Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

ĐẢNG LÃNH đạo các CHỦ THỂ KINH tế TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM GIAI đoạn 1996 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.83 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

ĐỀ TÀI:

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁC CHỦ THỂ KINH TẾ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1996-2006
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Ngành : SƯ PHẠM GIÁO DỤC CÔNG DÂN

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS-GVC: Hồ Thị Quốc Hồng

Thái Thị Kim Loan
Lớp: SP.GDCD K33
MSSV: 6075707

Cần Thơ
2010


LỜI CẢM ƠN
Qua một thời gian dài tìm hiểu, nghiên cứu, cuối cùng tôi đã hoàn thành
luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Đảng lãnh đạo các chủ thể kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn 1996–2006”


đúng hạn. Nhân đây, tôi chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Cô Hồ Thị Quốc Hồng – người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Khoa Khoa học chính trị; Thư viện trường Đại học Cần Thơ; Thư viện
Thành phố Cần Thơ đã cung cấp cho tôi những tài liệu quý báu để hoàn thành
luận văn đúng hạn.
Toàn thể quý thầy, cô khoa Khoa học chính trị; Các bạn lớp sư phạm
GDCD-K33 đã luôn có sự quan tâm và động viên tinh thần để tôi hoàn thành tốt
luận văn.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng khả năng nhận thức vấn đề và nguồn tư
liệu có hạn nên luận văn có thể còn nhiều thiếu sót và hạn chế, tác giả rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng của quý thầy, cô và các bạn để luận
văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày

tháng 12 năm 2010

Sinh viên: Thái Thị Kim Loan


MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 4
6. Bố cục luận văn ...................................................................................................... 4

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 5
Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, HỒ CHÍ MINH VÀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ KINH TẾ
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ................................................................................... 5
1.1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. ........................................................ 5
1.2 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH. ............................................................................ 10
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ……… ............... ………………12

1.3.1 Giai đoạn trước đổi mới. ........................................................................... 12
1.3.2 Giai đoạn đổi mới ..................................................................................... 14
Chương 2: CÁC CHỦ THỂ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HOẠT ĐỘNG DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN 1996-2006. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM…. 24
2.1 HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHỦ THỂ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN
1996 - 2006. ........................................................................................................................ 24

2.1.1 Kinh tế nhà nước ....................................................................................... 26
2.1.2 Kinh tế tập thể ........................................................................................... 34
2.1.3 Kinh tế tư nhân.......................................................................................... 37
2.1.4 Kinh tế tư bản nhà nước ............................................................................ 41
2.1.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .............................................................. 44
2.2 MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM............................................................................ 47

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 60
1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn
thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng
của Đảng và nhân dân ta, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam.
Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng,
muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều
nước khác đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xôviết, mô hình kinh tế kế hoạch
tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất
là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình
này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai
lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý
chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách
quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả
hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan điểm mới về
con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là phê phán triệt để cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp; và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh.
Đại hội chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh
doanh phù hợp. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong
nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đến đại hội IX của Đảng (4/2001 ) thì khái niệm “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” được chính thức đưa ra. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình
kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là kết quả sau nhiều năm


2


nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản thân là người công dân Việt Nam cũng như người chủ tương lai của đất
nước, tôi rất cần phải hiểu đường lối phát triển kinh tế của quốc gia mình để góp phần
xây dựng nước nhà ngày càng giàu mạnh, vững chắc, không ngừng phát huy, nâng cao
vị thế trên trường quốc tế. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu là “Đảng lãnh
đạo các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam giai đoạn 1996-2006” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nói về vần đề chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam thì đây là một đề tài rộng, mang tính thời sự, được rất nhiều
người quan tâm nghiên cứu như: Giáo sư - Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa, Tiến sĩ Đinh Văn
Ân đồng chủ biên với tác phẩm “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam – lý
luận và thực tiễn”, Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng chủ biên với tác phẩm “Đổi
mới và phát triển ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Nhâm với
bài viết “Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” đăng trên tạp chí Lý luận chính trị - số 3/2006 của Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh,… Thế nhưng, các tác giả đã nghiên cứu vấn đề rất tổng quát
trong thời kỳ khá dài. Ở đây, tôi sẽ nghiên cứu đi sâu vào sự lãnh đạo của Đảng đối
với các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giai
đoạn 1996-2006.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Khi chọn nghiên cứu đề tài “Đảng lãnh đạo các chủ thể kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn 1996-2006” thì mục
đích hàng đầu của tôi là muốn hiểu rõ hơn về đường lối phát triển kinh tế của đất nước,
sau đó giúp ích cho công việc giảng dạy sau này của mình. Mặt khác, nghiên cứu hoàn

thành đề tài giúp cho tôi làm quen với việc nghiên cứu khoa học - đây là vấn đề cần
thiết của một tri thức trẻ.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích như đã nêu trên thì đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu đề
tài này phải làm sáng tỏ các vấn đề sau:
3


