Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH đổi mới tư DUY đối NGOẠI của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM GIAI đoạn từ năm 1986 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

-----o0o-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM
1986 - 2006

Giáo viên hướng dẫn:
Th.s: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

Sinh viên thực hiện:
Họ và tên: Đặng Huỳnh Như

Chuyên ngành: SP GDCD
MSSV: 6075717

Cần Thơ, 04/2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ...................................................................................2
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.........................................................4
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu.......................................................................5
5. phương pháp nghiên cứu ...................................................................................5


PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................3
Chương I: VAI TRÒ VỊ TRÍ ĐỐI NGOẠI NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .........6
1.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò, vị trí của đối ngoại.....6
1.2 Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đối ngoại.............................9
Chương II: TƯ DUY ĐỐI NGOẠI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM17
2.1 Tình hình thế giới những năm 80 của thế kỷ XX ......................................19
2.2 Nhu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam ..................................21
2.3 Tư duy mới của Đảng về đối ngoại Việt Nam...........................................24
2.4 Hoạt động đối ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng giai đoạn (1986
– 2006) ...............................................................................................................47
2.5 Một số bài học kinh nghiệm .......................................................................65
KẾT LUẬN...........................................................................................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................75


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đánh dấu đường lối đổi mới toàn diện để
đưa đất nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội VI cũng diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi, xu thế toàn cầu hoá, hoà
dịu nổi trội trong quan hệ giữa các nước lớn đã có tác động nhất định tới chính sách đối
ngoại của các nước khác, đòi hỏi các nước này phải có những thay đổi nhất định trong
việc hoạch định chính sách của mình. Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt được sự thay đổi
của tình hình thế giới và căn cứ vào hoàn cảnh thực tế trong nước để có những quyết định
về việc phải đổi mới tư duy một cách toàn diện mà trong đó có tư duy đối ngoại.
Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một thế giới mới
đầy biến động đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Nó đã
sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với xu thế thời đại. Nên đã thu được
những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao
vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế, đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và

thế giới, khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định tư duy chính trị nhạy
bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Để có được những thành tựu đó, một trong những nguyên nhân quan trọng là đổi
mới tư duy đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng ta luôn luôn chú trọng công tác
thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm với sự thành công và chưa thành công của
từng thời kỳ để giúp cho việc bổ sung hoàn thiện đường lối, chính sách từng bước đi thích
hợp đưa nước ta vững bước tiến lên.
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, trước những biến động to lớn và toàn diện
của thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ chính trị quốc tế, Đảng cộng sản Việt Nam đã
kịp thời chuyển hướng chiến lược đối ngoại thích ứng với xu thế và yêu cầu, nhiệm vụ
của đất nước. Trong thời kỳ mới, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối
tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển, hoạt động đối ngoại Việt Nam 20 năm qua đã góp phần quan trọng đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; mở rộng được quan hệ song phương và đa
1


phương, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Trên cơ sở khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo đổi mới tư duy của Đảng và mong
muốn tìm hiểu sâu hơn về qúa trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng cộng sản Việt
Nam. Với những lý do nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu quá trình đổi
mới tư duy đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn từ năm (1986 – 2006)”,
Để làm đề tài nghiên cứu của mình. Với tinh thần tìm hiểu đó, tác giả hy vọng rằng qua đề
tề này, mình sẽ tiếp thu được nhiều tri thức mới bổ ích hỗ trợ cho công tác giảng dạy sau
này.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Vấn đề nghiên cứu ở đây tập trung nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy đối ngoại
của Đảng (1986 – 2006) vấn đề đối ngoại từ trước đến nay có nhiều đề tài nghiên cứu và
tìm hiểu như sau:

“Ngoại giao Việt Nam (1945 – 2000)” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002. Đây là công trình nghiên cứu khoa học công phu của tập thể tác giả là các nhà
ngoại giao, các chuyên gia nghiên cứu hàng đầu về quan hệ quốc tế ở nước ta. Cuốn sách
làm sống lại những sự kiện chủ yếu của Đảng, Nhà nước ta và ngoại giao nhân dân trong
nửa cuối của thế kỷ XX.
“Nền ngoại giao đổi mới” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn báo quan
hệ quốc tế đầu xuân 1994.
“Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại của nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam” và “Việt Nam trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định
hướng mới” của Nguyễn Mạnh Cầm Uỷ viên Bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ ngoại giao,
trưởng ban chỉ đạo Nhà nước về biển Đông và các Hải đảo.
“Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VIII” của Vũ Khoan thứ trưởng Bộ ngoại giao
đăng trong tạp chí quốc tế.
“Cục diện thế giới, vận nước” của thứ trưởng Bộ ngoại giao Trần Quang Cơ, đăng
trong tạp chí quan hệ quốc tế 1 - 1992 và “Thế giới sau chiến tranh lạnh”, “quan hệ Việt
Nam và các nước Châu Á - Thái Bình Dương" tham luận tại Hội nghị về những thách
thức đối với công cuộc tái thiết của Việt Nam và các vấn đề trong nước và quốc tế do
trung tâm Đông - Tây tổ chức tại Mỹ từ ngày 21 - 22/1992.
2


“Hãy nhìn quan hệ Việt Mỹ” của thứ trưởng ngoại giao Lê Mai phát biểu trước hội
đồng đối ngoại Mỹ tại NewYord 7/9/1990.
“Dân tộc, thời đại, thời cơ và thách thức” của Trần Quang Cơ trả lời Tạp chí thông
tin lý luận 1/1991.
Những bài trong hội thảo khoa học 50 năm ngoại giao Việt Nam 8/1925 như “kết
hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong thời kỳ đổi mới” của Vũ Xuân Vinh
cục trưởng cục đối ngoại Bộ Quốc phòng.
“Suy nghĩ về chính sách của ta với các nước ASEAN và đối với Mỹ ” của Trịnh
Xuân Lãng đại sự vụ trưởng - Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp Quốc.

“Sáng tạo ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh” của Nguyễn Song Tùng phó ban
đối ngoại Trung ương.
“Ngoại giao nhân dân trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và hiện
nay” của Nguyễn Quang Tạo, Chủ tịch liên hiệp các Hội hữu nghị Việt Nam với các
nước.
Nhìn chung các bài nói, các bài viết nêu lên trên đã trình bày những nét cơ bản, đặc
trưng sự biến động trong nước và quốc tế. Những trở ngại trong quan hệ quốc tế hiện tại,
quan hệ Việt Nam với một số nước trong cộng đồng thế giới, đặc biệt là chính sách đối
ngoại của Việt Nam đã có tác dụng trong tiến trình thúc đẩy ổn định hòa bình, độc lập dân
tộc, hợp tác và phát triển với cộng đồng quốc tế và trình bày rõ vấn đề đối ngoại, hòa
bình, hữu nghị của Việt Nam với các nước trên thế giới.
Ngoài những bài viết của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng - Nhà nước là
bài viết của các nhà nghiên cứu trên một số tạp chí và một số đề tài khoa học có sự nghiên
cứu phối hợp của các cơ quan như:
“Chính sách của Mỹ và Trung Quốc đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
của Viện Quan hệ Quốc tế và Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh 1995 - 1996.
“Chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam và quan hệ Việt Mỹ từ 1975 đến nay” của
Hồ Xuân Đệ Bộ Ngoại giao nói tại Viện Lịch sử Đảng Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ
Chí Minh 1/1997.
“Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay” của Viện
3


