Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về NHÀ nước KIỂU mới, vận DỤNG vào VIỆC xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG sự NGHIỆP đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.41 KB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU
MỚI, VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: SƯ PHẠM GIÁO DỤC CÔNG DÂN

SV thực hiện
HUỲNH MỸ NHÂN

GV hướng dẫn
ThS. ĐINH VĂN PHƯƠNG

MSSV: 6064671

CẦN THƠ, 2009


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI
- NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ chí Minh về Nhà nước kiểu mới
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân--------------------------------------------------5
1.1.1. Cơ sở lý luận ------------------------------------------------------------------5


1.1.2. Cơ sở thực tiễn-------------------------------------------------------------- 13
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì
dân --------------------------------------------------------------------------------------- 20
1.2.1. Nhà nước của dân --------------------------------------------------------- 20
1.2.2. Nhà nước do dân ---------------------------------------------------------- 23
1.2.3. Nhà nước vì dân----------------------------------------------------------- 25
1.2.4. Quan điểm về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước ta---------------------- 30
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước pháp quyền dân chủ
nhân dân ------------------------------------------------------------------------------- 36
1.3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp quyền ------------------------ 36
1.3.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền ---------------- 39
Chương 2: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VỮNG MẠNH DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH ---------------------------------------------------------------------------- 49
2.1. Quá trình hình thành quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ------------------------------------------------ 49
2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong bối cảnh mới hiện nay ------------------------------------------- 54
2.2.1. Mục tiêu -------------------------------------------------------------------- 54
2.2.2. Một số nhiệm vụ chủ yếu------------------------------------------------ 54
2.3. Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay ------------------------------------------------------------------- 59


2.3.1 Những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng---------------- 59
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém trong quá trình xây dựng ---------------- 65
2.4. Những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới------ 69
2.4.1. Phương hướng ------------------------------------------------------------- 69

2.4.2. Một số giải pháp ---------------------------------------------------------- 71
KẾT LUẬN-------------------------------------------------------------------------------- 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO -------------------------------------------------------------- 90


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay thực chất là lấy việc giải phóng lực lượng sản xuất, trong đó nhân tố
quan trọng nhất là giải phóng người lao động làm mục tiêu cơ bản của mình. Muốn
vậy, trong giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản
phải trở thành giai cấp lãnh đạo, phải “giành lấy dân chủ”. Để làm được điều đó,
chỉ bằng việc thiết lập Nhà nước chuyên chính vô sản, một Nhà nước kiểu mới và
sử dụng Nhà nước ấy như một công cụ đắc lực để phát triển toàn diện xã hội mới,
phát triển triệt để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề Nhà nước là một
nội dung cơ bản, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, Nhà nước kiểu mới của ta là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Đó là Nhà nước thể hiện ý chí, quyền lực, lợi ích đều
thuộc về nhân dân, là công cụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Vì lẻ đó, chính quyền Nhà nước dân chủ nhân dân phải thể hiện “một
chính quyền, một Nhà nước cách mạng do giai cấp công nhân và chính Đảng của
nó lãnh đạo”. Có thể nói, quan điểm về Nhà nước của dân, do dân và vì dân là quan
điểm xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, nhất là trong
lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng, bảo vệ và phát triển Nhà nước kiểu mới ở nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do dân và
vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Là cơ sở để Đảng và nhân dân ta xây
dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay, với cơ chế vận hành bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều
thuộc về nhân dân.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay diễn ra trong

bối cảnh mới của tình hình quốc tế và xu thế toàn cầu hóa đang đặt ra những nhiệm
vụ hết sức nặng nề đòi hỏi Nhà nước ta cần có sự đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và toàn
diện hơn trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội.


Mặt khác, trong công cuộc đổi mới hiện nay, những yếu kém của bộ máy
Nhà nước ngày càng bộc lộ rõ: Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, việc thi hành
pháp luật chưa nghiêm, tổ chức bộ máy Nhà nước cồng kềnh, kém hiệu lực và hiệu
quả thấp, nạn quan liêu, lãng phí và tham nhũng nghiêm trọng, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ còn yếu, sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường đúng
mức…Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: “Tích cực
phòng ngừa và kiên quyết phòng chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc
của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lao
động trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự
sống còn của chế độ ta”[39, t.45, 46].
Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước pháp quyền để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay trong sạch, vững mạnh là vấn đề vừa mang tính cấp thiết, vừa có ý
nghĩa lâu dài. Đó là lí do tác giả chọn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu
mới. Vận dụng vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền – Nhà nước của dân, do dân, vì dân là
một nội dung lớn trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta thấy,
trong giới nghiên cứu và giới báo chí của nhiều nước hiện đang nói nhiều đến “Nhà
nước pháp quyền”, coi đó như một xu thế để phát triển Nhà nước trong tình hình
mới, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Ở nước ta cũng đã có nhiều
đề tài khoa học, nhiều chuyên đề khảo cứu về lĩnh vực này như:

- “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới” (2006) của Nguyễn Văn Yểu và GS.TS.Lê Hữu Nghĩa, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
- “Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2003) của Lê Minh Quân, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
Trong đó cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền kiểu
mới ở Việt Nam” (2003) của 2 tác giả Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong- Nhà


xuất bản Lao động, Hà Nội, đã trình bày một cách khá đầy đủ tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới – Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở nước
ta. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đó, luận văn tiếp tục làm sáng tỏ thêm tính
nhân dân của Nhà nước, những luận điểm về “pháp quyền”, “Nhà nước pháp
quyền”, quá trình hình thành quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và vận dụng vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa vững mạnh trong sự nghiệp đổi mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước là một vấn đề rộng. Trong phạm vi luận
văn, chỉ tập trung làm rõ các vấn đề sau:
- Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền kiểu
mới – Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Quan điểm cơ bản của Đảng ta hiện nay về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay và những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng và nâng cao hiệu lực
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân; nội dung xây dựng Nhà nước pháp
quyền kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó làm cơ sở tổng kết những thành
tựu đạt được cũng như rút ra những mặt hạn chế, yếu kém trong quá trình xây dựng
hiện nay, đề ra những nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp để xây dựng một Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng
đáng là “ Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và tạo nền tảng
vững chắc cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách
của Đảng cộng sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề, luận văn còn sử dụng
những số liệu, nhận xét, đánh giá của một số công trình nghiên cứu của các tác giả
có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các nguyên tắc có tính phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp logic – lịch sử
- Phương pháp diễn dịch
- Phương pháp quy nạp
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 2 chương và 7 tiết.



Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI,
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới –
Nhà nước của dân, do dân, vì dân
1.1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1.1. Hồ Chí Minh với truyền thống dân tộc về tổ chức Nhà nước
Cùng với việc tiếp thu truyền thống yêu nước và lòng nhân ái từ gia đình
và quê hương, đất nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến truyền thống dân tộc về tổ
chức Nhà nước.
Văn Lang là tên nước đầu tiên của dân tộc Viêt Nam. Nhà nước Văn Lang –
Âu Lạc tuy còn sơ khai, vẫn là sự mở đầu truyền thống dân tộc về tổ chức Nhà
nước. Nhà nước ra đời sớm là cơ sở, nền tảng bền vững cho quá trình sinh tồn của
quốc gia – dân tộc Việt Nam. Với Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc , người Việt đã có
một lãnh thổ chung, một tiếng nói chung, một cơ sở kinh tế xã hội gắn bó trong một
thể chế Nhà nước sơ khai, một lối sống mang sắc riêng, đã tự khẳng định sự tồn tại
của mình như một quốc gia văn minh có đủ điều kiện và đủ khả năng vững vàng
tiến lên vượt qua mọi thử thách trong lịch sử.
Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử mà việc
xây dựng chính quyền có những hình thái tổ chức, tính chất và mục tiêu Nhà nước
khác nhau. Chính quyền tự chủ thời Hai Bà Trưng mới chỉ là mầm móng đầu tiên
của một chính quyền độc lập (từ năm 40 đến năm 43). Đến chính quyền tự chủ họ
Khúc (905 – 938) đã là một chính quyền độc lập từ Trung ương đến cấp xã, mà
đường lối chính trị chung của Khúc Hạo là “chính sự cốt chuộng khoan dung, giản
dị, nhân dân đều được yên vui”. Chính quyền Trung ương độc lập thời Ngô Quyền,
theo nhận xét của Ngô Sĩ Liên thì “có thể thấy được quy mô của đế vương”. Đến
Đinh Bộ Lĩnh, “bắt đầu định giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo”. Là sản
phẩm của cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, Nhà nước độc lập tự chủ từ họ Khúc

đến tiền Lê trước sau nhất quán là các vương triều luôn luôn vươn lên tự khẳng
định ở mức độ cao hơn chủ quyền quốc gia đối với nạn ngoại xâm và củng cố thêm


sức mạnh của Nhà nước tập quyền trên cơ sở cố kết các cộng đồng công xã nông
thôn vào cộng đồng quốc gia dân tộc.
Thời Lý với việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La đổi tên là thành Thăng Long
với ý đồ “mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”, phản ánh niềm
tự hào, lòng tin, quyết tâm của cả một dân tộc giữ vững nền độc lập của tổ quốc.
Nước Đại Việt phản ánh ý thức cao trong quan hệ bình đẳng với các nước lúc bấy
giờ. Chế độ Trung ương tập quyền thời Lý dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về
ruộng đất, có những bước phát triển toàn diện, đặt nền tảng vững chắc cho sự phát
triển bền vững, liên tục sau này của dân tộc.
Thế kỷ XV, Nhà nước ta bước vào thời kỳ phát triển Nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền. Đó là bộ mày Nhà nước quan liêu, to lớn, nặng nề, các chế
độ cai trị được thể chế hóa một cách cụ thể. Quá trình tổ chức, hoạt động của bộ
máy Nhà nước có sự giám sát lẫn nhau của một số loại cơ quan Nhà nước. Nhìn
chung, nước Đại Việt thế kỷ XV là một quốc gia hùng mạnh, vừa bảo vệ được toàn
vẹn lãnh thổ, vừa đánh bại mọi âm mưu xâm lược từ bên ngoài.
Thời kỳ nội chiến Đàng Trong – Đàng Ngoài là một giai đoạn lịch sử đặc
biệt của Việt Nam. Bộ máy Nhà nước mang nặng tính chất quan liêu, chuyên chế,
cồng kềnh, phức tạp, nặng nề và quân sự. Nhân dân bị đè nén nặng nề, đời sống
cực khổ. Nạn tham nhũng trở nên phổ biến. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gây gắt.
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là tiêu biểu nhất dẫn tới việc thiết lập vương triều Quang
Trung, một vương triều vừa nặng tính chất quan liêu như các triều đại phong kiến
trước đó, vừa thể hiện ý thức độc lập và tự cường dân tộc, mà biểu hiện rõ nét là
chăm lo đến việc khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa.
Thế kỷ XVIII khép lại với việc chấm dứt vương triều Tây Sơn, nhường chỗ
cho triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam với một Nhà nước quân chủ chuyên
chế tập trung cao độ: triều Nguyễn. So với việc tăng cường xây dựng, phát triển

các Nhà nước trước khi xuất hiện triều Nguyễn, việc củng cố chế độ phong kiến
triều Nguyễn là việc làm đi ngược lại quy luật khách quan, không phù hợp với xu
thế phát triển của thế giới ở thế kỷ XIX, khi mà phương thức sản xuất phong kiến
đã trở nên lỗi thời. Vì vậy, vấn đề Nhà nước thời Nguyễn, với nhiều hạn chế và tiêu
cực của nó, là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự suy vong không thể tránh