Một là, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh về vai trò của các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Hai là, quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường và vai trò của các chủ thể
kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bốn là, đánh giá kết quả đạt được cũng như những bài học kinh nghiệm thực
tiễn trong quá trình hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu quan điểm của Đảng về vai trò các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nghiên cứu hoạt động của các thành phần kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn 1996 – 2006.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Đảng lãnh đạo các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2006” tập trung nghiên cứu:
Quan điểm của Đảng về vai trò của các chủ thể kinh tế và hoạt động của các chủ thể
kinh tế trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Do đặc điểm đề tài mang tính chất lý luận chính trị xã hội nên ngoài sử dụng

phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp:
phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp logic, phương pháp thống kê
… đồng thời tôi còn tham khảo rất nhiều nguồn tài liệu khác.
6. Bố cục luận văn
Đề tài này được trình bày trong 3 phần:
- Trước tiên là Phần mở đầu
- Tiếp theo là Phần nội dung, gồm: 2 chương; 5 tiết
- Phần cuối là Phần kết luận – tổng kết lại vấn đề

4


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, HỒ CHÍ
MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ
THỂ KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
1.1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA
CÁC CHỦ THỂ KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
Từ lâu, C.Mác đã chỉ ra quy luật chung cho mọi thời đại, mọi phương thức sản
xuất, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có
những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những
quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của
các lực lượng sản xuất vật chất của họ” [12; tr14].
Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển đến đâu thì quan hệ sản xuất phát triển
tương ứng tới đó. Sự phát triển vượt trước hay tụt hậu của quan hệ sản xuất so với sự
phát triển của lực lượng sản xuất đều làm cản trở sự phát triển của sức sản xuất xã hội.
Vì vậy, không thể xóa bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào đó khi lực lượng sản
xuất tương ứng với nó đang còn sức sống, đang còn là một tất yếu kinh tế đối với sự
phát triển của xã hội, về điều này, C.Mác đã viết: “ không một hình thái xã hội nào diệt

vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy
đủ cho sự phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn,
cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những
quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”[12; tr15,16].
Sự thay thế quan hệ sản xuất này bằng một quan hệ sản xuất khác cao hơn,
C.Mác và Ph.Ăngghen coi đó như là quá trình lịch sử tự nhiên. Điều này có nghĩa là
nó phải tuân theo quy luật kinh tế khách quan, không thể áp đặt ý muốn chủ quan của
một cá nhân hay một giai tầng nào trong việc thay thế quan hệ sản xuất. Vì vậy, rút
kinh nghiệm trong quá khứ từ bài học nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay là phải tìm ra cơ chế, chính sách thích hợp để tạo địa
bàn đầy đủ cho các thành phần kinh tế phát triển, mọi rào cản của kiểu quản lý hành

5


chính, quan liêu trước đây phải được phá bỏ, nếu không sẽ là lực cản đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, ra đời 1848, C.Mác và
Ph.Ăngghen đều cho rằng: giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền sẽ dùng sự
thống trị của mình để đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung
toàn bộ công cụ sản xuất vào tay nhà nước. Xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản phải được
tiến hành từng bước. Các ông cũng cho rằng: trong tiến trình cuộc vận động thì những
biện pháp ấy sẽ vượt qua bản thân chúng, tức là đạt tới sự tất yếu về kinh tế và ở
những nước khác nhau thì những biện pháp sẽ khác nhau rất nhiều. Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen, những biện pháp mà các ông đưa ra chỉ có thể áp dụng phổ biến cho
những nước tiên tiến nhất. Ở đó, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất phát
triển ở trình độ cao, có khả năng tạo địa bàn đầy đủ nhất cho sự ra đời của quan hệ sản
xuất mới tiến bộ. C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo về một xã hội cộng sản tương lai có
thể ra đời ở các nước tư bản phát triển nhất và hình thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản ở các nước này là quá độ trực tiếp. Do vậy, đối với Liên Xô, Đông

Âu trước đây cũng như Việt Nam hiện nay là những nước có trình độ lực lượng sản
xuất kém phát triển, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá độ gián tiếp và áp dụng các
biện pháp hành chính trong việc xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu một
cách gò ép là không phù hợp. Thực tiễn ở nước ta hiện nay cho thấy trình độ lực lượng
sản xuất phát triển rất không đều ở các ngành, vùng, lĩnh vực. Vì vậy, không thể mở
rộng việc xây dựng thành phần kinh tế nhà nước một cách vô hạn độ và cũng không
thể gò ép sự phát triển của các thành phần kinh tế khác khi mà ở các ngành, vùng, lĩnh
vực đó đang còn cần đến chúng để phát triển lực lượng sản xuất. Vì thế, tỷ trọng các
thành phần kinh tế trong các ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế là do trình độ lực lượng sản
xuất ở các ngành, vùng, lĩnh vực đó quy định và mối quan hệ về tỷ trọng này cũng
thường xuyên thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất ở đó.
Xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là một quá trình lâu dài, phức tạp,
trải qua những cơn đau đẻ kéo dài, không phải đã phát triển trên cơ sở vật chất của
chính mình. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen trên mọi phương diện, xã hội cộng sản chủ
nghĩa còn mang những dấu vết của xã hội cũ: “cái xã hội mà chúng ta nói đây không
phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó, mà trái lại
là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là
6