Quốc tế và Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 6/1993.
“Tình hình Campuchia và triển vọng cả Đông Nam Á” của Thu Nga đăng trong
Tạp chí Cộng sản 11/1999.
“Lịch sử thế giới và việc chúng ta muốn làm bạn với tất cả các nước” của Nguyễn
Quốc Hùng nghiên cứu lịch sử Đảng 5/1991.
“Chính sách đa dạng hóa” của Nguyễn Ngọc Trường đăng trong tuần báo quốc tế

19/5/1994.
Nhìn chung các tác giả, đã chỉ rõ những chuyển biến của tình hình thế giới. Chính
sách đối ngoại của các quốc gia trước những biến động có tính bước ngoặt lịch sử, đồng
thời chỉ rõ những đặc trưng tính chất toàn cầu đã và đang tác động đến tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986
- 2006), một cách có hệ thống cả về đường lối và kết quả thực hiện một cách toàn diện thì
chưa có tác giả nào đề cập trực tiếp đến thời điểm này. Do đó, tác giả thực hiện đề tài này
nhằm đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng
cộng sản Việt Nam từ năm (1986 – 2006).
2. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Đối tượng: đối tượng nghiên cứu được tác giả xác định là quá trình đổi mới tư duy
đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn (1986 – 2006).
Nhiệm vụ:
Một là: làm rõ những cơ sở lý luận, quan điểm của Mác – Lênin, Hồ Chí Minh về
vai trò vị trí của đối ngoại.
Hai là: làm rõ các khái niệm cải cách, đổi mới
Ba là: làm rõ tình hình thế giới những năm 80 và nhu cầu đổi mới của Việt Nam
Bốn là: làm rõ quá trình hình thành và phát triển tư duy đối ngoại mới của
Đảng,với tư duy mới của Đảng về đối ngoại (1986 - 2006) Việt Nam đã thu được những
thành tựu và những bài học kinh nghiệm được rút ra.

4


4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Mục đích: Thực hiện đề tài: “Tìm hiểu quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của
Đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn từ năm (1986 – 2006)”. Tác giả xác định cần đạt được
các mục đích sau đây:
Góp phần khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo, đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng

trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của Đất nước. Khẳng định sự nhạy cảm chính trị, kinh
nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách đối ngoại phù hợp
với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập với cộng đồng quốc tế vì hoà bình,
độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Rút ra bài học kinh nghiệm từ hoạt động đối ngoại
trong sự nghiệp đổi mới (1986 – 2006).
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi một bài luận văn tốt nghiệp và do giới hạn
năng lực của bản thân, tác giả chỉ tìm hiểu quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta
trong giai đoạn (1986 – 2006).
5. phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành luận văn trong suốt thời gian nghiên cứu tác giả sử dụng nhiều
phương pháp như: phương pháp lịch sử, logic; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương
pháp so sánh thống kê nhằm làm nổi bật quá trình đổi mới tư duy và thắng lợi trong
đường lối chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng 20 năm qua.
6. kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục ảnh và tài liệu tham khảo, luận văn chia làm
2 chương, gồm có 7 tiết.

5


Chương 1

VAI TRÒ VỊ TRÍ ĐỐI NGOẠI – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò, vị trí của đối ngoại:
Trong hoàn cảnh mà Mác và Ăngghen sống, giai cấp vô sản chưa giành được chính
quyền, vì vậy hai ông luôn nhấn mạnh đến sự đoàn kết trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Mác và Ăngghen đã kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân toàn thế giới:
“Mặc cho giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong
cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói
buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới. Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”

Cách đây hơn 150 năm, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen
đã nói đến quốc tế hóa và toàn cầu hóa: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới,
thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta
thấy phát triển những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc” [6, tr.
598].

Mác và Ăngghen đã chỉ ra toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, xu thế đó gắn
liền với quá trình phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và dẫn đến sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia dân tộc, các khu vực trên thế giới.
Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới. Đặc biệt, trong lý luận
về quan hệ quốc tế, Lênin có nhiều cống hiến to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác. Người nêu ra những quy luật quan hệ quốc tế ở những thời kỳ lịch sử khác nhau và
những nguyên lý cơ bản về quan hệ quốc tế để hình thành chiến lược đối ngoại của Đảng
công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trước cách mạng tháng Mười, Lênin nghiên cứu nguyên nhân của chiến tranh và
tính chất của chiến tranh giữa các nước đế quốc. Người vạch ra tính chất cướp đoạt trong
chính sách đối ngoại của các nước đế quốc và nhấn mạnh vai trò quan trọng của sự đoàn
kết giữa giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ trong đấu tranh quốc tế. Đồng thời,
Người cũng chỉ ra chính sách đối ngoại của nhà nước vô sản mới thành lập phải đối lập
với chính sách ngoại giao có tính chất cướp đoạt của giai cấp tư sản. Chính sách đó phải
thúc đẩy sự nghiệp giải phóng các nước thuộc địa và quyền tự quyết của các dân tộc, phải
6


liên minh với các lực lượng cách mạng và các dân tộc bị áp bức, phải bảo vệ hòa bình trên
cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhân dân các nước.
Mác và Ăngghen đã nêu lên luận điểm về cuộc cách mạng vô sản như sau: “Chủ
nghĩa cộng sản chỉ có thể được một cách kinh nghiệm như là hành động “tức khắc” và
đồng thời của những dân tộc chiếm địa vị thống trị, điều này lại giả định là phải có sự
phát triển phổ biến của lực lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính chất thế giới gắn

liền với chủ nghĩa cộng sản”[5, tr. 50].
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã nhận ra vai trò cách mạng của phong
trào giải phóng dân tộc. Phong trào này kết hợp với phong trào cách mạng vô sản sẽ biến
các nước phụ thuộc và thuộc địa từ chỗ là lực lượng hậu bị của giai cấp tư sản đế quốc trở
thành đồng minh của giai cấp vô sản cách mạng. Lênin đã chỉ rõ: Phong trào giải phóng
dân tộc cần kết hợp với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản để lật đổ kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc. Bổ sung vào khẩu hiệu “vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”. Của Mác
và Ăngghen, Lênin đã nêu lên khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức,
đoàn kết lại”.
Sau cách mạng tháng Mười, Lênin tiếp tục phát triển và làm phong phú thêm
những quan điểm của chủ nghĩa Mác về quan hệ quốc tế trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm
của nhà nước Xô Viết. Các quan điểm đó tập trung một số vấn đề sau:
Một là, mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách đối nội và chính sách đối ngoại.
Lênin chỉ ra: nếu đem chính sách đối ngoại tách khỏi chính sách nói chung, thậm chí đem
đối lập chính sách đối ngoại với chính sách đối nội, thì đó là một sai lầm nghiêm trọng,
bởi vì không chỉ chính sách đối nội ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, mà chính sách
đối ngoại cũng tác động trở lại với chính sách đối nội. “Không có tư tưởng nào sai lầm
hơn và có hại hơn là tư tưởng tách rời chính sách đối ngoại khỏi chính sách đối nội” [7, tr.
422].

