
pháp luật cũng đã quy định cho bên thứ ba (Tòa án) luôn dành cơ hội để các bên
tiếp tục hòa giải với nhau nhằm tìm ra hướng giải quyết tốt nhất bảo đảm quyền lợi
của các bên hạn chế những thiệt hại xảy ra. Các bên có điều kiện cân nhắc suy nghĩ
thấu đáo hơn trước những hướng dẫn, tư vấn của Thẩm phán về điểm mạnh, điểm


16

yếu liên quan đến vị thế pháp lý của các bên, những hậu quả pháp lý khi Tòa tuyên

bản án và cưỡng chế thi hành theo pháp luật.
Hòa giải vừa là một phương thức giải quyết TCTM độc lập, vừa có tư cách là
một thủ tục tố tụng trong qua trình giải quyết vụ án kinh tế tại Tòa án.. Hòa giải
không những được Tòa án quan tâm áp dụng mà còn được các đương sự ủng hộ và
tận dụng triệt để. Trong quan hệ kinh doanh, nếu các không tìm được tiếng nói
chung qua các phương thức giải quyết tranh chấp khác mới đưa nhau ra Tòa án. Dù
đã khởi kiện ra Tòa thì phần lớn các bên tranh chấp vẫn muốn rút khỏi tranh chấp
một cách êm đẹp để giữ mối quan hệ lâu dài với nhau. Do đó, hòa giải trở thành con
đường ngắn nhất, đơn giản nhất và hiệu quả trong việc giải quyết TCTM, mặc dù
các bên đã đưa nhau ra Tòa án .
Các văn bản pháp luật hiện hành không đưa ra khái niệm cụ thể về hòa giải
trong các vụ án kinh tế tại Tòa án . Tuy nhiên, về phương diện khoa học pháp lý, có
thể hiểu “ Hòa giải trong tố tụng kinh tế là một thủ tục bắt buộc, theo đó người tiến
hành tố tụng có trách nhiệm giải thích pháp luật, giúp đỡ các bên nhằm hướng các
bên đi đến thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp”
Có thể thấy rằng hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong giải quyết TCTM tại
Tòa án . BLTTDS (2004) ghi nhận hòa giải là một nguyên tắc tố tụng tại Điều 10:
“Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương
sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật
này”.
Cũng theo tinh thần của BLTTDS (2004) thì khi có TCTM, thì các bên phải tự
thương lượng với nhau, nếu không thể tự thỏa thuận được thì mới yêu cầu Tòa án
can thiệp. Theo Điều 180 của BLTTDS (2004) có quy định: “ Trong thời hạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến
hành hoà giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này”. Kết quả
của việc hòa giải ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm sẽ quyết định việc có mở
phiên tòa hay không. Nếu hòa giải thành, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa



17

thuận của đương sự, quyết định này có hiệu lực ngay. Nếu hòa giải không thành thì
mới đưa vụ án ra xét xử. Trong quá trình xét xử các bên vẫn còn quyền hòa giải.
Thẩm phán phải cố gắng tạo điều kiện để các bên được thỏa thuận về việc giải
quyết vụ án. Tính bắt buộc của thủ tục hòa giải trong giải quyết TCTM tại Tòa án
còn được thể hiện tại Điều 180 của BLTTDS (2004) khi mà mọi vụ án về tranh
chấp thương mại đều phải được hòa giải trước khi xét xử, trừ một số trường hợp đặc
biệt.
Hòa giải được tiến hành ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng kinh tế.
Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án. Điều này cho thấy trong khuôn khổ nhất định khi giải quyết
các tranh chấp tại Tòa án thì quyền tự do thỏa thuận, của các bên tranh chấp vẫn
được pháp luật quan tâm. Nếu thỏa thuận thành công thì Tòa án công nhận và sẽ
giảm thiểu chi phí về thời gian, tiền bạc của các bên tranh chấp cũng như của Tòa án.
Như vậy, cùng với quy định hòa giải là thủ tục bắt buộc trong giải quyết tranh
chấp tại Tòa án, pháp luật cũng ấn định thời điểm hòa giải. Các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại có nội dung là sự xung đột kinh tế giữa các chủ thể. Các chủ thể,
ngoài mối quan tâm hàng đầu là lợi ích kinh tế, còn quan tâm đến uy tín của mình
trên thương trường, bí mật trong kinh doanh và các mối quan hệ bạn hàng. Do vậy,
pháp luật ấn định một thời điểm bắt buộc hòa giải là giúp họ có thời cơ ngồi vào
bàn đàm phán với nhau, ngay cả khi một trong các bên không có thiện chí. Thậm
chí trong trường hợp không hòa giải được với nhau trước khi mở phiên tòa thì trong
suốt quá trình xét xử, họ vẫn có điều kiện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
án sao cho ổn thỏa và có lợi nhất.
Hiệu lực pháp lý của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Khi các bên hòa giải thành tại bất kỳ thời điểm nào của quá trình tố tụng kinh tế,
Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự này có hiệu
lưc ngay và bắt buộc các bên phải thi hành.