một xã hội, về mọi phương diện – kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu
vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” [12; tr33]. Như vậy, khi Việt Nam bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì những thành
phần kinh tế của xã hội cũ không mất đi ngay và cũng không thể xóa bỏ chế độ tư hữu
ngay lập tức; các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chắc
chắn sẽ còn tồn tại lâu dài. Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản” khi trả lời câu hỏi: liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?
Ph.Ăngghen trả lời rằng: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực
lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền
kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những

triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ
khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó
thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”[12; tr469].
Khi Cách mạng Tháng Mười thành công, nước Nga bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong hoàn cảnh bị các nước đế quốc bao vây, can thiệp quân sự và 3 năm
nội chiến kéo dài từ năm 1918 đến năm 1920. Trong tình hình đó, Đảng Cộng sản Nga
đã áp dụng “Chính sách cộng sản thời chiến” thực hiện bước quá độ trực tiếp từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, bỏ qua những bước trung gian quá độ, chuyển
ngay sang nền sản xuất quốc doanh và sang việc phân phối theo những nguyên tắc của
chủ nghĩa cộng sản. Việc làm đó đã gây trở ngại cho phát triển lực lượng sản xuất và
là nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị sâu sắc hồi mùa
xuân năm 1921. Nước Nga lúc này đứng trước những khó khăn kinh tế chồng chất,
mùa màng thất bát càng làm cho quần chúng lao động thêm điêu đứng, đất nước lâm
vào tình trạng khan hiếm nhiên liệu trầm trọng, đa số các xí nghiệp nằm không, nhiều
đường sắt phải ngừng hoạt động. Nền kinh tế vô cùng gay go, làm cho tình hình chính
trị trở nên phức tạp, giai cấp công nhân bị tản mạn, một bộ phận bị mất gốc giai cấp.
Điều đó làm suy yếu cơ sở xã hội của chuyên chính vô sản, đe dọa sự tồn tại của chính
quyền Xôviết. Nông dân bất bình với chế độ trưng thu lương thực thừa, chính sách này
không khuyến khích được nông dân phát triển kinh tế của họ. “Chính sách cộng sản
thời chiến”, bất đắc dĩ phải thực hiện trong lúc có chiến tranh – mâu thuẫn gay gắt với
những điều kiện mới, hòa bình xây dựng kinh tế. Theo V.I.Lênin đây là việc làm sai
lầm và trái với những nhận định về bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
7


hội do chính ông đưa ra từ đầu năm 1918. Từ đó, V.I.Lênin khẳng định rằng: Tất yếu
phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó
càng ít phát triển thì bước quá độ đó càng dài), quá độ thông qua việc thực hiện kiểm
kê và kiểm soát xã hội chủ nghĩa sang dù chỉ là một trong những bước đi ban đầu tiến
lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Như vậy, xét cả về lý luận cũng như thực tiễn, thực hiện bước quá độ trực tiếp
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở một nước chủ nghĩa tư bản kém phát triển,
nển kinh tế tiểu nông còn phổ biến như ở nước Nga là không thể được, hậu quả là
khủng hoảng kinh tế trần trọng, là nguy cơ đe dọa nền chính trị. Đảng Cộng sản mất
uy tín trước nhân dân, bản chất giai cấp của Đảng bị suy giảm, chính quyền mất dần
khả năng điều hành đất nước. Để khắc phục trình trạng trên, cần thiết phải thực hiện
bước quá độ gián tiếp bằng một loạt các bước quá độ đặc biệt: “…Không nghi ngờ gì
nữa, ở một nước trong đó những người sản xuất – tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân
cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp
quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển[6; tr68, 69].
Thực chất đó là việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khôi phục chủ
nghĩa tư bản trên một mức độ lớn. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
không phải chỉ có kết cấu kinh tế xã hội chủ nghĩa mà còn có kết cấu kinh tế của xã
hội cũ-tư bản chủ nghĩa. Với cách xem xét khoa học, nhưng rất hiện thực, V.I.Lênin
chỉ rõ trong thời kỳ quá độ có nhiều thành phần kinh tế, mỗi thành phần kinh tế còn là
một mảnh, một bộ phận của hai kết cấu kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa. Ông chỉ ra các thành phần kinh tế và nhận xét “nước Nga rộng lớn và hỗn tạp
đến mức các loại hình khác nhau của kết cấu kinh tế - xã hội đều xen kẽ với nhau ở
trong nó” [11; tr248]. Đó là:
- Thành phần kinh tế nông dân kiểu gia trưởng
- Thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ
- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
- Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
- Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
V.I.Lênin cũng cho rằng: sẽ là sai lầm nếu không đếm xỉa tới toàn thể các kết cấu kinh
tế - xã hội hiện có. Đồng thời, ông nhấn mạnh rằng: “phải biết nghĩ đến những mắt
xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia trưởng, từ
8



nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội” [11; tr276]. Một trong những mắt xích trung
gian tốt nhất tạo điều kiện cho nhà nước thực hiện kiểm kê, kiểm soát các thành phần
kinh tế của đất nước, đó là thực hiện các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Theo cách nói của V.I.Lênin, đây là “phòng chờ” để đi vào chủ nghĩa xã hội. Và, nếu
chưa đi qua “phòng chờ” đó thì chúng ta chưa thể vào cửa chủ nghĩa xã hội được. “Vì
chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã
hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là
sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy chúng ta phải lợi dụng chủ
nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước)
làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện,
con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên” [11; tr276].
Trong nhiều bài viết, phát biểu và cả những bức thư cuối đời, V.I.Lênin luôn
đánh giá thương nghiệp và những quan hệ hàng hóa – tiền tệ không phải với tư cách là
biện pháp tạm thời khôi phục lại những mối liên kết kinh tế giữa thành thị và nông
thôn đã phá vỡ trong thời gian thực hiện “Chính sách cộng sản thời chiến” mà với tư
cách một quan điểm cơ bản trong chính sách kinh tế của Đảng không chỉ trong suốt kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn cả trong giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Cùng với đánh giá đó, V.I.Lênin nhấn mạnh sự cần thiết phải
khắc phục nhận thức sai lầm của một cán bộ đảng và nhà nước cho rằng: chủ nghĩa xã
hội và thị trường là hai vấn đề không thể dung hợp được, là những hiện tượng rất xa lạ
với nhau và không có liên hệ gì với nhau. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị
trường không những có thể mà còn cần thiết phải được kết hợp lại với nhau bởi sự kết
hợp ấy tạo ra khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Về nhận định này trong
bài “Để kỷ niệm lần thứ tư cuộc Cách mạng Tháng Mười”, V.I.Lênin đã viết: “Một
nhà buôn sỉ, cái đó có vẻ như một loại điển hình kinh tế, cách xa chủ nghĩa cộng sản
chẳng khác nào đất với trời. Nhưng, trong thực tế sinh động, chính đó lại là một trong
những mối mâu thuẫn sẽ dẫn chúng ta từ nền kinh tế tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã
hội, thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước” [14; tr50].
Thực tiễn, chỉ sau một thời gian ngắn chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, sử dụng phổ biến quan hệ hàng hóa – tiền tệ, nền kinh tế Nga đã đi vào thế

ổn định và có bước phát triển, đời sống người lao động được cải thiện; nhân dân phấn
khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền Xôviết được củng cố.
9


1.2 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ
THỂ KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình chỉ đạo cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, xuất phát từ đặc điểm to lớn của nền kinh tế Việt Nam là nước
thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn tiến
thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cho
nên việc phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới và cải tạo quan
hệ sản xuất cũ phải được tiến hành dần dần từng bước vững chắc, tránh sự nôn nóng,
chủ quan, áp đặt. Tháng 7/1956, trong bài nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp
II, cấp III, và Hội nghị sư phạm, sau khi trả lời chủ nghĩa xã hội là gì? chủ nghĩa xã
hội là làm cho dân giàu, nước mạnh; làm theo năng lực phân phối theo lao động và
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì chúng ta chưa có chủ nghĩa xã hội. Muốn có chủ nghĩa
xã hội, chúng ta phải xây dựng. Đây là công việc khó khăn, phức tạp, không thể làm
mau được trong một sớm một chiều, mà phải tiến hành dần dần. Trong bước quá độ đó
là phải sử dụng các thành phần kinh tế. Ở nông thôn phải đi từ cải cách ruộng đất đến
nông trường. Ở thành thị phải có những xí nghiệp quốc doanh lớn, phải sử dụng các
nhà tư sản, hướng họ vào công tư hợp doanh. Bác nói : “Thế ta đã đến đấy chưa? chưa
đến. Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được là phải làm dần dần. Ở nông thôn phải
có tổ đổi công để tăng gia sản xuất rồi tiến lên hợp tác xã, tiến lên nông trường… Cho
nên, lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho
tốt, cho khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn,
lúc bấy giờ mới có chủ nghĩa xã hội.
Ở thành thị, Chính phủ có những xí nghiệp lớn… Dần dần như bên Trung
Quốc, ta sẽ khuyên các nhà tư sản – không phải bắt ép mà giáo dục , thuyết phục họ chung vốn với Chính phủ. Các nhà tư sản sẽ hợp tác với Chính phủ để sản xuất dưới
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

