Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủa nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.4 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A. Lời nói đầu
Trong sự phát triển lịch sử các mô hình kinh tế thế giới thì mô hình kinh tế thị
trờng tỏ ra có u điểm hơn so với các mô hình kinh tế tự nhiên,kinh tế tập trung
( kinh tế- kế hoạch hoá ). Mặc dù nó có những khuyết tật, hạn chế nhng tỏ ra năng
động phù hợp với trình độ phát triển hiện nay của các nớc trên thế giới . Kinh tế
thị trờng là thành tựu chung của văn minh nhân loại,nó là sản phẩm của hoạt động
kinh tế lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn. Ngày nay,hầu hết các nớc trên thế giới
đều áp dụng mô hình kinh tế thị trờng một cách sáng tạo cho phù hợp với những
đặc trng màu sắc riêng của mỗi nớc..Việt Nam một đất nớc vừa trải qua hai cuộc
chiến tranh và đang xây dựng lại tổ quốc cũng không nằm ngoài xu thế đó.Hơn
nữa chúng ta đang tiến hành công cuộc cải cách,đổi mới theo dờng lối của đảng
trong khoảng 15 năm, một khoảng thời gian lịch sử quá ngắn ngủi. Do đó chúng
ta không có nhiều kinh nghiệm về quản lí thị trờng và còn đơng đầu với nhiều vấn
đề còn gay gắt.Bởi vậy việc nghiên cứu rút kinh nghiệm từ mô hình kinh tế thị tr-
ờng của các nớc khác nhằm khắc phục đợc những hạn chế, khuyết tật vốn có của
nó cũng nh vận dụng thành công trong mô hình của các nớc trên thế giới là một
việc có ý nghĩa cấp bách đói cới công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay cũng
nh trong thời gian tới.

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B. Nội dung
I. Sự cần thiết phải hình thành,phát triển kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Thực trạng nền kinh tế nớc ta khi phát triển nền kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng thì nớc ta đứng trớc một thực trạng
không mấy sáng sủa, mặc dù chúng ta đã có sản xuất hàng hoá nhng cha phải là
sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa của nó. Sở dĩ nh vậy là do nhiều nguyên nhân
khác nhau tác động đến, trớc hết là do đất nớc ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh


lâu dài với những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế. Hơn nữa t tởng kinh tế của
chúng ta vẫn còn chịu ảnh hởng nặng nề của kinh tế tự cung tự tự cấp, kìm hãm sự
phát triển của lực lợng sản xuất dẫn đến trình độ phát triển của lực lợng sản xuất
xã hội là rất thấp. Bên cạnh đó, một nguyên nhân mang tính khách quan nữa là do
phân công lao động nớc ta còn thấp cha đáp ứng đợc xu thế của sự phát triển. Từ
đo ta có thể nói rằng thực trạng nền kinh tế của nứơc ta khi chuyển sang kinh tế thị
trờng là nền kinh tế kém phát triển, còn mang nặng tính tự cung tự cấp và chịu ảnh
hởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó đợc biểu hiện
ở những mặt dới đây:
Thứ nhât, là cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém, kết
cấu hạ tầng phục vụ sản xuất cha đầy đủ. Một mặt đó là do hậu quả của hai cuộc
chiến tranh xảy ra, mặt khác là do nớc ta cha mở rộng giao lu với các nớc trên thế
giới, cha học hỏi đợc trình độ kỹ thuật tiến của thế giới, cha thu hút đầu t nớc
ngoài vào nớc ta.
Thứ hai, là cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, chứng tỏ một điều
là chúng ta cha tôn trọng và vận dụng những quy luật khách quan, t tởng kinh tế
vẫn còn chủ quan duy ý chí. Cụ thể cơ cấu kinh tế còn mất cân đối nghiêm trọng
giữa công nghiệp và nông nghiệp, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế, hiện tợng độc canh cây lúa còn khá phổ biến, cây công nghiệp có giá
trị cao cha có cơ hội phát triển, đồng thời các ngành nghề cha phát triển chính vì
thế có thể nói cơ cấu kinh tế nớc ta còn mang nặng đặc trng của một cơ cấu kinh tế
nông nghiệp. Tuy từ Đại hội VI của Đảng đến nay Đảng và Nhà nớc ta đã có chủ
trơng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đã đạt đợc một số thành tựu đáng khích lệ nh-
ng chúng ta vẫn cha hình thành đợc một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả.
Thứ ba, là cha hình thành đợc thị trờng đúng nghĩa của nó, ở nớc ta thị trờng
còn mang tính sơ khai, hoang sơ, các quan hệ tiền tệ hàng hoá cha hình thành một
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cách rõ nét, chúng ta cha có thị trờng sức lao động, thị trờng tiền tệ, thị trờng vốn
hoặc chỉ mới có thị trờng này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khu vực