Hai là, phải biết kết hợp tính kiên định, tính nguyên tắc và tính linh hoạt trong
chính sách đối ngoại của nhà nước vô sản. Lênin nêu lên quan điểm phải biết cách thỏa
hiệp vì lợi ích của nhà nước Xô viết và lực lượng cách mạng trên thế giới.
Ba là, chỉ có dựa vào những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội do chủ
nghĩa Mác vạch ra mới có thể giải thích về quan hệ quốc tế một cách khoa học, dự báo
7


được những xu thế phát triển của quan hệ quốc tế. Lênin đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu của
chính sách nói chung và chính sách đối ngoại là phải đặc biệt quan tâm đến những nhiệm

vụ chủ yếu mà lịch sử đặt ra, quan tâm đến tương quan lực lượng giai cấp và nguyện vọng
của dân chúng trong nước cũng như trên phạm vi quốc tế.
Bốn là, cần đề ra nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản trong chính
sách đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Chủ nghĩa quốc tế vô sản đã được Mác –
Ăgghen nêu ra trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Đến Lênin, nó lại tiếp tục được phát
triển.
Năm là, đảm bảo nguyên tắc chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội
khác nhau vào khoảng năm 1915 – 1916, Lênin đưa ra kết luận trong thời đại chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi ở một nước hay một vài nước, chủ nghĩa xã hội
thay thế chủ nghĩa tư bản sẽ diễn ra trong một quá trình lâu dài và đó là cả một thời kỳ
lịch sử. Do đó mà có vấn đề quan hệ giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau. Lênin
nhấn mạnh rằng có một lực lượng to lớn hơn nguyện vọng, ý chí và nghị quyết của bất cứ
chính phủ hay giai cấp nào, đó là sức mạnh của quan hệ kinh tế chung trên toàn thế giới.
Quan hệ đó đã thúc đẩy các chính phủ đối địch, các giai cấp đối địch đi vào làm ăn với
chúng ta. Tư tưởng này của Lênin được thể hiện ra trong pháp lệnh đầu tiên của nhà nước
Xôviet – Pháp lệnh hòa bình [35. tr.2].
Học thuyết Mác – Lênin đã chỉ ra các điều kiện bảo đảm cho cuộc cách mạng ở
các nước giành thắng lợi, trong các điều kiện đó có vấn đề đoàn kết quốc tế của các dân
tộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong khi làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp mình, giải phóng
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột, xây dựng xã hội cộng sản
chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, vì chủ nghĩa tư bản là một hệ thống thống trị thế
giới, do đó cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản mang quy mô
quốc tế; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sứ mệnh có ý nghĩa quốc tế sâu sắc.
Để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản,
giai cấp công nhân phải liên kết, tập hợp lực lượng trên quy mô quốc tế, không chỉ trong
phạm vi giai cấp mình mà còn phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, trong đó đặc biệt
8



là phải đoàn kết với các dân tộc thuộc địa. “Theo Lênin, cách mạng ở phương Tây muốn
giành thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế
quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch và vấn đề dân tộc, như Lênin đã dạy
chúng ta, chỉ là một bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô
sản” [25, tr. 277].
Lênin chỉ ra rằng: mở cửa về đối ngoại là nhu cầu khách quan để phát triển kinh tế
ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới Người khẳng định “có một sức mạnh lớn hơn nguyện
vọng ý chí và sự quyết tâm của bất cứ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó
là những quan hệ kinh tế chung của toàn thế giới”. Tăng cường quan hệ đối ngoại cũng là
xu thế tất yếu trong bước phát triển nền văn minh nhân loại. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
cấn phải mở cửa đối ngoại, để học tập kế thừa một cách sáng tạo những thành quả của văn
minh nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Chỉ có như vậy, chủ nghĩa xã hội mới
có thể chứng tỏ được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây còn là nhu cầu bức
thiết nhằm tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và cung cố Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức mạnh vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Lênin đã từng
viết dùng cả hai bàn tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài” [59. tr.684].
Tư tưởng chiến lược của Lênin về tính tất yếu mở cửa và phát triển quan hệ kinh tế
đối ngoại, về con đường, hình thức lợi dụng thành tựu của chủ nghĩa tư bản phục vụ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến nay dẫn còn nghuyên giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc.[56, tr.5].

1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đối ngoại :
Chúng ta đã biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện trong thế kỷ XX như một nhà
chiến lược thiên tài, toàn năng. Trên lĩnh vực khoa học đối ngoại, Người có hiểu biết sâu
rộng về lý luận thực tiễn.
Xuất phát từ quan điểm ngoại giao của Mac - Lênin và những kinh nghiệm thực
tiễn hoạt động quốc tế phong phú và sinh động của C.Mac và Ph.Ănggen, V.Lênin cũng
như từ những tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại, ngoại giao là một mặt trận, coi trọng quan hệ với các nước láng giềng và các nước
lớn, lợi dụng mâu thuẫn đối phương, thêm bạn bớt thù. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
9


Ngoại giao là một mặt trận. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XX,
vai trò ngoại giao như một mặt trận thể hiện nổi bật trong hai giai đoạn: Những năm 1945
– 1946, khi lực lượng quân sự của ta còn non trẻ, ngoại giao phục vụ bảo vệ chính quyền
cách mạng, tạo nên một kỳ tích về đối ngoại. Đảng ta xác định “sau vấn đề phòng thủ,
ngoại giao là một vấn đề cần yếu cho một nước độc lập”[13, tr.290]. nên trong đàm phán với
Pháp, ta đã kiên quyết đấu tranh để bảo vệ quyền độc lập tự chủ về ngoại giao.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với
quân sự và chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp. Ngoại giao đóng góp đắc lực tranh thủ
sự đoàn kết và ủng hộ quốc tế phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược. Nhờ có đường lối quốc tế
đúng đắn của Đảng, hoạt động ngoại giao đã tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn
của cả Liên Xô, Trung Quốc tăng cường liên minh chiến đấu giữa các nước Đông Dương,
hình thành trên thực tế mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt
Nam...Trong hoàn cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, những kết quả ấy tạo thế và lực để ta
thực hiện đàm phán ngoại giao với Mỹ. Đó là một kỳ tích trên mặt trận ngoại giao.
Tư tưởng mặt trận ngoại giao được hình thành trong những năm 1960, tiếp thu
truyền thống đánh đàm trong lịch sử ngoại giao truyền thống và kinh nghiệm ngoại giao
thời kỳ kháng chiến chống thực dân xâm lược.
Đường lối ngoại giao luôn xuất phát từ đường lối chính trị; phục tùng và phục vụ
đường lối chính trị. Sức mạnh ngoại giao cũng tùy thuộc vào nội lực quốc gia. “Thuc lực
là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[15, tr. 145].
Tháng tư 1969, Nghị quyết Bộ Chính trị khẳng định: “Ngoại giao trở thành một
mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”.
Ngoại giao Hồ Chí Minh mang tính nhân dân sâu sắc. Lòng yêu hòa bình, độc lập,
tự do và sự nghiệp chính nghĩa, các mục tiêu đấu tranh mà nhân dân Việt Nam phấn đấu
thực hiện trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng hòa bình là điểm gặp gỡ

và mẫu số chung để xây dựng quan hệ quốc tế của Việt Nam và để tập hợp lực lượng quốc
tế thông qua sự liên hệ và đoàn kết giữa nhân dân với nhân dân tại các quốc gia có chế độ
chính trị xã hội khác nhau. Nó phù hợp với ý thức chống cường quyền, yêu chuộng hòa
bình của nhân loại tiến bộ. [19, Tr.162 - 170].