- Phải hướng về phía ấy, mà công tư hợp doanh cũng còn phải tiến lên nữa. Các
nhà tư sản sẽ thấy công tư hợp doanh có lợi, không có hại, dần dần họ thấy nhất định
phải tiến lên chủ nghĩa xã hội”[13; tr226, 227].
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với tính cách là một cuộc biến đổi khó khăn
nhất, sâu sắc nhất, từ gốc đến ngọn, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng và
trong điều kiện đất nước bị chia cắt, lại vừa thoát khỏi từ ách thuộc địa phong kiến hết
10


sức lạc hậu – Bác luôn trăn trở đặt câu hỏi: “Trong những điều kiện như thế, chúng ta
phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội”[13; tr494]. Theo Hồ Chí Minh, một trong những giải pháp để tiến lên
chủ nghĩa xã hội là sử dụng các thành phần kinh tế. Bác cho rằng: cần có quan niệm
đúng đắn về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, từ đó có chính sách sử dụng và
cải tạo thích hợp... Kinh tế hợp tác và hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân
dân lao động; Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát
triển.
Chúng ta phải phát triển thành phần kinh tế quốc dân để tạo nền tảng vật chất
cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa… Đối với người làm nghề
thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất
của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức
hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm
làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch của Nhà nước, Đồng thời, Nhà
nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư
hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Như vậy, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, xem việc tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội như một tất yếu khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, xây

dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chính điều này sẽ tạo ra động lực to
lớn cho sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng,
mặc dù điều đó đã được Hồ Chí Minh chỉ ra từ rất sớm, nhưng có thời kỳ, chúng ta
chưa nhận thức đầy đủ và chưa làm đúng. Do đó, chưa tạo được sự phát triển mạnh
mẽ, bền vững của nền kinh tế. Một số thành phần kinh tế chưa được chú ý, chưa có sự
quan tâm đúng mức. Do đó, hạn chế sự phát triển cũng như sự đóng góp đối với đất
nước. Thậm chí có lúc, ta coi kinh tế tư nhân ngoài hợp tác xã là phi xã hội chủ nghĩa.
Với đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, Đảng ta đã chỉ ra cơ cấu
kinh tế Việt Nam gồm 5 thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân;
kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Không những thế, Đảng ta
còn khẳng định các thành phần kinh tế đều bình đẳng, được tạo điều kiện ổn định và
11


phát triển lâu dài. Điều này, chính là chúng ta đã trở lại đúng với luận điểm có tính
nguyên tắc về phát triển kinh tế trong tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Điều đó góp phần bảo đảm sự ổn định, phát triển và tăng trưởng của kinh tế Việt Nam
những năm vừa qua, cũng như những năm tiếp theo; bởi đó là những luận điểm đúng
đắn, khoa học, khai thác được một cách triệt để các nguồn lực của xã hội.
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ
CỦA CÁC CHỦ THỂ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.3.1 Giai đoạn trước đổi mới
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều
kiện một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ phát triển xã hội thấp, lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Trước năm 1986, Việt Nam cũng như nhiều nước xã hội
chủ nghĩa khác đã áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xôviết, mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, mà thực chất là mô hình kinh tế cứng nhắc phi
thị trường, quá đề cao vai trò của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa dưới hai hình
thức: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, còn các thành phần kinh tế khác bằng
những chính sách, biện pháp hành chính, áp đặt nóng vội để đẩy nhanh tiến độ cải tạo

xã hội chủ nghĩa đối với chúng với mục tiêu chính không phải là để huy động, phát
triển, mà là hạn chế, thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế được gọi là “phi
xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định: phải xây
dựng kinh tế quốc doanh lớn mạnh nhanh chóng, chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu
thông, phân phối. Đi đôi với cải tạo quan hệ sản xuất, cần sắp xếp lại lực lượng sản
xuất cho hợp lý trong phạm vi toàn ngành.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) chủ trương sớm hoàn
thành và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Đại hội V, Hội nghị Trung ương 5 khóa V
(12/1983) chủ trương: phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải tạo xã hội chủ nghĩa; nhà nước
phải nắm hàng, nắm tiền, xóa bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải sản
quan trọng; thống nhất quản lý giá… Trong hợp tác xã nông nghiệp thì quản lý, điều
hành chặt chẽ tất cả các khâu theo kế hoạch…