kinh tế Nhà nớc về cơ bản vẫn còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế, còn sử
dụng lãi suất, tỷ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nớc quy định cha có tỷ
giá, lãi suất và tín dụng theo cơ chế thị trờng.
Thứ t, là năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu ngời
còn thấp, đời sống nhân dân còn khó khăn.
Thực trạng nền kinh tế hàng hoá còn manh mún nhỏ lẻ, kém phát triển đợc
biểu hiện ra bên ngoài ở năng suất lao động xã hội thấp đời sống nhân dân không
đợc cải thiện là bao, so với các nớc Đông Nam A thì thu nhập tính theo đầu ngời ở
nớc ta vào dạng thấp.
Thứ năm, là do nhận thức cha đầy đủ về nền kinh tế thị trờng kết hợp với t t-
ởng chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hơn nữa một quan niệm
đã đợc hình thành và tồn tại rất lâu từ trớc tới nay trong lí luận về chủ nghĩa xã hội
là cho rằng kinh tế thị trờng và chủ nghĩa xã hội là không thể dung hợp với nhau.
Tất cả những t tởng quan điểm trên đã kìm hãm sự phát triển sản xuất hàng hoá ở
nớc ta, từng bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Tại
Đại hội lần thứ VI chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế cha
thực sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan.
Do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc định các chủ trơng chính sách kinh
tế. Trong nhận thức cũng nh trong hành động chúng ta cha thực sự thừa nhận cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta còn tồn tại trong thời gian tơng đối dài, cha
nắm vững và thực hiện đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất.
Mặt khác do hạn chế của cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn
đến kinh tế nớc ta không thể phát triển đợc và có nguy cơ tụt hậu so với xu hớng
phát triển của nhân loại.
2. Cơ sở khách quan tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam.
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội, gắn
liền với hai điều kiện tiền đề: Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở
hữu khác nhau về t liệu sản xuất và sản phẩm lao động. ở nớc ta, những điều kiện
chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn, nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất

yếu khách quan.
Phân công lao động xã hội với t cách là cơ sở kinh tế của sản xuất
hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển về cả chiều
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
rộng và chiều sâu. ở nớc ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát
triển. Bên cạnh đó những ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nớc
mà cả trên thế giới, có tiềm năng lớn mà trớc đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai
một nay đợc khôi phục và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành,
địa phơng, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó đợc phản ánh ở
tính phong phú, đa dạng và chất lợng cao hơn sản phẩm lao động đa ra trên thị
trờng. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vợt ra khỏi phạm vi quốc
gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Nền kinh tế nớc ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đó la kinh
tế nhà nớc, kinh tế t bản Nhà nớc, kinh tế hợp tác xã, kinh tế t bản t nhân, kinh
tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tự nhiên ở vùng núi. Hơn nữa, trình độ xã hội
hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong vùng cùng một thành
phần kinh tế cha đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh, phân phối và
trao đổi sản phẩm lao động tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ
để thực hiện các mối quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức
kinh tế trong các thành phần với ngời lao động và giữa các tổ chức kinh tế
thuộc các thành phần với nhau.
Nh vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan thu hẹp hay cản trở quá trình
tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những
hình thức khác nhau ( sớm xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế,
quản lý bằng kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp ) sẽ kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế nớc ta. Do đó, chúng ta cần chủ động có những chính sách thích
hợp để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đúng mức, đúng hớng theo
nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu có ngời đáp ứng nhu
cầu đó và ai trong cuộc cạnh tranh vơn tới thoả mãn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu

của xã hội thì ngời đó sẽ tồn tại và phát triển.
3. Sự cần thiết phải phát triển nền kinh tế thị trờng ở nớc ta.
Từ thực trạng của nền kinh tế và xu thế chuyển đổi một cách nhanh chóng
của nền kinh tế thế giới ta có thể khẳng định rằng nớc ta chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN và có sự quản lý
của Nhà nớc là một việc hết sức cần thiết và cấp bách, nếu chúng ta không chuyển
đổi một cách khẩn trơng thì không những chúng ta không theo đợc xu thế phát
triển nh vũ bảo của nền kinh tế thế giới mà chúng ta còn có nguy cơ bị tụt hậu.
Chính vì sự cần thiết đó mà tại Đại hội VI của Đảng đã chủ trơng phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thc hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đảng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ta đã đề ra: kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp thiết lập và
hình thành cơ chế kế hoạch hoá theo phơng thức hạch toán kinh doanh XHCN
đóng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đến Đại hội VII Đảng ta đã xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nớc ta
là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra việc đó, tức là từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo
định hớng XHCN. Tại Đại hội VII Đảng đã khẳng định: Phải tiếp tục xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nứơc.
Đến Đại hội VIII Đảng và Nhà nớc ta tiếp tục xác định việc phát triển kinh
tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN là đúng đắn, là
khách quan. Đảng ta đã đề ra phơng hớng nhiệm vụ cho những năm tới là: Xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng, đi đôi
với tăng cờng vai trò quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN .
Đây là sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng
nh trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế. Xem xét dới góc độ khoa
học thì việc chuyển đổi nền kinh tế nứơc ta sang nền kinh tế thị trờng là hoàn toàn

đúng đắn. Nó vừa phù hợp với thực tế ở nớc ta, nó vừa phù hợp với quy luật khách
quan và xu thế phát triển chung của thế giới.
Nh vậy, với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nớc ta và trớc đòi hỏi của quy
luật khách quan, của xu thế phát triển của thê giới, một lần nữa ta hoàn toàn có thể
khẳng định rằng nớc ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý của Nhà nớc là hoàn toàn đúng đắn, hoàn toàn sáng suốt. Chính
vì vậy Đảng và Nhà nớc và Nhân dân ta đã ra sức dồn tâm, dồn lực để thực hiện ý
tởng đó.
4. Ưu thế và hạn chế của kinh tế hàng hoá ở nớc ta.
Thúc đẩy quá trình xã hội hóa xản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công
lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên
hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và ngời sản xuất, tạo
tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
Thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất. Trong kinh tế hàng hoá sự tác
động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc ngời sản
xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao
động, cải tiến chất lợng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu
xã hội, tìm cách đa ra thị trờng những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu ng-
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ời tiêu dùng Kết quả là thúc đẩy lực l ợng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với
thị trờng.
Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất. Mở rộng giao lu kinh tế trong n-
ớc và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép
kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất, tạo những điều kiện cần
thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thực
hiện dới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
II. Đặc điểm của kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nớc ta đang từng bớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát
triển t bản chủ nghĩa, xu hớng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với
những đặc điểm sau;
1) Nền kinh tế nớc ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém
phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trờng.
Đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa nớc
ta thiếu cái cổt vật chất của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của nền kinh
tế đợc biểu hiện ở những mặt cơ bản nh: cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp
kém; trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiêp lạc hậu, kém
khả năng cạnh tranh; sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính
bảo thủ, trì trệ; phân công lao động cha sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát
triển, thị trờng còn sơ khai; thu nhập của dân c quá thấp, sức mua thấp, nhu cầu
tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi; thiếu một đội
ngũ những ngời quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh
trong và ngoài nớc.
Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ
kinh tế, điều đó biểu hiện:
Từ năm 1986 trở về trớc dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá,
thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ, nhng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá
một thành phần thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về t liệu
sản xuất dới hai hình thức: toàn dân và tập thể.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Với tên gọi kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa, về thực chất là kinh tế chỉ
huy, đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo nh
giá trị, giá cả, lợi nhuận bị hình thức hoá đến cao độ: không phản ánh các quy
luật của thị trờng, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa.
Quy luật trung tâm chi phối sự vận động của kinh tế hàng hoá xã hội chủ
nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, đã biến