10


Trước hết Người cho rằng đường lối quốc tế chính sách đối ngoại là bộ phận hợp
thành của chiến lược cách mạng:
Điểm lại lịch sử đấu tranh vì độc lập tự do của nhân dân ta từ nhiều thế kỷ trước
cho đến ngày nay, điều dễ cảm nhận trước hết là trong thời đại Hồ Chí Minh, nhất là từ
khi có Đảng, phong trào yêu nước và cách mạng nước ta mới có được đường lối quốc tế
rõ ràng, gắn được với xu thế phát triển của thế giới, chọn đúng vị thế cách mạng nước ta
trong quan hệ toàn cầu. Hơn nữa, cũng từ đó cách mạng nước ta mới có sách lược nhất
quán về mối quan hệ bạn – thù và sắp xếp lực lượng bên ngoài, đi đến hình thành một chủ
trương và biện pháp sách lược trong việc xử lý những vấn đề quốc tế có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến lợi ích chiến lược của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đường lối quốc tế của cách mạng nước ta bắt nguồn từ “Đường cách mệnh”
(1927), “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” của Đảng 1930)... do Nguyễn Ái
Quốc đề xướng.
Trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 2/1930, Nguyễn Ái
Quốc nhận định: “Mâu thuẫn gay gắt giữa các nước đế quốc đã gây ra chiến tranh thế giới
1914 – 1918. Sau cuộc chém giết đẫm máu đó, thế giới chia làm hai mặt trận: mặt trận
cách mạng gồm dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản bị bóc lột trên toàn thế giới... và mặt
trận chủ nghĩa đế quốc... Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang được ráo riết chuẩn bị.
Nếu chúng ta để cho chúng chuẩn bị chiến tranh, nếu chúng ta để cho chúng chống lại
cách mạng Trung Quốc và nước Nga Xô – Viết, nếu cho chúng ta để cho chúng tiếu diệt
cách mạng Việt Nam thì khác nào chúng ta để cho chúng dìm giống nòi Việt Nam ta
xuống Thái Bình Dương”[2, tr. 25, 26]. Vì vậy Người đề ra trong chương trình tóm tắt của

Đảng: Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do và đồng thời Đảng liên kết với những
dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản Pháp” [18, tr. 21].
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II, Hội nghị trung ương Đảng lần thứ
VIII, năm 1941 – Hội nghị Trung ương đầu tiên dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác Hồ, đã
đi đến quyết định lịch sử: chuyển hướng chiến lược cách mạng từ làm cách mạng tư sản
dân quyền sang làm cách mạng giải phóng dân tộc trực tiếp. Hội nghị đã quyết định “phải
thay đổi chiến lược” của cách mạng, phải đề ra những “chính sách mới của Đảng” cho
phù hợp với tình hình đã có nhiếu thay đổi; tiếp tục nhấn mạnh định hướng “cách mạng
11


Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới” và coi quyền lợi của dân tộc cao
hơn hết thảy, “quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể
dân tộc” [2, tr. 21]. Về vấn đề liên hiệp các lực lượng bên trong, hội nghị quyết định thành lập
mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, bao gồm rộng rãi các tầng
lớp xã hội khác nhau, thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương được
thành lập trước đó.
Đi đôi với việc đề ra chủ trương đấu tranh trên bình diện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Hội nghị Trung ương lần thứ 8, thắm đượm tư duy đối ngoại của Hồ Chí
Minh, đã đưa ra quyết định bốn điểm trọng yếu về “ngoại giao:
1. Hủy bỏ tất các các hiệp ước mà Pháp đã ký bất kỳ nước nào.
2. Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ hòa bình.
3. Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền lợi của Việt Nam.
4. Mật thiết liên lạc với tất cả các dân tộc bị áp bức, giai cấp vô sản trên thế giới”
Đối phó với tình hình “ngàn cân treo sợi tóc” của cách mạng nước ta ngay sau khi
chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc; vào lúc cách mạng nước ta bị phong tỏa và chịu
nhiều sức ép lớn từ bên ngoài; thực dân Pháp quyết định chiếm lại Đông Dương bằng vũ
lực, quân đội Đồng Minh Anh, Tưởng Giới Thạch lấy cớ thi hành quyết định Pot-xđam
của các nước lớn đưa quân vào “tiếp quản sự đầu hàng” của quân Nhật với ý đồ thống trị
chia cắt lâu dài đất nước ta; vấn đề thù trong giặc ngoài trở thành thách thức lớn nhất cho

cách mạng nước ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Tân Trào (14, 15/8/1945), “trong
vấn đề ngoại giao”[18

tr. 146].

đã chỉ ra rằng: “chính sách của chúng ta là phải tránh các

trường hợp một mình phải đối phó với nhiều lực lượng đồng minh (Trung Quốc, Pháp,
Anh, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt một chính phủ của Pháp Đờ Gôn (De Gaulle) hay một
chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện của dân tộc”. [2, tr. 416] Hội nghị đề ra chủ trương
“sự mâu thuẫn giữa hai phe Đồng Minh Anh – Pháp và Mỹ – Trung Quốc và vấn đề
Đông Dương là một điều ta cần lợi dụng”[2, tr. 417]. và chúng ta “cần tranh thủ sự đồng tình
của Liên Xô... Đối với các nước nhược tiểu và dân chúng Trung Quốc và Pháp, chúng ta
cần phải liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của họ”.[2, tr. 555].
Trong 10 chính sách của Việt Minh, trong thời kỳ Tổng Khởi Nghĩa, đã nói rõ: “10
– thân thiện và giao hảo với các nước Đồng Minh và các nước nhược tiểu dân tộc để
12


giành lấy sự đồng tình ủng hộ của họ”.[2, tr. 555]
Sau cách mạng tháng Tám, trong tuyên ngôn Độc Lập ngày 2-9, Người đã tuyên
bố những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam độc lập.
Trong “thông báo về chính sách ngoại giao” ngày 3-10-1945, Người – với tư cách Chủ
tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng ngoại giao thời bấy giờ, đã nêu ra mục tiêu của ngoại giao
và sách lược đối tượng với 4 đối tượng quan trọng nước ngoài liên quan đến trình độ cách
mạng nước ta: với các nước lớn trong đồng minh dân chủ; với các nước láng giềng; với
thực dân pháp và nước Pháp, người Pháp và với các nước nhược tiểu trên toàn cầu.
Suốt 30 năm kế tiếp, đương đầu với hai cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn
của 2 cường quốc thế giới vốn có sức mạnh về quân sự, kinh tế hơn mình nhiều lần, trong
hoàn cảnh quốc tế có thuận lợi nhưng cũng nhiều khó khăn phức tạp, công cuộc đấu

