Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.07 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU ĐĂNG CHUNG

LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ GIA LÂM

HÀ NỘI – 2014


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của
cơ quan cùng với sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận
văn Thạc sỹ Luật học. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng Quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các
giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến
thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Văn phòng luật sư Gia Bảo - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã tạo
điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành Luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Vũ Gia Lâm đã tận


tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập.
Tác giả
Chu Đăng Chung


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ trong Luận văn là trung thực,
những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Chu Đăng Chung


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

................................................................................................................ 1

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ LUẬT SƯ BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................... 6
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.................................................... 6
1.1.1. Khái niệm luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự ................................................................................................................ 6
1.1.2. Cơ sở pháp lý xác định tư cách tham gia tố tụng của luật sư bào

chữa trong tố tụng hình sự................................................................. …...12
1.1.3. Vai trò của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự.……………..……………………………………………………… 15
1.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................... 17
1.2.1. Quy định về thời điểm tham gia tố tụng hình sự của luật sư bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............................................ 17
1.2.2. Quy định về thủ tục tố tụng để luật sư tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự................ 20
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự…………………………………………………………... 25
KẾT LUẬN CHƯƠNG I .......................................................................................... 39
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 40
2.1. THỰC TRẠNG THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ………………. .......... 40


2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc trong việc thi hành các quy
định pháp luật về việc tham gia tố tụng của luật sư bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...................................................... 40
2.1.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thi hành các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về việc tham gia tố tụng của
luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .......................... 44
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện
các quy định về việc tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............................................................... 49
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................... 59
2.2.1. Giải pháp lập pháp ................................................................................... 59
2.2.2. Giải pháp khác ......................................................................................... 65
KẾT LUẬN CHƯƠNG II......................................................................................... 69
KẾT LUẬN............................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ ..72


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

TTHS


: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều tra là một giai đoạn rất quan trọng của tố tụng hình sự (TTHS), vì đây là
giai đoạn thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, lập hồ sơ vụ
án, ra bản kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát nhân dân (VKS) truy tố bị can
trước Tòa án hoặc quyết định khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) để giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, bị can là đối tượng
của hoạt động điều tra và họ buộc phải tuân thủ các quyết định tố tụng của CQĐT
như quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt, khám xét, lệnh tạm giam cũng như chịu tác
động trực tiếp bởi các hành vi tố tụng của điều tra viên hay kiểm sát viên như hỏi
cung, đối chất, thực nghiệm điều tra…và họ có thể bị hạn chế một số quyền cơ bản
của công dân như quyền tự do đi lại, tự do tiếp xúc với mọi người hoặc bị cách ly
tạm thời ra khỏi đời sống xã hội. Toàn bộ lời khai, tài liệu, đồ vật mà CQĐT thu
thập được ở giai đoạn này đều có thể là nguồn chứng cứ gây bất lợi cho họ trước
Tòa án.
Luật sư với tư cách là người bào chữa cho bị can, khi tham gia tố tụng trong

giai đoạn điều tra có nhiệm vụ tìm kiếm chứng cứ gỡ tội, những tình tiết nhằm làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, đồng thời góp phần làm hạn chế các vi
phạm tố tụng trong hoạt động điều tra như bức cung, nhục hình; góp phần làm rõ sự
thật khách quan vụ án, giúp việc điều tra được nhanh chóng, chính xác, tránh làm
oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu quy định của BLTTHS và thực tiễn tố tụng
cho thấy quy định của pháp luật về việc tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự vẫn còn mang tính hình thức, thiếu về cơ chế để
luật sư bào chữa thực hiện việc tham gia tố tụng của mình trong thực tiễn. Nhiều
trường hợp luật sư đề nghị cấp giấy chứng nhận người bào chữa dựa trên quyền
nhờ người khác bào chữa của bị can theo quy định của pháp luật chưa được CQĐT
giải quyết đúng thời hạn, thậm chí cấp rất muộn hay không cấp giấy cũng không
được trả lời lý do một cách thỏa đáng theo quy định của pháp luật. Điều này dẫn