khỏi. Nhà nước chìm vào một thời kỳ khủng hoảng triền miên, trầm trọng, dẫn tới
sự thất bại trước những nhiệm vụ lịch sử trọng đại giữ thế kỷ XIX.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi thực dân Pháp đã đặt được ách đô hộ
hoàn toàn ở nước ta. Chúng đã thiết lập được bộ máy cai trị thực dân phong kiến
trên toàn cõi Đông Dương.
Hơn 20 năm sống, học tập trong môi trường văn hóa gia đình, quê hương,
dân tộc, Hồ Chí Minh được tiếp xúc, học tập với các thấy giáo và những sĩ phu yêu
nước đầy nhiệt huyết, mà trước hết là người cha thân yêu, rồi Phan Bội Châu,
Vương Thúc Quý, Hoàng Phan Quỳnh … Ngoài những trang sách Nho giáo, Hồ
Chí Minh còn đọc nhiều sách về lịch sử Việt Nam. Nguồn tri thức phong phú trong
các sách lịch sử đã giúp Người hiểu biết về truyền thống đoàn kết chống địch họa,
thiên tay trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ của dân
tộc. Những kiến thức lịch sử và truyền thống dựng nước của dân tộc đã in đậm
trong các trang sách của Hồ Chí Minh. Người thường nhắc nhở “dân ta phải biết sử
ta”. Sử ta dạy cho ta am tường gốc tích nước nhà Việt Nam; hiểu biết về nòi giống
“con Rồng cháu Tiên”. Người coi đó là nền tảng tinh thần vững chắc để khôi phục
nước nhà tổ tông, giành lấy chủ quyền nhằm mục đích vì nước vì nhà; vì tên Nam
Việt rạng danh Lạc Hồng.
Rõ ràng là dân tộc ta có một truyền thống vẻ vang về dựng nước và tổ chức
Nhà nước. Truyền thống đó có sự tác động theo nhiều hướng khác nhau tới tuổi trẻ
Hồ Chí Minh, mà ảnh hưởng sâu sắc nhất, in đậm trong suy tư của Người là tinh
thần hòa thuận, tạo công sức dựng nước cùng ý thức, ý chí quật cường khôi phục và
giữ vững chính quyền của thế hệ đi trước. Tinh thần dựng nước và giữ nước của

người xưa truyền cho Hồ Chí Minh niềm tin, sức mạnh và quyết tâm giành độc lập,
tự do.
1.1.1.2. Hồ Chí Minh với việc tìm tòi, lựa chọn Nhà nước kiểu mới theo
học thuyết Mác – Lênin
Trong khi đặt vấn đề về xây dựng một xã hội mới, một Nhà nước kiểu mới
của nhân dân lao động, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa và
phát huy tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Điều này được thể
hiện trong các tác phẩm đầu tiên: “Sự khốn cùng của triết học”, “Phê phán triết


học pháp quyền của Hêghen”, và được đặt ra một cách chính diện trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng Sản”.
Chính Mác và Ăngghen đã đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới trong đó: Tự
do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người và giải phóng
con người là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền kiểu mới, là Nhà nước tổ chức
được một đời sống chung của nhân dân trong đó đảm bảo được sự phát triển tự do
tối đa và phát triển toàn diện của con người. Tự do được đặt ra trong “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng Sản” được quan niệm là biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội
thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội đó, và tự do ở mức độ cao hơn hay thấp
hơn của các hình thức Nhà nước được xác định bởi pháp luật mà các cơ quan và
viên chức Nhà nước phải tuân theo.
Khi tổng kết những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng Châu Âu năm
1848, một trong những đóng góp quan trọng nhất của Mác và Ăngghen đối với Chủ
nghĩa xã hội khoa học là lần đầu tiên nêu lên luận điểm cách mạng Vô sản: phải
đập tan bộ máy Nhà nước cũ của giai cấp tư sản và khái niệm chuyên chính vô sản
đã ra đời. Trong tác phẩm thiên tài “Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui
Bônapactơ”, Mác đã đưa ra lời giải đáp sâu sắc cho vấn đề lý luận quan trọng về
quan hệ của cách mạng Vô sản đối với bộ máy Nhà nước tư sản trong đấu tranh
giai cấp ở Pháp 1848 – 1850 – phải đập tan bộ máy Nhà nước tư sản. Kết luận có ý
nghĩa quan trọng này của Mác làm phong phú và phát triển học thuyết mác-xít về

Nhà nước.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, vấn đề về Nhà nước được đề cập rất
trừu tượng, chỉ là cách nói và khái niệm chung nhất: giai cấp vô sản sẽ đánh đổ giai
cấp tư sản và thiết lập nền thống trị của mình. Nhưng ở đây, vấn đề Nhà nước được
nêu ra một cách cụ thể và kết luận rút ra hết sức chính xác, dứt khoát về mặt thực
tiễn: tất cả các cuộc cách mạng trước đây đều chỉ làm cho Nhà nước thêm hoàn bị,
nhưng điều cần làm là phải phá hủy, phải đập tan nó đi. Lênin cho rằng: Kết luận
ấy là cái chính, cái căn bản trong học thuyết của Chủ nghĩa Mác về Nhà nước.
Trong đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 – 1850, Mác đã nêu lên khẩu hiệu
đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản phải là: lật đổ giai cấp tư sản và chuyên
chính của giai cấp công nhân!. Ở đây, lần đầu tiên Mác sử dụng khái niệm “chuyên


chính vô sản”. Khi nghiên cứu khái niệm đó, Lênin chỉ ra: ở đây, chúng ta thấy nêu
lên một trong những tư tưởng đặc sắc nhất và trọng yếu nhất của Chủ nghĩa Mác về
vấn đề Nhà nước, chính là tư tưởng chuyên chính vô sản. Khái niệm chuyên chính
vô sản mà Mác sử dụng ở đây là phản ánh đúng đắn thực chất Nhà nước vô sản.
Chuyên chính vô sản tất yếu phải dựa vào bạo lực cách mạng trấn áp sự phản kháng
của giai cấp bóc lột, củng cố nền thống trị của giai cấp vô sản. Mác còn giải thích
chuyên chính vô sản là giai cấp vô sản phải nắm lấy bộ máy Nhà nước đồng thời
phải đại biểu cho lợi ích của nông dân – người bạn đồng minh của mình.
Căn cứ vào quan điểm mới này về Nhà nước, Mác đã tổng kết hành loạt
những nguyên tắc tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền:
Thứ nhất, xây dựng quân đội của bản thân giai cấp công nhân, Mác đã vạch
ra nguyên tắc quan trọng là: phải có chuyên chính vô sản mà điều kiện của nó là
quân đội của giai cấp vô sản và quân đội của giai cấp vô sản sẽ khác về bản chất so
với quân đội thường trực của bất kỳ giai cấp bóc lột nào. Quân đôi của giai cấp vô
sản là quân đội do nhân dân tổ chức nên, chịu sự lãnh đạo của Nhà nước vô sản, là
quân đội nhân dân phát huy vai trò và quyền lực của quần chúng nhân dân trong
chiến tranh cách mạng.