12


Tiếp theo, Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) vẫn chủ trương: đẩy mạnh
cải tạo xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, cải tạo thị trường tự
do…
Kết cục là thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể) phát triển
nhanh về số lượng, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, nhưng hiệu quả sản xuất –
kinh doanh thấp và ngày càng có xu hướng giảm sút.
Công bằng mà nói, trong một thời gian, mô hình kinh tế này đã từng phát huy tác
dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa theo kiểu cổ điển, tập
trung được các nguồn lực, sức người, sức của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng càng về sau,
nó càng bộc lộ những khiếm khuyết, mà chủ yếu là các nhu cầu của xã hội vượt quá
khả năng đáp ứng của một nền kinh tế kém hiệu quả, thiếu năng động do thực hiện cơ

chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu và chế độ phân phối bình quân chủ nghĩa. Chính
điều đó, đã kìm hãm, làm thui chột động lực và tính cạnh tranh giữa các lực lượng
kinh tế, không huy động và sử dụng được các nguồn lực của đất nước để tạo đà cho sự
phát triển. Cộng với công tác chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý cũng phạm phải một số sai
lầm, mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm ấy là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật kinh tế khách quan, nhận thức về chủ
nghĩa xã hội không đúng với thực tế của Việt Nam, khiến cho nền kinh tế lâm vào tình
trạng trì trệ kéo dài, rồi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài: sản xuất
phát triển chậm, kém hiệu quả và bấp bênh, tình trạng thiếu hụt, khan hiếm hàng hóa
(kể cả lương thực); lạm phát phi mã (774,7% năm 1987), đời sống nhân dân rất khó
khăn… Đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế cũ, lạc hậu và phát triển kinh tế đã trở thành đòi
hỏi bức thiết và tất yếu đối với Việt Nam. Để thoát khỏi tình thế “nguy nan” của nền
kinh tế Việt Nam trong nửa đầu thập niên 1980, rõ ràng là cần có sự đột phá lớn. Công
cuộc tìm tòi, thử nghiệm vượt thoát trước đổi mới đã được đặt ra đối với Đảng Cộng
sản và nhân dân Việt Nam.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ sáu,
khóa IV (8/1979), với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”, có thể coi là sự “đột phá
đầu tiên” trong việc thay đổi chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa
là khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội

13


chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào chắn để
cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tháng 1/1981, Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam về “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” đã tạo ra động lực mới trong
sản xuất nông nghiệp (phù hợp với lợi ích chính đáng của người nông dân) và do đó đã
làm thay đổi cơ bản tình hình nông nghiệp trong một thời gian ngắn. Đây cũng là bước
điều chỉnh mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam. Cùng với Chỉ thị số 100,

Quyết định số 25/CP của Chính phủ về “một số chủ trương và biện pháp phát huy
quyền chủ động sản xuất – kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp
quốc doanh” là một sự điều chỉnh quan trọng cơ chế quản lý công nghiệp.
Những cuộc thử nghiệm ban đầu, những cải biến và thay đổi cục bộ trong
khuôn khổ của cơ chế cũ – tuy theo một xu hướng tích cực và nhất thời, tháo gỡ được
một số khó khăn, ách tắc trên lĩnh vực kinh tế, nhưng cũng xuất hiện những bất cập,
sai lầm mới, vì vậy đòi hỏi phải có những bước đột phá mới để thoát ra khỏi khó khăn,
đổi mới phải mang tính cách mạng và triệt để.
1.3.2 Giai đoạn đổi mới
Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển sang vận hành theo cơ chế mới từ năm
1986. Sự kiện đánh dấu bước chuyển này là việc khẳng định đường lối đổi mới kinh
tế: Phát triển nền kinh tế kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên
chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược, lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối kinh tế ấy tiếp tục khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VII. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [7; tr86].
Thực tiễn chứng tỏ rằng, sự lựa chọn ấy là đúng đắn, xét trên cả tầm chiến lược
lâu dài, lẫn từ góc độ tính cấp bách và gay gắt của tình hình Việt Nam tại thời điểm đó.
14


Thực tiễn đổi mới kinh tế từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, đã cho thấy Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã có sự đổi mới tư duy về nhiều vấn đề trên những lĩnh vực

quan trọng, đặt nền tảng và thúc đẩy sự hình thành, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đó vấn đề đầu tiên và quan trọng là sự đổi
mới lý luận – thực tiễn về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gần 20
năm qua, Đảng ta luôn luôn có những bổ sung, hoàn thiện nhận thức về các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa (nay là kinh tế thị trường) định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm chủ quan,
nóng vội, muốn “đốt cháy giai đoạn” trong việc cải tạo các thành phần kinh tế được
gọi là “phi xã hội chủ nghĩa”. Việc làm này trong quá khứ đã vi phạm nghiêm trọng
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
và cho đến nay những “dư âm”, “mặc cảm” không tốt đối với cải tạo xã hội chủ nghĩa
vẫn chưa khắc phục hết. Đồng thời, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đưa ra những quan
niệm mới về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là thừa
nhận sự tồn tại khách quan sản xuất hàng hóa và thị trường, khẳng định chuyển hẳn
sang hạch toán kinh doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên, về vấn
đề này, khi đó cũng chưa phân biệt rõ ràng thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
tế và các chủ thể kinh tế, do chưa đưa ra được các tiêu thức để phân định các thành
phần kinh tế. Nói các thành phần kinh tế ở đây chỉ là nói hiện trạng các thành phần,
các hình thức kinh tế, các chủ thể kinh tế ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu, khóa VI (3/1989) đã
phát triển thêm và đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm
nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành
phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã
hội”. Như vậy là văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu,
khóa VI đã coi các thành phân kinh tế là những bộ phận hợp thành của nền kinh tế
hàng hóa có kế hoạch.