1.3. VAI TRÒ CỦA HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TCTM


18

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hòa giải đã trở thành một
hình thức quan trọng để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại. Các chủ
thể của quan hệ kinh tế, mỗi khi phát sinh tranh chấp, ngoài yêu cầu dựa vào pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì đồng thời còn muốn giữ uy
tín, giữ mối quan hệ làm ăn trong kinh doanh. Những yêu cầu này, hòa giải thương
mại đã đáp ứng được do vậy nó có ý nghĩa lớn về mặt pháp lý, kinh tế cũng như về
mặt xã hội.
Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đảm bảo giữ bí mật kinh doanh, giữ uy
tín tiết kiệm được chi phí, giảm bớt mâu thuẫn căng thẳng, góp phần duy trì mối
quan hệ hợp tác giữa các bên trong kinh doanh. Các chủ thể của tranh chấp nhiều
khi đưa tranh chấp của mình ra giải quyết bằng phương thức hòa giải vì phương
thức này bảo đảm tính bí mật. Toàn bộ nội dung về tranh chấp được giữ bí mật, uy
tín của các bên trên thương trường được đảm bảo. Ngược lại, một trong nguyên tắc
tố tụng tại Tòa án là xét xử công khai. Điều này ít nhiều ảnh hưởng tới việc kinh
doanh của các đương sự. Tuy nhiên, khác với phiên tòa được mở công khai, phiên
hòa giải chỉ có mặt của các bên tranh chấp và bên thứ ba (cán bộ Tòa án) nên chứng
cứ do các bên cung cấp có khả năng được kiểm soát. Do đó không ảnh hưởng xấu
đến uy tín cũng như hạn chế được việc tiết lộ bí mật kinh doanh.

1.4. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở VIỆT NAM

Với tính chất là phương thức giải quyết tranh chấp xung đột, hòa giải có lịch
sử hình thành rất sớm so với các phương thức giải quyết TCTM khác như Trọng tài,
Tòa án. Trên thế giới, cùng với phương thức thương lượng, phương thức hòa giải
tồn tại lâu đời trong suốt lịch sử loài người. Khi có sự phân công lao động, đặc biệt

khi có tư hữu về tư liệu sản xuất thì sẽ xuất hiện mâu thuẫn, có những mâu thuẫn có
thể hòa giải được, có những mâu thuẫn không thể hòa giải được cho nên mới xuất
hiện Nhà nước và pháp luật với tính chất là những thiết chế để phục vụ cho quyền
lợi công cộng và quyền lợi riêng của một bộ phận giai cấp cầm quyền. Với tư tưởng
lấy con người là trung tâm thì các nước Châu Á ( Trung quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,


19

Việt Nam..) và cả các nước theo hệ thống pháp luật Tây Âu thì các phương thức này
đã được sử dụng trong nhiều năm [11,tr.310].
Ngay sau khi giành độc lập (9/1945) Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
quan tâm đến việc giải quyết tranh chấp dân sự và kinh tế trong nhân dân. Sắc lệnh
số 13 ngày 24/1/1946 của Chủ tịch nước quy định nền tư pháp của nước ta ghi nhận
“ Hòa giải tất cả các việc dân sự, thương sự…”. Thi hành sắc lệnh này, Nhà nước
đã lập một hệ thống các cơ quan có chức năng hòa giải các tranh chấp, xích mích
nhỏ trong nhân dân, cũng có không ít các tranh chấp liên quan đến tài sản trong
kinh doanh. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, mặc dù Tòa án được thành lập và đi vào
hoạt động nhưng khái niệm TCKT, pháp luật kinh tế chưa xuất hiện. Sắc lệnh số 13
năm 1946 đã dùng hai khái niệm là “dân sự” và “thương sự” nhưng không có văn
bản pháp luật nào định nghĩa và đưa ra những đặc điểm, tính chất của từng khái
niệm này. Ngày 10/4/1957, thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 735/TTg
kèm theo Bản Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh, lần đầu tiên quy định về
TCKT ( Điều 20). Quy định này được phát triển và ghi nhận tại bản Điều lệ tạm
thời về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 04/NĐ – CP ngày 4/1/1060
của Thủ tướng chính phủ. Điều 11 của bản Điều lệ quy định về xử lý tranh chấp hợp
đồng kinh tế. Bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế được ban hành theo Nghị
Định số 54/NĐ – CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ. Có điều đáng chú ý
là trong nền kinh tế tập trung, pháp luật của nước ta đã đống nhất khái niệm “
TCKT” với khái niệm “ tranh chấp hợp đồng kinh tế”.

Bước sang nền kinh tế thị trường, với việc ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 các tranh chấp
được liệt kê đa dạng hơn.
Từ ngày 30/6/1994 trở về trước TCKT thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ
thống cơ quan Trọng tài kinh tế của Chính phủ. Hội đồng Trọng tài kinh tế được
thành lập theo Nghị định số 20/TTg ngày 14/1/1960 để thực hiện chức năng quản lý
công tác hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế. Nguyên
tắc xử lý hợp đồng kinh tế được quy định trong Nghị định 29/Cp ngày 23/2/1962.


×