Thứ hai, nhân dân bầu ra và giám sát những người “đầy tớ” của mình để thay
thế các quan lại của chế độ cũ. Và những người “đầy tớ” này có thể bị nhân dân bãi
miễn bất cứ lúc nào.
Thứ ba, để đặt nền móng cho chế độ dân chủ chân chính của nước Cộng hòa
nhân dân mà điển hình là Công xã Pari đã áp dụng chính thể cộng hòa dân chủ, thể
hiện đầy đủ nguyên tắc của chế độ tập trung dân chủ; nêu một mẫu mực sáng chói
cho việc xây dựng một Nhà nước Cộng hòa nhân dân kiểu mới của giai cấp vô sản.
Thứ tư, phát huy chức năng quản lý kinh tế, văn hóa và xã hội của chuyên
chính vô sản, tìm tòi con đường cách mạng xã hội để quét sạch cơ sở kinh tế của sự
thống trị giai cấp.
C.Mác tiếp thu kinh nghiệm quý báo của Công xã Pari và chỉ rõ rằng: giữa
xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ đến xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Nhà nước chuyên chính vô


sản là một hình thức tiến hóa của Nhà nước; nó mang bản chất giai cấp công nhân.
Hình thức Nhà nước này chỉ mang tính chất quá độ, là Nhà nước của thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi lật đổ nền chuyên chính tư sản,
cách mạng xã hội chủ nghĩa thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản – một
nền chuyên chính đập tan được sự kháng cự quyết liệt của giai cấp bóc lột bị gạt
khỏi chính quyền. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ: chuyên
chính vô sản là một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối
với những người vô sản và nói chung những người không có của) và chuyên chính
kiểu mới (chống giai cấp tư sản).
Như vậy, trong tư tưởng của Mác và Ăngghen thì khái niệm Nhà nước pháp
quyền có thể chưa được sử dụng. Nhưng những tư tưởng cốt lõi của Nhà nước pháp
quyền đề cập một cách sâu sắc theo quan điểm khoa học và cách mạng: đó là Nhà
nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp; một hệ thống pháp luật dân chủ triệt để, pháp
chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con người. Nói cách khác, trong khi đặt

vấn đề xây dựng một xã hội mới, một Nhà nước kiểu mới thì Mác và Ăngghen đã
kế thừa và phát triển tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới:
Trước hết, từ chỗ đề cao dân chủ pháp luật và tính nhân văn của pháp luật
như là những giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền, có thể khẳng định chắc chắn
rằng, Mác và Ăngghen đã hướng tới một Nhà nước pháp quyền đích thực.
Về mặt Nhà nước, Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt để,
dân chủ là do nhân dân tự quy định, là bước chuyển từ xã hội “thần dân” sang xã
hội công dân, là từ “nhân dân của Nhà nước” sang “Nhà nước của nhân dân”. Dân
chủ là xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người. Trong xã hội mới, sẽ
tạo ra những điều kiện cơ bản để giải phóng cá nhân, như Ăngghen đã nói: xã hội
sẽ không thể giải phóng cho mình được nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng
biệt. Do vậy, xã hội đó phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật. Ăngghen viết: Đối
với chúng ta… một điều bất di bất dịch là quan hệ giữa người cầm quyền và người
bị lãnh đạo phải được thiết lập trên cơ sở pháp luật.
Về sau, những tư tưởng Nhà nước pháp quyền ấy được V.I.Lênin tiếp thu và
phát triển trong quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới, trong đó xác định rõ, mục
đích của chính quyền Xô Viết là thu hút những người lao động tham gia vào quản


lý Nhà nước; thực hiện một nền dân chủ rộng rãi nhằm giải phóng con người và
phát triển toàn diện con người trong xã hội mới. Trong bối cảnh mới của quốc tế,
V.I.Lênin đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, thành
lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, mở đầu một thời đại mới –
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Lênin đã nói: không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thực hiện
được theo hai nghĩa: Thứ nhất giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó
thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội chiến
thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến
thủ tiêu Nhà nước nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ.

Về mặt Nhà nước, V.I.Lênin xác định phải thực hiện chế độ dân chủ theo các
hướng cơ bản sau:
Quyền bầu cử được thực hiện ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công và dần dần được mở rộng. Bầu cử theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp, bỏ phiếu kín” là nguyên tắc tiến bộ nhất của nền dân chủ hiện đại. Qua
đó, những người lao động tự lựa chọn những người xứng đáng nhất thay mặt mình
giải quyết và quản lý công việc của Nhà nước và xã hội.
Quyền tham gia quản lý Nhà nước của những người lao động. Theo
V.I.Lênin, những người lao động phải thay nhau tham gia vào tổ chức và quản lý
Nhà nước. Theo đó, mỗi lần bầu cử nhất thiết phải đổi mới thành phần đại biểu để
có thêm nhiều đại biểu mới có năng lực và qua đó, ngày càng có nhiều người
trưởng thành và thật sự trở thành cán bộ quản lý Nhà nước kiểu mới.
Quyền bãi miễn là một quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chế
độ dân chủ. Thực hiện đúng đắn vấn đề có tính nguyên tắc này sẽ làm tăng thêm
trách nhiệm của đại biểu đối với cử tri và xã hội, tức là thực hiện sự phục tùng thật
sự của những người được bầu cử đối với nhân dân, là nguyên tắc nhằm thực hiện
triệt để chế độ dân chủ, bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
Về mặt pháp luật, Lênin khẳng định rõ vai trò của pháp luật và pháp chế
trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội; rằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải dùng phương