tranh ngoại giao, vận động quốc tế trở nên quan trọng trong chiến lược kháng chiến chống
thực dân Pháp (1946 – 1954) và sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, hoàn thành công cuộc
giải phóng Miền Nam thống nhất Đất nước, tháng 4 – 1959, Người tham dự Hội nghị Bộ
Chính trị và trong khi xem xét đường lối chống Mỹ cứu nước, thấm nhuần trí tuệ của
Người, Bộ Chính trị khẳng định: “ngoại giao trở thành một mặt trận quan trọng có ý nghĩa
chiến lược”.
Như vậy là đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của cách mạng và Nhà nước
ta được Người vạch ra cùng một lúc với việc hình thành đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc, và nó được ấp ủ từ tháng năm, Người chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho việc lập ra Đảng tiên phong và thể hiện sinh động trong chiến lược đứng về phe dân
chủ chống thế lực Phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ II, và đặc biệt đã vận dụng
thành công trong tiến trình cách mạng tháng Tám. Nó được sửa đổi bổ sung, mỗi lúc cách
mạng Việt Nam đứng trước khúc quanh thời đại đòi hỏi phải điếu chỉnh chiến lược nhằm
phục vụ tốt hơn cho mục tiêu cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử trong cuộc kháng
chiến đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp và trong cuộc đụng đầu lịch sử chống Mỹ cứu
nước.
Điều cần đặt ra để xem xét, nghiên cứu là: Vì sao Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức
tầm quan trọng và đưa đường lối đối ngoại, vận động quốc tế vào “tổng lộ tuyến” như
vậy?.
13


Theo quan điểm Hồ Chí Minh trong chiến lược “châu chấu đá xe”, nước nhỏ đánh
thắng đế quốc to, đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao có thể tập hợp lực lượng có
lợi cho “dân tộc nhược tiểu” mỗi khi họ liên kết được với xu thế cách mạng và tiến bộ xã
hội bên ngoài, góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện đấu tranh và tạo bước chuyển
biến tương quan lực lượng có lợi cho nước nhỏ. Lý giải về “đánh bằng mưu” trong “binh
pháp của Tôn Tử” (xuất bản năm 1947) Người nhấn mạnh: “…dùng binh giỏi nhất là
đánh bằng mưu, thứ hai là đánh bằng ngoại giao, thứ ba mới đánh bằng binh. Vây thành
mà đánh là kém nhất… (như quân Đức vây thành Stalin – grát mà không lấy được, từ đó

bị thất bại đến cùng)”. [20, tr. 518]
Nhận thức về vai trò của vũ khí đối ngoại, ngay dù trong một cuộc chiến hiện đại,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “ Ngày nay …ngoại giao ai thuận lợi hơn, thì thắng”.
Với ý chí của dân tộc bị áp bức vùng lên để tự giải phóng, Người đòi hỏi công cuộc đấu
tranh quốc tế phải làm sao “đưa ngoại giao của bên địch đến chỗ bế tắc” [21, tr.298]
Những quan điểm cơ bản trên đây của Người được Đảng và Nhà nước ta vận dụng
trong việc đề ra và vận hành đường lối đối ngoại và mạng lưới hoạt động ngoại giao, vận
động quốc tế, phát huy thế chủ động tiến công linh hoạt, sáng tạo trong ứng xử quốc tế
suốt những chặng đường đấu tranh hơn 70 năm qua.
Chủ quyền ngoại giao là vấn đề then chốt để hoàn thiện nền độc lập dân tộc
Với cương vị Chủ tịch Chính phủ kiêm bộ trưởng ngoại giao, trong năm 1945 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì phấn đấu giữ vững chủ quyền ngoại giao, coi vấn
đề “có ngoại giao riêng” là nhân tố quan trọng để hoàn chỉnh nền độc lập: “Nếu quân đội
và ngoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là, Việt Nam chưa độc lập hẵn và vẫn là
thuộc địa của Pháp” [20, tr. 70] tuyên bố tại Pari ngày 12- 7- 1946, Người lại khẳng định
đòi hỏi: “Việt Nam có quyền phái Đại sứ và lãnh sự đi các nước” và coi đó như là một
yêu cầu tiên quyết để đi đến thỏa hiệp giữa hai bên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nêu rõ lập trường của nhân dân ta: “Nếu nước
Pháp ưng thuận để nước ta thống nhất và độc lập, đủ quyền kinh tế, quân sự ngoại giao thì
dân ta rất sẵn sàng hợp tác thân thiện trong khối liên hiệp Pháp” [22, tr. 113]
Quan điểm về chủ quyền ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc
định ra phương hướng chính sách đối ngoại, độc lập, tự chủ, dựa trên cơ sở lợi ích chiến
14


lược của cuộc chiến đấu trong một giai đoạn lịch sử, lợi ích lâu dài của dân tộc và phù
hợp với những chuẫn mực quốc tế (quyền dân tộc cơ bản, quyền dân tộc tự quyết...đã
được quốc tế thừa nhận rộng rãi sau chiến tranh thế giới lần thứ II), khớp nhịp với xu thế
thời đại.
“Độc lập có nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không
có sự can thiệp ở bên ngoài vào” [22, tr. 136] – thể hiện quyết tâm chống lại mọi hình thức áp

đặt và ách thống trị giữa các nước lớn bên ngoài. Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945,
Người đã khẳng định quyết tâm xóa bỏ mọi quan hệ bất bình đẳng và nêu ra đạo lý làm
nền tảng cho chính sách đối ngoại độc lập tự chủ đi đến hình thành một định hướng mới
cho quan hệ quốc tế của Nhà nước Việt Nam độc lập: “ … các dân tộc trên thế giới sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Ngoại giao là vũ khí cách mạng tiến công
Ra đời trong cuộc chiến đấu sống còn, luôn đương đầu với nhiều thế lực thù địch
bên ngoài hùng mạnh hơn nhiều, chịu ảnh hưởng của trí tuệ Hồ Chí Minh, nền ngoại giao
Việt Nam mới luôn thể hiện tính chiến đấu cách mạng cao và tinh thần tiến công mạnh
mẽ. Nó càng trở nên năng động tích cực hơn trong bước chuyển biến thời cuộc nước ta và
bước ngoặc của sự biến quốc tế.
Cho dù trong tình thế phức tạp và cả vào lúc “sức ta rất thiếu thốn”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn kiên trì quan điểm “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ” [20, tr. 3].
Giành chủ động trên mặt trận quân sự lẫn mặt trận ngoại giao đều có tầm quan
trọng không kém gì nhau và bổ sung lẫn nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ của sự nghiệp ngoại giao trong tất cả
các thời kỳ là luôn “nêu cao chính nghĩa và kêu gọi dư luận tán đồng lập trường của
mình...dùng mọi mánh khóe ngoại giao để chiếm được thắng lợi” [22, tr.297].
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong việc chủ
động đề xuất phương hướng chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, lợi dụng sự khác
nhau về lợi ích để phân hóa thế lực thù nghịch, làm suy yếu từng bộ phận, đi đến cô lập
và đánh thắng kẻ thù chính trong từng thời kỳ cách mạng.
Mỗi khi có điều kiện và thời cơ cho phép, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hiện diện
trong các hoạt động ngoại giao với vai trò nổi bật là người đề xướng và tực tiếp chỉ huy
15