2

đến luật sư rất khó khăn để được tham gia trong giai đoạn điều tra nhằm bào chữa
cho bị can hoặc nếu được tham gia tố tụng thì việc thực hiện quyền bào chữa cũng
bị rất hạn chế. Và kết quả cuối cùng là các quy định của pháp luật bị CQĐT coi
thường, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can bị xâm phạm, tình trạng bức cung,
mớm cung, dùng nhục hình,…vẫn còn tồn tại nhiều. Hậu quả là nhiều trường hợp
dẫn đến làm oan sai người vô tội và bỏ lọt tội phạm, sự thật vụ án không được làm
sáng tỏ.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS về việc
tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra để làm rõ ưu, nhược
điểm trong quy định của pháp luật TTHS hiện hành về vị trí, cũng như quyền và
nghĩa vụ của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực trạng
thi hành các quy định đó nhằm đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định pháp
luật TTHS về việc tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra và

cơ chế bảo đảm các quy định đó được thực thi có hiệu quả là việc cần thiết. Vì thế,
chúng tôi chọn đề tài “Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”
làm Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoảng hơn 10 năm gần đây đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và
bài viết có giá trị liên quan đến người bào chữa nói chung và luật sư bào chữa nói
riêng. Đề cập đến người bào chữa có Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Hoàng
Thị Sơn, năm 2003, “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự”; Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Đỗ Đình Nghĩa, năm 2004 với đề tài
“Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”; một số bài viết của:
PGS.TS Phạm Hồng Hải, “Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người
bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” đăng ở Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 05/2004; Luật sư, thạc sỹ Phạm Thanh Bình, “Cần bảo đảm các quyền
và nghĩa vụ của người bào chữa” đăng trên Tạp chí Tòa án, số 15/2004; Tiến sỹ
Đặng Quang Phương, “Tìm hiểu một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về người bào chữa” đăng trên Tạp chí Tòa án, số 09/2004; Đinh Văn Quế ,
“Chế định người bào chữa” đăng trên Tạp chí Tòa án, số 03/2004.


3

Đề cập đến luật sư bào chữa có một số bài viết của: Tiến sỹ Nguyễn Văn
Tuân, “Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự” đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 05/2000;
bài “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự” của Tiến sỹ Nguyễn Văn Tuân đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp
luật, số 11/2008; bài viết của Tiến sỹ Phan Trung Hoài, “Hoàn thiện các quy định
pháp luật về sự tham gia của luật sư từ giai đoạn điều tra và quyết định truy tố”
đăng trên Tạp chí kiểm sát số 7/2004; Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Hoàng
Thị Phương Thu, năm 2007, “Vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự”.
Tuy nhiên, các đề tài trên mới chỉ viết về vai trò, vị trí hay địa vị pháp lý của
người bào chữa hay luật sư nói chung trong TTHS hoặc có đề cập sơ qua về quyền
và nghĩa vụ của người bào chữa hoặc luật sư trong TTHS nói chung. Chưa có tác
giả nào đi vào nghiên cứu chuyên sâu về các quy định hiện hành và thực trạng thi
hành các quy định về tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề chung về luật sư bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; các quy định của pháp luật TTHS hiện hành
về việc tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra; thực trạng thi
hành các quy định về việc tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn
điều tra để tìm hiểu những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hạn chế, vướng
mắc đó để kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của luật
sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài có phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:
Nghiên cứu làm rõ khái niệm luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra; cơ sở
pháp lý để xác định tư cách tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong trong giai
đoạn điều tra; vai trò của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.


4

Nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2003 theo trình tự, thủ tục chung và
một số quy định pháp luật khác có liên quan đến việc tham gia TTHS của luật sư bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như Luật luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung
năm 2012, Thông tư 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ Công an “quy định
chi tiết thi hành các quy định của BLTTHS liên quan đến việc bảo đảm quyền bào

chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”,.. Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu thêm
một số quy định pháp luật nước ngoài về người bào chữa như BLTTHS của Cộng
hòa Liên bang Đức, BLTTHS Liên bang Nga, …
Nghiên cứu thực trạng thi hành các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về
luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự (ĐTVAHS) trên phạm vi cả nước trong thời gian chủ yếu là từ khi
BLTTHS năm 2003 có hiệu lực đến nay theo trình tự thủ tục chung.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và Pháp
luật, nhất là quan điểm của Đảng ta về bảo đảm quyền con người, cải cách tư
pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là phương pháp
phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê. Ngoài ra, để thực hiện đề tài tác giả
luận văn còn tham khảo các tư liệu thực tiễn, các ý kiến của các nhà chuyên môn về
tố tụng hình sự.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về luật sư bào chữa
trong giai đoạn điều tra VAHS; các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về luật
sư bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS; thực trạng thi hành, những hạn chế, bất
cập trong quy định của pháp luật TTHS cũng như trong thực tiễn thi hành các quy
định pháp luật về luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS. Từ đó tìm ra
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hành các quy định của
pháp luật về luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra, để kiến nghị một số giải pháp


5

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự.

5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích nêu trên, tác giả đề tài xác định những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể như sau:
- Xây dựng khái niệm khoa học về luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra
VAHS; làm rõ cơ sở pháp lý xác định tư cách tham gia tố tụng của luật sư bào chữa
trong TTHS; vai trò của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Phân tích làm rõ quy định của pháp luật TTHS hiện hành về luật sư bào chữa
trong giai đoạn điều tra VAHS, làm rõ những hạn chế bất cập trong quy định của
BLTTHS năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có liên quan về luật sư tham gia
TTHS với tư cách là người bào chữa.
- Nghiên cứu thực trạng thi hành các quy định pháp luật về việc tham gia tố
tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều vụ án hình sự; xác định những hạn
chế, vướng mắc trong thi hành các quy định về việc tham gia tố tụng của luật sư bào
chữa trong giai đoạn điều vụ án hình sự; xác định nguyên nhân của những hạn chế,
vướng mắc đó.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục từ viết tắt, kết luận, mục lục và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn có cơ cấu gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung và các quy định của pháp luật hiện hành về
luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2. Thực trạng thi hành các quy định pháp luật về việc tham gia tố
tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và một số kiến
nghị.


6

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN

ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề chung về luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
1.1.1. Khái niệm luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Nghề luật sư là một nghề xuất hiện từ rất sớm, nó được hình thành từ nhu cầu
bào chữa và trợ giúp pháp lý, xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu gắn liền với sự ra đời
của Tòa án [4-tr 1].
Tuy nhiên, ở Việt Nam nghề luật sư mới hình thành và phát triển vào khoảng
năm 1930, thời gian đầu chủ yếu là các luật sư người Pháp hành nghề bào chữa, sau
khi Thực dân Pháp tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn thì mới có thêm
luật sư là người Việt Nam [4-tr 2]. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
Hồ Chủ Tịch đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về Tổ chức Đoàn thể luật
sư dựa trên tổ chức cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi để phù hợp với tình
hình mới. Tiếp theo là Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 mở rộng tổ chức bào
chữa, cho phép công dân không phải là luật sư có thể bào chữa cho đương sự tại
Tòa án về các hộ việc và thương mại, bào chữa cho bị cáo trước tòa xét xử về hình
sự [32-tr 7].
Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 được ban hành cụ thể hóa Hiến pháp
năm 1980 tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam.
Tính đến tháng 9/2001 cả nước đã có 2100 luật sư, trong đó có 1632 luật sư chính
thức [4-tr 4].
Luật luật sư năm 2006 được ban hành thay thế Pháp lệnh luật sư năm 1987
đã quy định cụ thể về luật sư và tổ chức hoạt động hành nghề luật sư, năm 2008 số
lượng luật sư đã phát triển đến gần 4200 luật sư chính thức [4-tr 4].
Luật luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã hoàn thiện những bất cập của Luật
luật sư năm 2006 trước sự phát triển nghề luật sư cũng như đội ngũ luật sư bảo đảm
cả về số lượng cũng như chất lượng. Theo Luật luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012