15


Để triển khai các quan điểm của Đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
các nghị quyết, các bộ luật, các văn bản pháp quy nhằm định hướng và tạo môi trường
pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế trong nền kinh
tế hàng hóa. Đó là:
- Nghị quyết số 15 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa VI
(15/7/1988) về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở kinh tế ngoài
quốc doanh. Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty (1990) được sửa đổi, bổ sung
và hợp nhất thành Luật Doanh nghiệp (1999).
- Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (1987) và qua 4 lần sửa đổi (các
năm 1990, 1992, 1996 và 2000).
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, sau Đại hội VI của Đảng, Nghị định số 10 của
Bộ chính trị đã ra đời (4/1988), mở đường cho nông dân được làm chủ tư liệu sản xuất.
Các giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh các quan hệ sở hữu trong các hợp tác xã nông
nghiệp được Nghị quyết số 10 đưa ra là: Thực hiện giao khoán ruộng đất dài hạn (10 15 năm) đến hộ xã viên; hóa giá trâu bò; chuyển nhượng, đấu thầu những tư liệu sản
xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật mà tập thể quản lý kém hiệu quả cho các hộ nông dân,
nông hộ được quyền mua sắm tư liệu sản xuất để đầu tư, mở rộng sản xuất. Thực chất
đó là một giải pháp quan trọng nhằm khai thác tốt các nguồn lực, thúc đẩy kinh tế hộ
phát triển.
Ở tầm vĩ mô, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, khóa
VI, đã xác định rõ: xã viên chỉ có một nghĩa vụ duy nhất là nộp thuế cho nhà nước,
được tư do lưu thông sản phẩm ở nơi có lợi nhất. Nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ sáu, khóa VI, đề ra chủ trương, chính sách một giá, thương
mại hóa vật tư nông nghiệp, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ.
Đối với kinh tế quốc doanh, để nâng cao vai trò chủ thể tự chủ kinh doanh theo
cơ chế thị trường, Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng có ghi: “Phải đổi mới cơ
chế quản lý, đảm bảo cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ ,thực sự
chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa”[14; tr58]. Triển khai tư tưởng

này của Đại hội VI, Chính phủ (trước là Hội đồng Bộ trưởng) đã ban hành:
- Quyết định số 217/HĐBT, ngày 14/11/1987, nhằm mục tiêu áp dụng cơ chế
thị trường cho việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước

16


- Nghị định số 50/HĐBT, ngày 22/3/1988, “Về việc ban hành điều lệ xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh”
- Nghị định số 98/HĐBT, ngày 2/6/1988, ban hành quy định “Về quyền làm
chủ tập thể lao động tại xí nghiệp”
- Tiếp theo, năm 1990, nhà nước thí điểm và năm 1991 áp dụng rộng rãi quyền
tự chủ quản lý, sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn tại doanh nghiệp
- Cùng nhiều luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác, đã tạo nên khung
khổ pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành
phần kinh tế và đã tạo cơ sở pháp lý cho ra đời và trở thành những chủ thể kinh tế sản
xuất hàng hóa.
Đánh giá những thành tựa bước đầu về đổi mới kinh tế, Đại hội lần thứ VII của
Đảng ta (6/1991) đã khẳng định: Thành tựu đầu tiên của Đảng trên lĩnh vực kinh tế là
đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình
kinh tế (lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu)… Những kết quả
thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế gắn liền với những chuyển biến
tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ cấu kinh tế [5; tr17-20].
Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần. Chính sách này đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi
nhanh vào cuộc sống. Chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân
dân về kinh tế; khơi dậy được tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản
xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm và sản phẩm cho xã hội; thúc đẩy sự hình thành và
phát triển nền kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường.
Tuy nhiên, “Trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,

vận động theo cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều hiện
tượng tiêu cực mới mà chúng ta chưa lường hết, chậm phát hiện và chưa xử lý tốt” [5;
tr25].
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991) tiếp tục khẳng định đường lối phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do Đại hội VI đề ra và cho rằng đây là chủ
trương chiến lược và là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đại hội lần
thứ VII của Đảng đã bổ sung 2 điểm:
- Theo định hướng xã hội chủ nghĩa