các đợt tấn công trên mặt trận đối ngoại. Cuối năm 1945 đầu năm 1946, Người đã bật đèn
xanh mở màn cho cuộc thương lượng Pháp – Việt vào đúng lúc Đờ Gôn đổ vào Hiệp định
Hoa – Pháp về thay quân sắp được ký kết, đưa đến Hiệp định sơ bộ ký ngày 6/3/1946 và

tạm ước ngày 14/9/1946, tạo cục diện hòa hoãn, tuy ta chấp nhận cho 15.000 quân Pháp
vào Miền Bắc để thay thế 200.000 quân Tưởng, nhưng Pháp và các nước đồng Minh phải
chấp nhận sự tồn tại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ta tranh thủ thời gian đó
để chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tiến công ngoại giao trong bài phát biểu tháng
11/1953 bày tỏ thái độ thiện chí muốn kết thúc chiến tranh bằng biện pháp thương lượng
hòa bình tay đôi với chính phủ Pháp đúng vào thời điểm tình hình chính trị nước Pháp đã
bắt đầu rối loạn bởi cuộc chiến tranh Đông Dương, phía ta chờ đón chiến thắng Xuân –
Hè 1954 Kiến nghị hòa bình có tính tấn công của Người, góp phần to lớn làm tan rã ý chí
xâm lược của thực dân Pháp và động viên phong trào chống “chiến tranh bẩn thỉu” của
nhân dân Pháp và các nước khác trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng chính phủ ta từ
tháng Giêng năm 1967 đã bắt đầu đưa ra điều kiện buộc Mỹ phải ngừng ném bom để ngồi
vào bàn thương lượng ...Tại Hội nghị Bộ Chính Trị 1967, Người nhận định: “Đã đến lúc
mở mặt trận ngoại giao...”
Các đợt tiến công ngoại giao đó điều nhằm kiềm chế xung lực của kẻ thù, phân hóa
chúng, thể hiện thiện chí của ta, khơi gợi xu hướng muốn giải quyết cuộc xung đột thông
qua thương lượng hòa bình, thúc đẩy đối phương xuống thang chiến tranh và quan trọng
hơn hết là buộc đối phương đi vào khả năng do ta lựa chọn tùy thời điểm, mở ra cục diện
“đánh – đàm” mà ở đó ta có thể phát huy hết sức mạnh chính trị, quân sự, ngoại giao và
sức mạnh cộng hưởng của dân tộc thời đại, tạo những tiền đề về tinh thần và vật chất để
xoay chuyển thế trận cuộc đấu tranh, ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho thế lực thù địch.
Nhìn lại lịch sử ta có thể thấy, dùng ngoại giao để trực tiếp tấn công thế lực thù
địch làm suy yếu chúng, đã trở thành một nghệ thuậ đầy trí tuệ Hồ Chí Minh. Vì vậy,
trong cuộc nói chuyện với Hội nghị ngoại giao lần thứ 23 ngày 12/12/2001 đồng chí
Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng đã tổng kết: “Tư tưởng và
phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là tư tưởng tiến công”

16



Chương 2

TƯ DUY ĐỐI NGOẠI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(1986 – 2006)
 Khái niệm cải cách, đổi mới:
Cải cách: Cải cách khác cách mạng là không đòi hỏi phải tiến hành một cách khẩn
trương, toàn diện và triệt để như cách mạng và đặc biệt là loại trừ bạo lực vũ trang [59, tr
.10].
Theo nghĩa rộng: Cải cách là sự thay đổi, sửa đổi thành mới.
Theo nghĩa chính trị: là sự thay đổi quan hệ xã hội, đời sống, thiết chế trong khuôn
khổ trật tự tồn tại, không thay đổi cơ bản về chất lượng đương tồn tại, không thay đổi về
cơ bản chất lương và tính giai cấp. Đó là hình thức cải tạo xã hội do các lực lượng cầm
quyền thực hiện từ bên trong nhằm giải quyết những mâu thuẫn nhất định của đời sống
kinh tế - xã hội [57, tr.65].
Đổi mới: Đổi mới cũng là một khái niệm ra đời trong thời kỳ hiện đại nhưng tư
duy, ngôn ngữ nhân loại đã sử dụng để nhận thức cả lịch sử của xã hội loài người từ xa
xưa. Nội hàm của khái niệm “đổi mới” nhằm chỉ những hoạt động của con người làm
thay đổi cái cũ, cái lạc hậu, lỗi thời bằng cái mới tiến bộ hơn.
Với nội hàm đó, đổi mới cũng có nhiều loại hình và cấp độ khác nhau: Đổi mới
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư duy, hành động, cơ chế tổ chức quản lí, phương thức
ứng xử, phương pháp giảng dạy...
Do đó cũng từ chỗ một khái niệm, “đổi mới” đã trở thành một phạm trù nhận thức.
Phạm trù đổi mới biểu hiện một cách đa dạng trong tư duy, ngôn ngữ nhân loại.
Ở Trung quốc, Việt Nam, Nhật Bản, phạm trù “đổi mới” được gọi là “duy tân” hay
“canh tân”. (Minh Trị duy tân ở Nhận Bản, phong trào Duy Tân ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX)
Tiếng Nga dung từ Ap-na-vơ-lê-nhi-e có nghĩa là đổi mới, và từ Pe-re-stroi-ca có
nghĩa là “cải tổ” (nhưng “cải tổ” của Nga không phải như cải cách, cải lương ở Việt Nam,
Trung Quốc để sắp xếp vào phạm trù “cải cách”, mà là nhằm thay đổi toàn bộ xã hội nên
17