7


(sau đây gọi là Luật luật sư hiện hành), để trở thành luật sư phải là công dân Việt
Nam trung thành với tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo
đức tốt, có bằng cử nhân chuyên ngành luật học, phải có chứng chỉ đào tạo nghề
luật sư do Học viện Tư pháp cấp và phải trải qua 12 tháng tập sự hành nghề tại các
tổ chức hành nghề và đạt kỳ kiểm tra hết tập sự do Liên đoàn luật sư Việt Nam tổ
chức. Bộ tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư dựa trên kết quả kiểm tra hết tập
sự của Liên đoàn luật sư Việt Nam, đồng thời người đó phải gia nhập một Đoàn
luật sư. Đối với người được miễn đào tạo nghiệp vụ luật sư hay miễn tập sự hành
nghề luật sư, thì người đó phải đảm bảo những điều kiện nhất định. Theo quy định
tại Điều 13 Luật luật sư hiện hành thì người được miễn đào tạo nghề luật sư phải:
1. Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên.
2. Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sỹ luật.
3. Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành
Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong
lĩnh vực pháp luật.
4. Đã là thẩm tra viên chính ngành Toà án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm
sát; chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực
pháp luật.”
Điều 16 Luật luật sư hiện hành quy định người được miễn, giảm thời gian
tập sự hành nghề luật sư phải là:
1. Người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên cao cấp, điều tra viên
trung cấp, giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật, thẩm tra viên cao
cấp ngành Tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát, chuyên viên cao cấp,
nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật được miễn
tập sự hành nghề luật sư.
2. Người đã là điều tra viên sơ cấp, thẩm tra viên chính ngành Tòa án, kiểm
tra viên chính ngành Kiểm sát, chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng
viên chính trong lĩnh vực pháp luật được giảm hai phần ba thời gian tập sự hành
nghề luật sư.



8

3. Người có thời gian công tác ở các ngạch chuyên viên, nghiên cứu viên,
giảng viên trong lĩnh vực pháp luật, thẩm tra viên ngành Tòa án, kiểm tra viên
ngành Kiểm sát từ mười năm trở lên thì được giảm một nửa thời gian tập sự hành
nghề luật sư.”
Từ việc nghiên cứu những quy định chặt chẽ của pháp luật nói trên, có thể
thấy để trở thành luật sư, đòi hỏi người đó phải có kiến thức pháp lý, hiểu biết sâu
rộng lĩnh vực pháp luật, phải được đào tạo bài bản về nghề luật sư, có thời gian
thực tế trong lĩnh vực luật sư hay lĩnh vực pháp luật có liên quan mới đủ yêu cầu.
Về khái niệm luật sư, hiện nay đang tồn tại một số quan điểm như sau:
Thứ nhất, Luật sư là người có trình độ chuyên môn và kiến thức pháp lý sâu
rộng, được đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp,
gia nhập tổ chức của luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế xã hội và xây dựng xã
hội công bằng dân chủ văn minh [32-tr 10].
Thứ hai, Luật sư là người có trình pháp lý, phẩm chất đạo đức tốt, được đào tạo
kỹ năng hành nghề luật sư, thuộc một đoàn luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý cho
khách hàng nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng cũng
như góp phần bảo vệ công lý và bảo đảm một xã hội công bằng [40-tr 5].
Thứ ba, quy định trong Điều 2 Luật luật sư hiện hành: Luật sư là người có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi tắt là khách hàng).
Chúng tôi cho rằng quy định tại Điều 2 Luật luật sư hiện hành đã xác định một
khái niệm đầy đủ và chính xác về luật sư, bao hàm những yếu tố cần và đủ của một
luật sư thuộc một tổ chức xã hội nghề nghiệp được pháp luật quy định.
Trong TTHS, luật sư có thể là một trong những người tham gia tố tụng. Tuy
nhiên, do thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng nên mục đích

tham gia tố tụng của luật sư chính là mục đích tham gia tố tụng của khách hàng.
Tùy vào vị trí tham gia tố tụng của mỗi khách hàng sẽ là cơ sở để xác định tư cách
tham gia tố tụng của luật sư đó.