pháp “căn cứ vào luật lệ của mình” là điều kiện cần và đủ cho chủ nghĩa xã hội
thắng lợi triệt để.
Ánh sáng cách mệnh Tháng Mười Nga và luận cương của V.I.Lênin ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan của Hồ Chí Minh, giúp Người dứt
khoát đi theo Quốc tế thứ ba, lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Người khẳng
định khát vọng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” [13, tr.94].
Hồ Chí Minh ca ngợi những thành tựu về kinh tế - xã hội của Liên Xô, ca

ngợi Chính sách kinh tế mới của Lênin, đặt biệt khẳng định sự ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Hồ Chí Minh viết:
Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc Pháp
khoe khoang bên Việt Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa
chủ rồi lại ra sức cho công, nông các nước và các dân tộc bị áp bức, các
thuộc địa làm cách mệnh để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản
trong thế giới.
Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công
thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền
gan, phải hy sinh, phải thống nhất [13, tr. 280].
Như vậy, ngoài việc kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về
Nhà nước kiểu mới cùng với sự kiện năm 1920 đọc Luận cương của Lênin, Hồ Chí
Minh đã có một sự lựa chọn mang tính cách mạng và khoa học. Về con đường cách
mạng, Người khẳng định dứt khoát đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười
Nga, con đường cách mạng vô sản. Về lý luận, dứt khoát lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Về mô hình Nhà nước,
Người lựa chọn kiểu Nhà nước Xô viết, Nhà nước theo học thuyết Mác – Lênin,
Nhà nước mà quyền giao cho dân chúng số đông. Trong Đường cách mạng Người
viết: “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra chính phủ công, nông, binh, phát đất
ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư


bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa
thế giới đại đồng” [13, tr.280].
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, Nhà nước Xô viết, Nhà nước của
chuyên chính vô sản đã đem lại cho nhân dân nền dân chủ thật sự, đã tỏ rõ sức sống
của một chế độ mới, một lực lượng mới, những người làm chủ vận mệnh của mình.
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, nhân dân lao động bắt tay vào xây dựng xã

hội xã hội chủ nghĩa không có bóc lột và áp bức. Hồ Chí Minh gắng làm tất cả,
nguyện cống hiến đời mình để xây dựng một Nhà nước kiểu mới như thế phù hợp
với hoàn cảnh thực tế Việt Nam.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
1.1.2.1. Hồ Chí Minh với việc khảo sát các kiểu Nhà nước trong lịch sử
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có Nhà nước. Trong xã hội
nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa
có Nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và các bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu
ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tính và đạo đức, việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ
không có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Như vậy, thể chế xã
hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy là chế độ tự quản của nhân dân.
Trong xã hội nguyên thủy, con người có được quyền bình đẳng phổ biến và
tuyệt đối. Xã hội phát triển lên một bước mới đã dẫn đến sự chiếm đoạt tài sản
công làm của riêng dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, hình thành giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Sự xuất hiện Nhà nước đánh dấu sự ra đời của xã hội công dân –
một xã hội đối lập với “xã hội tự nhiên” cộng sản nguyên thủy. Đây là một bước
tiến quan trọng trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện Nhà nước
thì chế độ tự quản của nhân dân cũng không còn nữa mà thay vào đó là Nhà nước
cai trị bằng pháp luật, đời sống xã hội do pháp luật điều chỉnh – Nhà nước pháp
quyền đã ra đời từ đó. Công cụ cơ bản của quyền lực Nhà nước là các cơ quan Nhà
nước và pháp luật. Nhà nước xây dựng một hệ thống cơ quan quyền lực và hệ
thống pháp luật mang tính chất cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Trong lịch sử nhân loại, nhờ có pháp luật mà Nhà nước thực hiện được chức năng


của mình, còn bản thân pháp luật trở thành công cụ của việc thực hiện quyền lực
Nhà nước.
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là ba
hình thái kinh tế - xã hội sau: hình thái kinh tế - xã hội Chiếm hữu nô lệ, hình thái

kinh tế - xã hội Phong kiến và hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa là ba kiểu
Nhà nước: Nhà nước Chiếm hữu nô lệ, Nhà nước Phong kiến và Nhà nước tư sản.
Kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại là Nhà nước Chiếm hữu nô
lệ (Nhà nước Chủ nô). Nhà nước này vừa thực hiện chức năng thống trị giai cấp
của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ; vừa thực hiện chức năng xã hội – duy trì
xã hội trong trạng thái trật tự; ổn định bằng pháp luật. Đây là Nhà nước của giai cấp
chủ nô thời cổ đại mà tiêu biểu là ở những nước có chế độ nô lệ phát triển như Hy
Lạp và La Mã cổ đại, Nhà nước Chủ nô được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau.
Trong Nhà nước Chủ nô, tất cả các quyền đều thuộc về giai cấp chủ nô, pháp
luật Nhà nước không coi nô lệ là con người. Dù trong Nhà nước Cộng hòa Dân chủ
chủ nô, pháp luật quy định tất cả mọi người đều tham gia bầu cử, nhưng đó chỉ là
quyền của chủ nô và một phần những người tự do. Còn trong Nhà nước quân chủ
chủ nô, mọi quyền hành nằm trong tay vua – một hoàng đế đại diện cho quyền lực
của giai cấp chủ nô, hoàn toàn có quyền xử phạt nô lệ, tự do quyết định quyền sống
hoặc chết của nô lệ.
Đến thời trung cổ, sự thống trị của giai cấp phong kiến đối với nông dân thay
thế cho sự thống trị của giai cấp chủ nô đối với nô lệ; kiểu Nhà nước Phong kiến
thay cho Nhà nước Chiếm hữu nô lệ. Nhà nước này được xây dựng dựa trên chế độ
chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc. Nhà nước Phong kiến cũng được
tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: phân quyền và tập quyền.
Ở phương Tây, hình thức quân chủ phân quyền là hình thức Nhà nước phổ
biến. Quyền lực Nhà nước được chia thành quyền lực độc lập, địa phương phân tán.
Mỗi chúa phong kiến là một ông vua trên lãnh thổ của mình. Chúa phong kiến nhỏ
chỉ là chư hầu của chúa phong kiến lớn. Và hoàng đế là chúa phong kiến lớn nhất
và chỉ có thực hiện trên lãnh thổ của mình, ít có khả năng chi phối các lãnh địa
khác. Mối liên hệ thực sự giữa các chúa phong kiến chủ yếu được thiết lập bằng các