17


- Vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đồng thời chỉ rõ
trong nền kinh tế hàng hóa này có 5 thành phần kinh tế:
+ Kinh tế quốc doanh;
+ Kinh tế tập thể;
+ Kinh tế cá thể;
+ Kinh tế tư bản tư nhân;
+ Kinh tế tư bản nhà nước.
Trong đó, kinh tế quốc doanh “thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một
công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước”. Như vậy, Đại hội VII đã có sự thay đổi cách
sắp xếp các thành phần kinh tế.
Đại hội lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chúng ta chủ trương thực
hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu
nhập hợp pháp. Các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau hình thành các
tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự
chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau,bình đẳng trước pháp luật” [5; tr115116].
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (9/1994) đã bổ
sung, cụ thể hóa thêm chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế

nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh và hiệu quả.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã đưa ra một kết luận mới rất quan
trọng: Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển
của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Đồng thời , Đại đội VIII
cũng đã xác định những chủ trương, chính sách lớn đối với việc phát triển các thành
phần kinh tế. Đại hội tiếp tục khẳng định trong nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có 5
thành phần kinh tế, nhưng cách sắp xếp và tên gọi khác với Đại hội lần thứ VII. Cụ thể
là kinh tế Nhà nước thay cho kinh tế quốc doanh; kinh tế hợp tác thay vào chỗ kinh tế
tập thể; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.

18


Thể chế hóa các quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng hóa, gồm
nhiều thành phần, đi lên chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta đã ban hành các đạo luật:
- Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995)
- Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (6/1994)
- Luật Hợp tác xã (1999)
- Bộ Luật Dân sự (1996)
- Các Luật Thương mại, Luật Phá sản doanh nghiệp, các luật thuế… đã tạo nên
môi trường pháp lý thuận lợi và ổn định cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
chủ thể sản xuất hàng hóa thuộc các thành phần kinh tế.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng không chỉ phát triển những quan điểm của Đại
hội lần thứ VII mà còn phát triển thêm – đưa ra 6 quan điểm định hướng xã hội chủ
nghĩa trong việc xây dựng, phát triển các thành phần kinh tế - bộ phận cấu thành của
nền kinh tế hàng hóa. Đó là :
“Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên
trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã
hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích
phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế
hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần
trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư
nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa
kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ
biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản
xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực
khác vào kết quả sản xuất – kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa
nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để biến
thành quan hệ thống trị, dẫn tới sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập. Phân phối và
phân phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói,
19


giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển
giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
- Tăng cường hiệu quả quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò
tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ
chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi
doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan
quan hệ kinh tế với bên ngoài” [6; tr91-93].
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001), đã khẳng định mô hình kinh tế tổng quát

của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu (trong đó, sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể và sở hữu tư nhân là các hình thức sở hữu cơ bản); có nhiều thành phần
kinh tế. Đó là:
-

Kinh tế nhà nước;

-

Kinh tế tập thể;

-

Kinh tế cá thể, tiểu chủ;

-

Kinh tế tư bản tư nhân;

-

Kinh tế tư bản nhà nước;

-

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.


Khẳng định các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chức của nền kinh tế quốc dân.
Đại hội là thứ IX của Đảng cũng đã nhấn mạnh: xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phải “Phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần
kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau”.
Để phản ánh đúng hơn tình hình thực tế ở nước ta, Đại hội lần thứ IX của Đảng
đã bổ sung thêm thành phần kinh tế thứ sáu – kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

20


Trên thực tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được thừa nhận bởi chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng. Cơ sở pháp lý cho
sự ra đời và phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành ngay từ năm
1987 – Nhà nước ban hành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và đã
qua 4 lần sửa đổi (1990, 1992, 1996, 2000). Từ đó ngày càng có nhiều tổ chức và cá
nhân người nước ngoài đầu tư kinh doanh ở Việt Nam và đã có những đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế Việt Nam.
Kế thừa tư duy của Đại Hội IX, Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) đã làm sáng
tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí:
- Mục tiêu phát triển : Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng

lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người
đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích
tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư
bản.
- Phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong
mỗi cá nhân và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh
tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công
cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa
học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào
bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã
hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các
tư liệu sản xuất chủ yếu.

21


- Định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề
xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện thông qua
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội.
Đồng thời, để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
- Quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản
lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi
người.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X
khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể , tư nhân), hình thành
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế:
- Kinh tế nhà nước;
- Kinh tế tập thể;
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân);
- Kinh tế tư bản nhà nước;
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp
luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền
kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động
lực của nền kinh tế”[8; tr83].

22


Nhận thức là một quá trình, điều đó thể hiện rõ qua tư duy kinh tế mới của
Đảng ta trong đường lối đổi mới kinh tế. Công cuộc đổi mới toàn diện và triệt để trong
chiến lược phát triển gắn liền với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đã thừa nhận không chỉ trên phương diện lý luận, mà cả
trên thực tế, các thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

23


×