9

Khi luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng
(CQTHTT) và luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo nhằm bào chữa cho họ, thì luật sư đó có tư cách là người bào chữa và
thực hiện hoạt động bào chữa, ta gọi là luật sư bào chữa.
Khi luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình
sự, luật sư đó có tư cách là người bảo vệ quyền lợi của đương sự (Điều 59
BLTTHS năm 2003), ta gọi là luật sư bảo vệ.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn, chúng tôi thấy cần phải làm rõ
về khái niệm luật sư tham gia TTHS trong giai đoạn điều tra VAHS với tư cách là
người bào chữa hay còn gọi là luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra. Muốn như
vậy, ta cần phải làm rõ một số vấn đề làm cơ sở để xác định chính xác khái niệm
này, đó là:
Thứ nhất, cần làm rõ khái niệm bào chữa trong tố tụng hình sự. Trong TTHS
luôn luôn tồn tại ba chức năng tố tụng đó là chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử. Theo chúng tôi, bào chữa trong TTHS được hiểu
là một chức năng của TTHS được thể hiện thông qua hoạt động của người bị buộc
tội hoặc người khác có quyền và nghĩa vụ thực hiện chức năng này theo quy định
của pháp luật nhằm gỡ tội, làm giảm trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội từ
phía các Cơ quan tiến hành tố tụng. Bào chữa trong TTHS xét trong mối quan hệ
với chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay được coi là một chức
năng độc lập với các chức năng buộc tội của Cơ quan công tố và chức năng xét xử
của Tòa án.

Thứ hai, về khái niệm người bào chữa. Hiện nay, về khái niệm người bào
chữa, qua việc nghiên cứu, tham khảo tài liệu chúng tôi thấy đang tồn tại một số
quan điểm sau:
Một là, Người bào chữa là người thực hiện việc bảo vệ các quyền và lợi ích
của người bị tình nghi và bị can và giúp họ về mặt pháp lý trong quá trình tố tụng
đối với vụ án theo thủ tụng quy định theo Bộ luật này (Khoản 1, Điều 4 BLTTHS
Liên bang Nga).


10

Hai là, Người bào chữa là người tham gia TTHS theo quy định của pháp luật
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, góp phần làm sáng tỏ các
tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về
mặt pháp lý [31-tr 66].
Ba là, Người bào chữa trong TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh
sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người
bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông
qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [3].
Qua nghiên cứu các quy định tại Điều 56 của BLTTHS hiện hành về diện
người có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa; quy định tại Điều 57
về việc lựa chọn, thay đổi người bào chữa; quy định tại Điều 58 về quyền và nghĩa
vụ của người bào chữa, chúng tôi cho rằng khái niệm người bào chữa theo quan
điểm thứ ba là chính xác nhất.
Thứ ba, về khái niệm luật sư bào chữa. Trong TTHS, đội ngũ luật sư là lực
lượng chủ yếu tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa và họ chỉ có thể tham
gia tố tụng với vai trò là người bào chữa khi luật sư nhận được giấy chứng nhận
người bào chữa từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi thực hiện hoạt động bào
chữa, luật sư có quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.

Theo chúng tôi, Luật sư bào chữa là người thuộc một đoàn luật sư nào đó
được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn
hoặc được các CQTHTT yêu cầu chỉ định trong các trường hợp luật định để bảo vệ
quyền lợi cho bị can, bị cáo.
Trong giai đoạn điều tra, thủ tục để luật sư được cấp chứng nhận người bào
chữa bao giờ cũng phải xuất phát từ chính quyền được lựa chọn người bào chữa của
bị can theo quy định tại Điều 11 BLTTHS và cụ thể hóa tại điểm e, khoản 2, Điều
49 BLTTHS năm 2003 quy định về“Quyền nhờ người khác bào chữa”. Trong giai
đoạn điều tra, bị can bằng quyền của mình thể hiện ý chí qua đơn mời luật sư, trên
cơ sở đó, luật sư làm thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận người bào chữa từ Cơ
quan điều tra.


11

Có quan điểm cho rằng: “Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo, giúp cho việc giải quyết vụ án hình sự khách quan, chính xác,
hợp tình, hợp lý và góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật. Họ là người tham gia tố
tụng độc lập nhưng độc lập ở đây chỉ mang tính tương đối mà thôi”[43-tr16]. Theo
chúng tôi, quan điểm trên chưa bộc lộ được hết vai trò, chức năng của luật sư với tư
cách tham gia tố tụng là người bào chữa, chưa toát hết được tính chủ động của hoạt
động bào chữa. Nếu chỉ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị
cáo thì chưa thể hiện được sự độc lập và chủ động trong hoạt động thu thập tài liệu,
đồ vật, tìm ra các tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc
tội. Trong quá trình tố tụng, ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
bị buộc tội thì luật sư bào chữa còn phải có trách nhiệm sử dụng mọi biện pháp hợp
pháp do pháp luật quy định, khả năng, kỹ năng của mình để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo.
Trong giai đoạn điều tra VAHS luật sư tham gia tố tụng để chứng minh sự vô