nền kinh tế thực tế là Kinh tế chỉ huy.Mục đích hoạt động kinh tế của các cá
nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận nh vốn có của nền kinh tế hàng
hoá mà là tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đợc phát ra
từ một trung tâm.
Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chí chủ quan bị thu hẹp phạm vi
hoạt động, xem nh không hợp pháp hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò
hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế. Các loại hàng hoá đặc biệt hoặc
phi hàng hoá, các thị trờng có tổ chức, có kế hoạch chi phối các lĩnh vực quan
trọng nhất của quá trình tái sản xuất xã hội. Đối lập với kinh tế có kế hoạch đó đợc
coi kinh tế thị trờng tự do bất hợp pháp.
Những quan niệm ấu trĩ trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu
hiện sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất, không tuân theo quá trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển xã hội
nói chung và trong kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho
sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải chấn hng nó
phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với các xu thế thời đại ngày
nay là chuyển sang cơ chế thị trờng.
2) Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần trong
đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo.
Nền KTTT định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta lấy giải phóng sức sản xuất
làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu.
Trong nền kinh tế nớc ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể và sở hữu t nhân, từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Đại hội Đảng
VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tơng ứng với
tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện
nay, đó là: kinh tế Nhà nớc, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế t nhân t bản chủ
nghĩa và kinh tế t bản Nhà nớc.Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế thuộc sở hữu t nhân để hình thành nền kinh tế thị trờng rộng lớn bao
gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế t doanh, các
hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nớc, các hình thức đan xen và
xâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trờng với
t cách chủ thể thị trờng bình đẳng.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trờng ở nớc ta
là nguồn lực tổng hợp to lớn để đa nền kinh tế vợt khỏi tình trạng thấp kém, đa nền
kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nớc hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong
việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý
theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần phải đi đôi với tăng cờng quản lý của Nhà nớc về kinh tế xã hội. Để
hạn chế và khắc phục những hạn chế của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trờng mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng
hớng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nớc phải thực hiện tốt
vai trò quản lý kinh tế xã hội bằng luật phap, kế hoạch, chính sách, thông tin,
tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác.
Trong nền KTTT định hớng xã hội chủ nghĩa nớc ta, kinh tế Nhà nớc là nhân
tố quy định và bảo đảm tính định hớng XHCN của nền kinh tế thị trờng. Kinh tế
Nhà nớc tạo cơ sở kinh tế cho xã hội mới, nó là lực lợng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Xây dựng hệ thống
kinh tế Nhà nớc mạnh chính là tăng cờng thực lực kinh tế của hà nớc, để làm chỗ
dựa, bảo đảm ổn định kinh tế và định hớng cho thị trờng XHCN. Buông lỏng khu
vực kinh tế nhà nớc là buông lỏng định hớng XHCN đối với nền kinh tế thị trờng.
Kinh tế Nhà nớc là nơi thể hiện đầy đủ nhất tính u việt của CNXH: đảm bảo
sự thống nhất giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ
môi trờng sinh thái, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tất cả
phục vụ con ngời trên tầm vĩ mô. Nhà nớc vừa là đại biểu cho toàn bộ nền kinh tế,