cũng có nghĩa là “đổi mới”).
Ở mỗi nước trong từng thời điểm lịch sử nhất định, sự nghiệp đổi mới có nội dung,
biện pháp và kết quả khác nhau, nhưng là đồng nhất với nhau ở mục tiêu: “Cải biến xã hội
cũ thành xã hội mới tiến bộ hơn” nên cùng thuộc vào phạm trù đổi mới.
Đổi mới giống cải cách ở chỗ cũng yêu cầu giải quyết khủng hoảng xã hội đưa đến
tiến bộ xã hội; nhưng so với cải cách, đổi mới là phổ biến hơn cả, rộng rãi hơn cả, có thể
tiến hành lâu dài hơn cả...
Nói là “phổ biến hơn cả” vì nó được tiến hành ở bất cứ trình độ kinh tế, xã hội nào,
ở giai đoạn lịch sử nào, ở bất cứ dân tộc nào, ngay mà cả khi dân tộc đó chưa có thể làm
được cải cách. Nó cũng có thể được tiến hành sau các cuộc cách mạng vũ trang đánh đổ
chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới, hoặc hoàn thiện các thành quả mà cải cách
vừa đạt được, như chúng ta đang thực hiện “đổi mới” hiện nay chẳng hạn là nhằm hoàn
thiện cách mạng tư sản dân chủ, tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.
Nói có thể “lâu dài hơn cả” vì xét về thời gian diễn biến thì cách mạng thường là
phải kịp thời, thần tốc, giành thắng lợi từng ngày, từng giờ, nhất là khi phải tiến hành
“khởi nghĩa vũ trang”, như V.I.Lênin đã nói: “Hàng ngày hàng giờ phải giành được thắng
lợi, dù nhỏ nhất”.
Cải cách cũng cần nhanh gọn, trong một thời điểm nhất định, nhất là khi được tiến
hành từng khâu trong một chuỗi các cuộc cải cách liên hoàn. Cuộc cải cách này phải dứt
điểm để bước sang cuộc cải cách khác, như cải cách ruộng đất phải dựa trên “cải tạo nông
nghiệp” (cũng là một loại hình cải cách).
Còn đổi mới cũng có thể nhanh gọn, có thể là từng bước, có thể là phiến diện, có
thể là toàn diện và trong một quá trình tương đối lâu dài.
Sự nghiệp đổi mới của chúng ta ngày nay chẳng hạn, diễn ra đã 20 năm và vẫn
còn tiếp diễn, trong đó bao hàm cả những biện pháp cải cách, như cải cách hành chính;
cải cách tiền tệ; cải tiến quản lý nông nghiệp (hợp tác xã); cải tiến quản lí công nghiệp....
Mục tiêu chung là đi đến đổi mới toàn diện: Từ “đổi mới tư duy” đến đổi mới kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, quân sự, ngoại giao...Hiệu quả của đổi mới, nếu chúng ta đạt

được tới mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì đã
mang một ý nghĩa lớn lao.[59, tr. 12 -15].
18


2.1. Tình hình thế giới những năm 80 của thế kỷ XX:
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ (đặc biệt là
công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội... của các quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh đó, nhiều vấn đề toàn
cầu nảy sinh như: ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu dịch bệnh, phân hóa giàu nghèo,
khủng bố quốc tế... Để giải quyết các vấn đề toàn cầu đó, đòi hỏi các nước phải nổ lực
hợp tác cùng hành động.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc đẩy xã hội hóa sản xuất vật chất,
tạo ra những bước nhảy vọt về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đẩy mạnh lại
việc cơ cấu các nền kinh tế, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới và thúc đẩy kinh tế tri thức.
Sự phổ cập nhanh chóng của phổ cập Internet và các phương tiện hiện đại khác ngày càng
mở rộng giao lưu quốc tế. Đồng thời xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa được tăng
cường, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia và làm gia tăng các hoạt động thương
mại quốc tế.
Cải cách và mở cửa đã xuất hiện như một trào lưu tại nhiều nước trên thế giới. Để
đẩy mạnh cải cách kinh tế và hiện đại hóa, một số nước tiến hành ở mức độ khác nhau
quá trình dân chủ hóa và cải cách chính trị.
Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế tạo ra những cơ hội và xung lực cho quá
trình phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay gắt đối với tất cả các nước,
trước hết là các nước đang phát triển và chậm phát triển: có thể xói mòn chủ quyền quốc
gia, đe dọa ổn định kinh tế – xã hội, làm sâu sắc sự chênh lệch giàu nghèo...
Đặc biệt, cục diện chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, phức tạp, diễn ra một
bước ngoặc cơ bản. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược mạnh mẽ, đẩy mạnh hòa hoãn và
quan hệ với nhau. Năm 1989, Liên Xô và Hoa kỳ chấm dứt chiến tranh lạnh
Trên lĩnh vực quan hệ chính trị quốc tế, vào giữa thập kỷ 80, các nước xã hội chủ

nghĩa lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu thập kỷ 90, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi cơ bản nền chính trị thế giới và quan hệ
quốc tế. Trật tự thế giới hai cực hình thành từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai trên cơ
sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu tan rã, mở ra thời kỳ quá độ hình
thành một trật tự thế giới mới.
19


Các nước đấu tranh mạnh mẽ nhằm xác lập vai trò, vị thế của mình đối với khu
vực và thế giới. Đa cực hóa chính trị đang trở thành xu hướng phổ biến của thế giới
đương đại.
Trước những diễn biến mới của tình hình thế giới, các quốc gia, các tổ chức và lực
lượng chính trị quốc tế đều điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành
động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và xu thế phát triển của thế giới, nhằm
giành được những lợi ích cao nhất. Đối với các nước vừa và nhỏ, biểu hiện nổi bật của xu
thế điều chỉnh chiến lược là các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ và tự lực tự
cường, chủ động tìm kiếm con đường phát triển của mình.
Thời kỳ chiến tranh lạnh, sự đối đầu, thù địch về ý thức hệ, về chế độ chính trị - xã
hội là cơ sở cho sự tồn tại thế giới hai cực và là nhân tố chi phối lớn đến quan hệ quốc tế.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, việc tập hợp lực lượng cơ bản không còn dựa trên lăng
kính ý hệ tư tưởng, chính trị mà chủ yếu dựa trên lợi ích chung của các quốc gia, của khu
vực và quốc tế.
Để giải quyết những vấn đề toàn cầu, các quốc gia phải nổ lực hợp tác cùng hành
động. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là các nước đang phát triển
phải đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn,
kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất
kinh doanh.
Sau chiến tranh lạnh, các nước đã đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế
quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự bằng các tiêu chí

tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và khoa học được đặt ở vị trí quan trọng nổi bật. Và
vì vậy, cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia chuyển từ hình thức chạy đua vũ trang, tăng
cường sức mạnh quân sự trong chiến tranh lạnh sang hình thức cạnh tranh sức mạnh quốc
gia. Quan hệ quốc tế từ thế đối đầu chuyển dần sang đối thoại, hợp tác và cạnh tranh.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sau sự kiện Liên Xô tan rã và các nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ.
Châu Á – Thái Bình Dương là nơi hội tụ các mâu thuẫn lớn của thế giới, là khu
vực nóng bỏng và xung đột vũ trang kéo dài trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Bước vào thập
20


kỷ 80 của thế kỷ XX, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đi dần vào trạng thái hòa bình,
ổn định, được dư luận thế giới coi là nơi tương đối ổn định, có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, xu thế hợp tác trong khu vực này càng phát triển. Trên cơ sở đó vai trò, vị trí của khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Vào thập kỷ 90, tình hình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có những biến
chuyển mới: trước hết là sự nổi lên của tam giác chiến lược Mỹ – Trung – Nhật, trở thành
nhân tố chủ yếu chi phối an ninh, chính trị của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Hai là, trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn như: vấn đề hạt nhân, ở bán đảo
Triều Tiên; vấn đề Đài Loan; vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc
các nước trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng châu Á Thái Bình Dương sau chiến
tranh lạnh vẫn được đánh giá cao là khu vực có tiềm lực lớn và năng động về phát triển
kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.
Ba là, Châu Á – Thái Bình Dương trở thành khu vực có tiềm lực lớn và năng động
nhất về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh, sự
tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, quá trình hợp tác phát triển kinh tế của
khu vực cũng đang gặp phải những khó khan trở ngại. Đó là sự chênh lệch về trình độ và
tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các nền kinh tế; khoảng cách quá lớn giữa các nước giàu
và nước nghèo. Sau chiến tranh lạnh đã xuất hiện những nhân tố mới có thể gây mất ổn
định khu vực, trong đó có nhân tố xuất phát từ sự tranh giành lợi ích kinh tế, ảnh hưởng

chính trị giữa một số nước lớn. [7, tr.129 – 134].