hình thức liên minh của các Nhà nước cát cứ. Trong Nhà nước Phong kiến phân

quyền, chỉ có các chúa phong kiến mới có đủ mọi quyền, còn nông nô hầu như
không có quyền gì. Do vậy, trên thực tế, địa vị của nông nô khác rất ít so với địa vị
của nô lệ.
Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình thức quân chủ tập
quyền là hình thức Nhà nước phổ biến, dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng
đất. Trong Nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế
có uy tính tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật: “quân xử thần tử, thần bất tử bất
trung”. Tuy nhiên, tính tập quyền đó trong lịch sử là dựa vào sức mạnh quân sự là
chủ yếu.
Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, Nhà nước Phong kiến cũng chỉ là chính
quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc; là cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong
kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để thống trị, áp bức, bóc lột
nông nô.
Cách mạng Tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng nên Nhà nước Tư
sản. Đây là Nhà nước của giai cấp tư sản thích ứng với hình thái kinh tế - xã hội Tư
bản chủ nghĩa. Nhà nước Tư sản bao gồm nhiều hình thức cơ bản: chính thể quân
chủ lập hiến và chính thể cộng hòa; sau đó phân chia thành cộng hòa đại nghị và
cộng hòa tổng thống – trong đó hình thức cộng hòa đại nghị là hình thức điển hình
và phổ biến nhất. Tuy có những hình thức khác nhau, song Nhà nước Tư sản vẫn
mang bản chất chung là nền chuyên chính tư sản. Đó là nền chuyên chính của giai
cấp tư sản đối với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội mà điển hình là giai
cấp công nhân và nhân dân lao dộng. Đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp
bức, thống trị giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền
thống trị của giai cấp tư sản. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ ra: “những hình thức của
Nhà nước Tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại
thì tất cả những Nhà nước ấy, vô luận thế nào cũng tất nhiên phải là nền chuyên
chính tư sản” [9, tr.253]. Nó là hình thức tổ chức quyền lực để thực hiện nền dân
chủ tư sản. Nền dân chủ tư sản mặc dù đã đem lại một số lợi ích cho nhân dân lao
động. Thế nhưng, nền dân chủ ấy, cũng như các quyền mà nó đem lại cho nhân dân
lao động còn rất hạn chế, vì xét cho cùng, Nhà nước Tư sản là công cụ bảo vệ lợi



ích của giai cấp tư sản. Đỉnh cao của Nhà nước Tư sản là Nhà nước pháp quyền Tư
bản chủ nghĩa. Có thể nói, Nhà nước pháp quyền Tư bản chủ nghĩa là sản phẩm của
sự phát triển lịch sử, là thành tựu mà xã hội tư bản đã đạt được.
Ngày nay, Nhà nước pháp quyền Tư bản chủ nghĩa có vẻ bề ngoài như là
những hình thức và thể chế dân chủ nhất: nó tuyên bố quyền dân chủ và bình đẳng
trước pháp luật của mọi công dân, thừa nhận quyền của người lao động được ứng
cử vào các cơ quan quản lý Nhà nước. Song, trong thực tế, đó chỉ là sự dân chủ và
bình đẳng có tính chất hình thức và hạn chế. Pháp luật của Nhà nước Tư sản cho
phép bọn tư sản tha hồ bóc lột sức lao động của nhân dân lao động, đặc biệt là
người công nhân và nó cũng cho phép người công nhân tự do bán sức lao động cho
nhà tư bản. Nền dân chủ tư sản là nền dân chủ của thiểu số bọn bóc lột, nó cho
phép giai cấp tư sản quản lý các công việc của Nhà nước. Và bản chất chủ yếu của
dân chủ tư sản là sự chuyên chính không hạn chế đối với người lao động. Và trong
những trường hợp nhất định, khi lợi ích tư sản đòi hỏi, giai cấp tư sản sẵn sàng thu
hẹp quyền tự do dân chủ, thậm chí sẵn sàng từ bỏ hình thức chính trị tốt nhất của
chủ nghĩa tư bản – tức là cái vỏ dân chủ, để lộ nguyên hình là một nền chuyên
chính công khai dưới hình thức độc tài phát xít – một hình thức biểu hiện của
chuyên chính tư sản. Nhà nước phát xít khác với Nhà nước pháp quyền tư bản chủ
nghĩa ở chỗ, nó là nền chuyên chính công khai của giai cấp tư sản đối với nhân dân
lao động. Trong Nhà nước đó, mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân giành được
qua đấu tranh bị tước bỏ, chủ nghĩa Sôvanh dân tộc được truyền bá một cách công
khai. Còn Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa được che đậy bởi dân chủ hình
thức.
Nghiên cứu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ và thể chế cộng hòa của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, đặc biệt là tư tưởng Tuyên ngôn độc lập. Trong đó Hồ
Chí Minh rất coi trọng chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng,
rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có
quyền sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo các

quyền ấy mà các chính quyền đã được thiết lập và các quyền lực chính đáng được
trao cho chính quyền. Một hình thức chính quyền nào đó có hại cho các quyền đó


thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc phế bỏ và lập nên một chính quyền mới theo
nguyên tắc và hình thức thích hợp nhất để đảm bảo quyền của nhân dân.
Nghiên cứu cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789, Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng tư tưởng tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền. Trong đó nói rõ: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Nền cộng hòa được thành lập ở Mỹ và ở Pháp. Thế nhưng, dưới chế độ đó,
dân chúng nhất là công nông vẫn cứ cực khổ. Vì đó là nền cộng hòa tư sản, quyền
lực nằm trong tay một số ít người – giai cấp tư sản.
Nghiên cứu và so sánh cách mạng Tháng mười Nga với cuộc cách mạng Mỹ
và cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ chủ nghĩa Mác – Lênin là học
thuyết cách mạng chân chính nhất và cách mạng Nga là cuộc cách mạng triệt để,
thực sự đem lại sự bình đẳng, tự do, hạnh phúc cho đông đảo quần chúng.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã chọn con đường cách mạng của người Nga
và lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để soi đường giải phóng cho dân
tộc, thiết lập một kiểu Nhà nước mới đại biểu cho lợi ích của đông đảo quần chúng.
Đó là một định hướng chinh trị cơ bản của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng
dân tộc, thiết lập một thể chế quyền lực của nhân dân, thực hiện mục tiêu đấu tranh
vì độc lập, tự do của Người.
1.1.2.2. Thực tiễn nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về:
Vấn đề chính quyền nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng.
Song, Người thấy rõ rằng vấn đề chính quyền ở nước ta không thể dập khuôn theo
các nước khác, mà cần phân tích cụ thể một tình hình cụ thể để có lời giải đáp
đúng, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước và quy luật phát triển của cách

mạng Việt Nam.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, chúng ta cũng có Nhà nước, đó là Nhà
nước mang bản chất của giai cấp phong kiến. Từ khi thực dân Pháp vào xâm lược
đã hình thành nên chính quyền thực dân phong kiến với quyền lực Nhà nước tập


trung vào trong tay thực dân Pháp và phục vụ cho lợi ích của chúng. Trong lời phát
biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Chủ nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông Dương từ nữa thế kỷ nay; vì lợi
ích của nó, nó đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó,
chúng tôi không những bị áp bức bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành
hạ và đầu độc một cách thê thảm… Bất cứ người bản xứ nào có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử. Cái gọi
là công lý Đông Dương là thế đấy [12, tr.22].
Vì thế, nhiệm vụ đặt ra cấp thiết trước tình hình thực tế này là phải tìm cách
đánh đuổi thực dân Pháp và sau khi đánh đuổi thực dân Pháp thì phải tổ chức quyền
lực Nhà nước như thế nào cho phù hợp yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Nhiệm
vụ này đã được nhiều nhà cách mạng với nhiệt thành yêu nước tìm cách giải quyết.
Song, đều không đi đến thắng lợi vì bế tắc ngay từ trong đường lối và hạn chế về
quan điểm, lập trường giai cấp.
Với ý thức hệ phong kiến, các sĩ phu lãnh đạo phong trào Cần Vương và
phong trào Văn Thân (1858 -1896) chủ trương kháng Pháp và khôi phục ngôi vua.
Thực chất của khuynh hướng này là xây dựng lại Nhà nước quân chủ phong kiến
không còn phù hợp với trào lưu chung của thế giới và sự phát triển tất yếu của cách
mạng Việt Nam. Các phong trào này đã thất bại.
Đầu thế kỷ XX, với sự tác động của phong trào dân chủ tư sản, trước hết là
phong trào cải cách ở Trung Quốc và Nhật Bản đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong
trào yêu nước Việt Nam, hình thành xu hướng dân chủ tư sản và đề xướng tư tưởng
Hiến Pháp tư sản ở nước ta. Dòng tư tưởng mới này có ở các nhà yêu nước tiêu
biểu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng. Việc xây dựng

Nhà nước theo khuynh hướng tư sản mặc dù có những mặt tiến bộ nhưng không
phù hợp với cách mạng Việt Nam nên đã không thành hiện thực.
Tình hình thực tế trên cho thấy, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam
chẳng những có cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước mà gắn liền với cuộc
khủng hoảng đó còn có cuộc khủng hoảng, bất cập trong quan điểm lựa chọn, tạo
lập chế độ Nhà nước theo lập trường phong kiến, tư sản. Lịch sử vận động, phát
triển một cách tất yếu, hợp quy luật, đã đòi hỏi một cách khách quan phải tìm chọn


con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc và thiết lập một Nhà nước
kiểu mới ở nước ta. Để đáp ứng lại những đòi hỏi khách quan ấy, Hồ Chí Minh đã
sớm nhận thức được vai trò sứ mệnh của mình nên quyết ra đi tìm đường cứu nước
giải phóng cho dân tộc.
Gần một thập kỷ đấu tranh và khảo sát cách mạng, Hồ Chí Minh đã có sự
lựa chọn, tiếp thu sáng tạo các tư tưởng lớn của thời đại và các hình thức tổ chức
quyền lực chính trị nhằm vạch ra con đường giải phóng dân tộc và tạo dựng tổ chức
cơ quan quyền lực của nhân dân để thực thi điều mong muốn duy nhất của Người là
tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc.
Cuộc cách mạng Tháng Tám thành công (1945), nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Đây là cuộc cách mạng xã hội vĩ đại nhất đánh dấu sự ra đời và
phát triển của một hình thái kinh tế - xã hội mới trong tiến trình lịch sử hàng ngàn
năm của dân tộc Việt Nam. Đây là cuộc cách mạng không chỉ đập tan bộ máy
thống trị của thực dân Pháp, lật đổ chế độ phong kiến hàng ngàn năm mà còn thiết
lập một Nhà nước kiểu mới, một chính quyền do nhân dân lao động làm chủ, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự ra đời Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là kết
quả của sự lựa chọn đúng đắn, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì
dân
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một
Nhà nước dân chủ kiểu mới, Nhà nước do nhân dân lao động là chủ và do nhân dân

lao động làm chủ. Xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động là chủ là tư tưởng
nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đây cũng là kết
luận có tính nguyên tắc mà Người rút ra được khi khảo cứu các cuộc cách mạng
Mỹ, Pháp, Nga và các kiểu Nhà nước được hình thành sau các cuộc cách mạng đó.
Ngay từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã khẳng định dứt khoát: “Chúng ta đã hy sinh
làm cách mệnh, thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm cách mệnh rồi thì quyền giao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều
lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc” [13, tr.270]. Trong Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng – Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, được Hồ Chí
Minh soạn thảo và thông qua tháng 2 - 1930, khái niệm dân chúng số nhiều đã