vừa là chủ thể của kinh tế Nhà nớc. Do đó nhà nớc phải vừa tôn trọng tính bình
đẳng của các chủ thể kinh tế, vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế
nhà nớc để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ đợc vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nớc phải nắm giữ những khâu, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nớc phải là kiểu mẫu về năng suất, chất lợng, hiệu quả và chấp hành
pháp luật để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH. Kinh
tế Nhà nớc phải có giá trị tổng sản lợng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cao trong ngân sách nhà nớc, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi
ngời lao động
3) Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà
nớc.
Cơ chế thị trờng là gì? Mọi nền kinh tế đều đợc tổ chức bằng cách này hay
cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội.
Việc sản xuất ra hàng hoá gì, việc sản xuất theo phơng pháp nào là tốt nhất, việc
phân phối hàng hoá đợc sản xuất ra sao cho đáp ứng tố nhu cầu của xã hội. Lực l-
ợng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó do các cơ quan của Nhà nớc quyết
định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trờng
quyết định đợc xem là nền kinh tế thị trờng.
Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cuả
nó hoạt động nh quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy
luật lu thông tiền tệ và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó.
Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trờng, thông qua
sự vận động của giá cả thị trờng. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trờng
mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lợng và cơ cấu của sản xuất với khối l-
ợng và cơ cấu nhu cầu của xã hội.
Nh vậy, có thể hiểu cơ chế thị trờng là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng
hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba

vấn đề của tổ chức kinh tế là cái gì, nh thế nào và cho ai. Cơ chế thị trờng bao gồm
các nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trờng.
Vai trò điều tiết của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng là rất quan trọng.
Vai trò đó đợc thực hiên qua các chức năng kinh tế của nó. Có thể nêu nên các
chức năng kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng dới đây.
Một là, đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp
để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức
năng này vợt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nớc tạo ra hành lanh pháp
luật cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra bằng cách đặt ra những điêu luật cơ
bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ
luật pháp mà Nhà nớc thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con
ngời và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo.
Hai là, điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế thị trờng phát triển ổn
định. Nền kinh tế thị trờng khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là giao động lên xuống của
GDP hoặc GNP, kèm theo các giao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm
phát.
Nhà nớc cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh
doanh thông qua chơng trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền
tệ. Chẳng hạn, chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng
chi tiêu của dân chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ơng là ngời
kiểm soát khối lợng tiền tệ có thể áp dụng các biện pháp nới lỏng tiền tệ trong
cơn suy thoái; Khi lạm phát cao, ngân hàng Trung ơng áp dụng các biện pháp
thắt chặt tiền tệ nhằm giảm lạm phát. Nh vậy, thông qua chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ Nhà nớc cố gắng ổn định nền kinh tế duy trì nền kinh tế càng sát
càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của cả hoạt động thị trờng là những tác

động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài, mà các nhà kinh tế gọi là tác
động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài
nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trờng sống của con ngời mà xã hội phải gánh
chịu. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải ra hồ gây ô
nhiễm nguồn nớc địa phơng, làm chết cá, Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp
phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm, mà doanh nghiệp đã gây ra. Sự can
thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu
quả.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trờng
là sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chực độc quyền có thể không tăng thậm chí
giảm số lợng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế đợc
thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhng cạnh tranh làm hạn
chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thờng giảm bới cạnh
tranh. Vì vậy, Nhà nớc có một nhiệm vụ rất cơ bản bảo vệ cạnh tranh và chống
độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trờng.
Bốn là, đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nớc phải sản xuất ra
hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện
công bằng xã hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trờng có thể làm cho nền kinh tế đạt
hiệu quả cao. Nhng cơ chế thị trờng hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến
các khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố
gắng vơn tới. Việc phân phối và sử dụng tối u các nguồn lực không tự động mang
lại một sự phân phối thu nhâp cao.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×