2.2. Nhu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam:
2.2.1. Nhu cầu phá thế bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị:
Từ nửa cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Việt Nam bị các thế lực bên ngoài bao vây,
cô lập. Cụ thể:
Sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (4/1975), Mỹ vẫn tiếp
tục chính sách thù địch chống phá và kiềm chế Việt Nam ở nước ngoài; tuyên bố cấm vận
thương mại đối với Việt Nam; ba lần phủ quyết Việt Nam vào Liên hợp quốc... Trong thập
kỷ 80 của thế kỷ XX, Mỹ vẫn tiếp tục cùng với các nước Phương Tây, và một số nước
trong vùng Châu Á – Thái Bình Dương bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam; đòi Việt Nam
phải giải quyết vấn đề POW/MIA (tù nhân trong chiến tranh và mất tích trong chiến
21


tranh)...Ý đồ của Mỹ trong việc cải thiện quan hệ với Việt Nam giai đoạn này là ép chúng
ta nhượng bộ một chiều có lợi cho họ. Tuy thất bại trong chiến tranh Việt Nam và phải
điều chỉnh chiến lược, song, Mỹ vẫn tiếp tục chính sách thù địch chống phá và kiềm chế
Việt Nam: phong tỏa tài sản của việt Nam ở nước ngoài (sau ngày 30-4-1975), tuyên bố
cấm vận thương mại (ngày 15-5-1975); ba lần phủ quyết Việt Nam gia nhập Liên hợp
quốc…
Ngày 22-6-1977, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật cấm Mỹ viện trợ cho Việt Nam;
ngày 6-8-1978, Quốc hội Mỹ thông qua nghị quyết cấm chính quyền Mỹ bồi thường
chiến tranh cho Việt Nam.
Năm 1978, do tác động của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là trong bối
cảnh Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô và quan hệ Trung Quốc- Việt
Nam ngày càng căng thẳng, Mỹ hủy bỏ ý định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam mà
quay sang câu kết với một số nước trong khu vực, tập hợp lực lượng bao vây, cấm vận
Việt Nam. Quan hệ Việt-Mỹ lại trở nên căng thẳng.
Quan hệ Việt Nam Nhật bản diễn biến thuận lợi vào những năm đầu thập kỷ 70.

Ngày 21/9/1973, Nhật Bản thực hiện bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Khi sự kiện Campuchia xảy ra (1979), Nhật Bản tuy không đình chỉ các cuộc tiếp xúc
ngoại giao và viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, nhưng đã “đông cứng” các cam kết viện
trợ cho Việt Nam và tham gia vào liên minh bao vây, cấm vận nước ta trong suốt thập kỷ
80 của thế kỷ XX.
Quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN từ khi xảy ra vấn đề Campuchia giảm
xuống thấp nhất. Tất cả các đề nghị của Việt Nam về đối thoại và hợp tác khu vực đều
không được các nước ASEAN chấp nhận. Các hoạt động của ASEAN trong quan hệ với
Việt Nam ở giai đoạn này “chịu ảnh hưởng của vấn đề Campuchia, quan hệ ASEAN –
Việt Nam trở nên lạnh nhạt, trì trệ, nếu không nói là thù nghịch” [49, tr. 28 – 29].
Sau năm 1975, quan hệ Trung Quốc - Việt Nam ngày càng căng thẳng. Cuộc xung
đột biên giới phía Bắc Việt Nam làm phương hại nặng nề đến tình hữu nghị truyền thống
giữa nhân dân hai nước. Quan hệ giữa hai nước tiếp tục căng thẳng kéo dài đến cuối thập
kỷ 80 của thế kỷ XX...
Nhìn chung, lấy cớ sự kiện Campuchia, nhiều nước (đứng đầu là Mỹ) tiến hành
22


bao vây, phong tỏa về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta. Việt Nam gần như bị cô
lập trong quan hệ với khu vực và quốc tế. Furuta Motoo, một giáo sư người Nhật chuyên
nghiên cứu Việt Nam nhận xét về thời kỳ này như sau: “Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt
Nam rơi vào “thời kỳ lạnh giá”...hình ảnh Việt Nam phần nào bị phai mờ đi, và lúc bấy
giờ chỉ có rất ít người còn giữ mối quan hệ đến Việt Nam” [49, tr.9 – 15].
Sự đối đầu thù địch của Mỹ và một số nước khác đối với Việt Nam kéo dài nhiều
thập kỷ, nhất là từ sau sự kiện Campuchia, tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định
trong khu vực, ảnh hưởng xấu đến quan hệ hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân các nước
gây khó khăn nghiêm trọng chi sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, vấn đề giải
tỏa tình trạng đối đầu, thù địch của các nước trong khu vực đối với Việt Nam, tiến tới
thiết lập quan hệ và mở rộng hợp tác với các nước là hết sức quan trọng và cấp bách,
nhằm tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.

2.2.2. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế:
Là một nước nông nghiệp lạc hậu, chịu hậu quả của 30 năm chiến tranh liên tục
chống các đế quốc giàu mạnh nhất thế giới, Việt Nam bị tàn phá nặng nề, có nguy cơ bị
tụt hậu xa so với thế giới và khu vực. Trong khi nhân loại đang chuyển sang nền văn minh
tri thức thì chúng ta vẫn đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - thời đại của
cách mạng khoa học - kỹ thuật. Việt Nam là một trong số rất ít nước có nền kinh tế tăng
trưởng không ổn định, cơ sở hạ tầng kém phát triển, lại đang lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội.
Mặt khác sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cả nước định hướng lên chủ nghĩa
xã hội thì các thế lực thù địch thực hiện bao vây, cấm vận, gây xung đột vũ trang, làm mất
ổn định chính trị. Các thế lực thù địch lợi dụng “vấn đề Camuchia” để cô lập Việt Nam
với thế giới bên ngoài và khu vực. Bọn phản động lưu vong âm mưu câu kết với các thế
lực đế quốc để “chuyển lửa về quê hương”, kích động gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, gây
mất ổn định xã hội ở Tây Bắc, Tây Nam Bộ, Nam Trung Bộ...
Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và nguy cơ tụt hậu, phá vỡ thế bao vây
cấm vận của chủ nghĩa đế quốc, hội nhập quốc tế và khu vực, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trong tình hình mới, nhu cầu đổi mới
toàn diện đất nước trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại là đòi hỏi khách quan được
23


×