được cụ thể hóa, bao gồm quần chúng công – nông – binh, những bộ phận đông
đảo, chủ yếu nhất trong cơ cấu dân cư. Nhà nước Việt Nam kiểu mới thể hiện khối
đại đoàn kết dân tộc mà nồng cốt là công – nông – trí thức.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
cùng toàn dân xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Sau một tháng kể từ
ngày Cách mạng Tháng Tàm thành công, trong bài Chính phủ là công bộc của dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào
một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ
nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho
dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” [15, tr.22].
1.2.1. Nhà nước của dân
Đó là Nhà nước mà nhân dân là người chủ. Hiến pháp 1946 do Hồ Chí
Minh làm Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định rõ ngay tại Điều 1: “Tất cả quyền
bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”[43, tr. 8]
Mệnh đề “dân là chủ Nhà nước” được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều lần, thể
hiện rõ nét nhất thực chất, bản chất và tính chất vượt trội của Nhà nước kiểu mới
Việt Nam: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ…” [17,

tr.515]. “Trong Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi
quyền lực đều là của nhân dân…” [18, tr.217]. “Chế độ của ta là chế độ dân chủ.
Nhân dân là chủ…” [18, tr.368]. “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người
lao động” [21, tr.310].
Tính chất dân chủ nhân dân, quyền lực Nhà nước là của dân trở thành một
nguyên tắc nền móng trong tổ chức, xây dựng Nhà nước mới và được quy định rõ
trong các bản Hiến pháp nước ta. Điều 4 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Tất cả quyền
lực trong Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử
dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” [43, tr.23]. Điều thứ 32 –
Hiến pháp 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ
đưa ra nhân dân phúc quyết…” [43, tr. 12]. Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.


Sau khi giành được chính quyền, nhân dân ủy quyền cho các đại diện do
mình bầu ra. Đồng thời, “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân” [20, tr.591].
Trong Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền
dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa
vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nổ lực, hình thành được
các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Người đã nhiều lần
khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”
[18, tr.452]. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền làm chủ của nhân dân càng
trở nên cần thiết, toàn diện hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh và có ý nhắc nhở:
Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy công
nhân, nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: hiện nay nhân dân lao
động là những người làm chủ nước nhà, chứ không phải là những người làm
thuê cho giai cấp bốc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều

kiện để tự tay mình xây dựng dời sống tự do, hạnh phúc của mình [21,
tr.310].
Quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân là một giá trị dân chủ, một thành quả
do cách mạng đem lại. Bởi thế:
Tất cả nhân dân ta phải hiểu sâu sắc rằng: nước nhà là nước nhà của
nhân dân ta, nhân dân ta là người chủ nước nhà. Quyền làm chủ đó là do
cách mạng thành công và kháng chiến thắng lợi đem lại cho nhân dân ta.
Dân làm chủ, thì mọi người, mọi dân tộc phải chung sức làm cho dân
giàu, làm cho đời sống nhân dân được cải thiện, làm cho con cháu ta ngày
càng sung sướng [21, tr.334].
Đặt vấn đề như vậy, Hồ Chí Minh muốn lưu ý hai mặt tác động lẫn nhau của
quyền làm chủ: làm chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là phương thức tiếp cận nội hàm dân chủ chủ
yếu của Người. Bản chất dân chủ của Nhà nước thể hiện trước hết ở vị thế của
ngưới dân trong Nhà nước đó. Định nghĩa “dân chủ là dân làm chủ” rất súc tích,
ngắn gọn, nhưng lại có ý nghĩa khái quát cao, phản ánh quá trình phát triển tư


tưởng tiến bộ của loài người trong vấn đề dân chủ. Nó xuất phát từ một quan niệm
truyền thống có giá trị phổ quát, xác định rõ dân là gốc của nước. Ở phương diện
này cho thấy, tính chất dân chủ là đặc trưng nổi bật của chính quyền Nhà nước kiểu
mới. Nó khẳng định nguồn gốc, sức mạnh, và chủ thể quyền lực Nhà nước là ở
nhân dân lao động. Trong nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn
các cơ quan Nhà nước do nhân dân tổ chức ra, nhân viên Nhà nước là người được
ủy quyền, thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, trở thành công bộc của nhân
dân. Thể chế dân chủ cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị
và thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, Nhà nước không còn là
công cụ thống trị, nô dịch như trong thời phong kiến, tư bản nữa.
Vận dụng quan niệm của Nho giáo “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh”, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý

bằng nhân dân”[19, tr.276]. Chỉ có nhân dân, do địa vị tối cao của mình, mới có
quyền quyết định những vần đề quan trọng nhất của quốc gia dân tộc và đất nước;
chỉ có nhân dân mới trở thành chỗ dựa vững chắc của Nhà nước.
1.2.2. Nhà nước do dân
Khác với quan điểm duy tâm siêu hình cho rằng, sức mạnh cùa Nhà nước
mang tính siêu nhiên, do một lực lượng “đứng trên”, “đứng ngoài” Nhà nước để
điều khiển nó, Hồ Chí Minh là người duy vật biện chứng mác-xít đi tìm sức mạnh
của Nhà nước trong đời sống hiện thực. Hồ Chí Minh rất tâm đắc với quan niệm
của cha ông: Lật thuyền là dân mà chở thuyền cũng là dân và quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin: quần chúng nhân dân là động lực chủ yếu của mọi tiến trình
lịch sử và khẳng định: “Nhân nghĩa là nhân dân…Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [19, tr.276]. Hồ Chí Minh thấy rất rõ vai trò
của Nhà nước và sức mạnh của lực lượng nhân dân trong mối quan hệ giữa nhân
dân và Nhà nước. Người cho rằng: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không
có lực lượng, nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên
Chính phủ và nhân dân phải đoàn kết thành một khối” [15, tr.56].
Nhà nước phải dựa vào nhân dân, sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ sức
mạnh của nhân dân, của quần chúng lao động – đó là nguyên tắc quan trọng nhất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Chân lý lịch sử có giá trị phổ biến cho


×