tội, đưa ra những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giúp bị can về mặt
pháp lý trong việc bảo vệ quyền lợi của họ. Để làm được việc này, luật sư sử dụng
mọi biện pháp, kỹ năng, nghiệp vụ, kinh nghiệm, quyền và nghĩa vụ của mình như
có mặt và tham gia các hoạt động điều tra tìm kiếm chứng cứ gỡ tội, thu thập
những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, đồng thời nhận định,
đánh giá, phản bác những chứng cứ buộc tội mà CQĐT đã thu giữ và sử dụng khi
đưa ra các quyết định tố tụng. Ngoài ra, luật sư bào chữa còn có thể gặp bị can đang
bị tạm giam; tham gia hỏi bị can (nếu được điều tra viên đồng ý); đọc, ghi chép và
sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết
thúc điều tra theo quy định của pháp luật; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ bị can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của bị can (nếu không thuộc bí mật nhà nước,
bí mật công tác); đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu. Ngoài ra luật sư bào chữa đưa ra
quan điểm có cơ sở pháp luật và có lợi cho bị can qua các văn bản kiến nghị, đề


12

xuất với CQĐT và VKS nhằm chứng minh sự vô tội hay tình tiết làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can.
Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm luật sư bào chữa trong
giai đoạn điều tra VAHS như sau:
Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là luật sư thuộc một
Đoàn luật sư, được lựa chọn hoặc chỉ định bào chữa cho bị can trong giai đoạn
điều tra để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, giúp bị can về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.1.2. Cơ sở pháp lý xác định tư cách tham gia tố tụng của luật sư bào
chữa trong tố tụng hình sự
Xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu mà Đảng và
Nhà nước ta đã xác định, đặc biệt đề cao quyền con người, quyền công dân trong

đó có quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa (gọi chung là “quyền bào
chữa”) là một trong những quyền cơ bản của công dân, đã được quy định rõ ràng tại
khoản 4, Điều 31, Hiến pháp năm 2013 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa”.
Ghi nhận về quyền nhờ luật sư bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra,…cho thấy vị trí vai trò của luật sư rất cần thiết trong việc bảo đảm
quyền bào chữa, thông qua quyền nhờ luật sư bào chữa được ghi trong Hiến pháp,
đồng thời được cụ thể hóa bằng các quy định tại các văn bản pháp luật khác, càng
khẳng định hơn nữa vị trí của luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào
chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trước các hoạt động tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, việc ghi
nhận quyền nhờ người khác bào chữa cũng là cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên xác
định tư cách tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong TTHS nói chung và luật sư
bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung. Và cũng xuất phát từ
quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhờ luật sư bào chữa cho mình
mà quyền của luật sư bào chữa mới được thực hiện. Hay ta nói cách khác là luật sư


13

bào chữa thực hiện quyền năng phái sinh từ quyền của người bị tình nghi, người bị
buộc tội.
Ngoài việc ghi nhận trong nhiều bản Hiến pháp, bảo đảm quyền bào chữa đã
được quy định là nguyên tắc cơ bản của TTHS tại Điều 11 BLTTHS năm 2003:
“ Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật

này”.
Cụ thể hóa nguyên tắc quan trọng này, tại điểm d, khoản 2 Điều 48; điểm e,
khoản 2 Điều 49; điểm e khoản 2 Điều 50 BLTTHS năm 2003 quy định: người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền “tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.”.
Ngoài quyền được lựa chọn “nhờ” người bào chữa, bị can, bị cáo còn được các
CQTHTT yêu cầu chỉ định người bào chữa trong các trường hợp nhất định quy
định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS, nếu ở các trường hợp đó bị can, bị cáo hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn người bào chữa. Đó là các trường
hợp: bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định trong Bộ luật hình sự (BLHS); bị can bị cáo là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Xuất phát từ quyền lựa chọn người khác bào chữa cho mình và quyền được yêu
cầu chỉ định người bào chữa đã nêu trên, Luật TTHS cũng quy định cụ thể về diện
người có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, trong đó có luật sư.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có thể
là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa
viên nhân dân. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng thứ hai xác định tư cách tham
gia tố tụng của luật sư bào chữa trong TTHS nói chung và luật sư bào chữa trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
Ngoài ra, BLTTHS cũng quy định cụ thể những người không được bào chữa
(khoản 2, Điều 56 BLTTHS); quy định nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho
một người hay một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị


14

can, bị cáo mà quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau (khoản 3, Điều 56
BLTTHS); quy định về thời gian và thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa (khoản
4, Điều 56 BLTTHS) hay quy định về lựa chọn và thay đổi người bào chữa (Điều
57 BLTTHS); quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng

tại Điều 58 cũng như quy định về các vấn đề khác có liên quan đến người bào chữa
khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình trong tố tụng hình sự.
Bên cạnh đó, thì khoản 3, Điều 27 Luật luật sư hiện hành cũng quy định rất chi
tiết và cụ thể về luật sư và hoạt động của luật sư khi tham gia TTHS với tư cách
người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở một dịch vụ pháp lý
theo yêu cầu của khách hàng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người thân của
họ) hoặc tham gia tố tụng theo yêu cầu của CQTHTT, đó là những quy định về thủ
tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa, quy định về thời gian cấp giấy chứng
nhận bào chữa, giá trị giấy chứng nhận người bào chữa trong tố tụng, quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa. Đây có thể được coi là cơ sở pháp lý quan trọng thứ
ba xác định tư cách tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự.
Ngoài các quy định trong Hiến pháp, BLTTHS, Luật luật sư về việc tham gia
tố tụng của luật sư bào chữa, bảo đảm quyền của người bào chữa trong đó có luật
sư bào chữa còn được ghi nhận tương đối cụ thể trong những văn bản dưới luật
khác như Thông tư 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ Công an quy định
chi tiết thi hành các quy định của BLTTHS liên quan đến việc bảo đảm quyền bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong đó xác định luật sư tham gia tố
tụng với tư cách là người bào chữa dựa trên cơ sở thực hiện quyền nhờ người bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can (khoản 1 Điều 4); luật sư tham gia tố tụng theo
yêu cầu của CQTHTT (khoản 3, Điều 4); quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận
người bào chữa đối với luật sư (Điều 5); quy định về việc bảo đảm cho người bào
chữa có mặt khi hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị tạm giữ (Điều 7); quy định
việc thay đổi Điều tra viên, người giám định, người phiên dịch theo đề nghị của
người bào chữa (Điều 8); quy định việc người bào chữa thu thập, đồ vật tình tiết
liên quan đến việc bào chữa (Điều 9); quy định việc người bào chữa được gặp bị


15


can đang bị tạm giam (Điều 10); quy định về quyền của người bào chữa sau khi kết
thúc điều tra vụ án (Điều 11).
1.1.3. Vai trò của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì từ “vai trò” có nghĩa là tác dụng,
chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó [33]. Xuất phát từ lý luận
và trên cơ sở các quy định của pháp luật cũng như từ hoạt động thực tiễn của luật
sư cho thấy, luật sư bào chữa có vai trò quan trọng trong việc tìm và đưa ra chứng
cứ gỡ tội, các tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, đồng thời giúp
bị can về mặt pháp lý trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Mặt khác, khi
tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra, luật sư còn góp phần cùng với CQĐT
nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án, hạn chế vi phạm pháp luật,
tránh oan sai, cũng như không để lọt tội phạm.
Trong giai đoạn điều tra VAHS, luật sư bào chữa cho bị can giữ vai trò quan
trọng, khác hẳn so với vai trò của những người tham gia tố tụng khác như người
phiên dịch, người giám định, người bảo vệ quyền lợi của đương sự…Vai trò tham
gia tố tụng của luật sư bào chữa là đứng về phía bị can, chứng minh sự vô tội hay
đưa ra những tình tiết làm giảm trách nhiệm hình sự của bị can trước những quyết
định tố tụng và hành vi tố tụng buộc tội của CQĐT và điều tra viên mà không chủ
thể nào khác có thể thay thế được, đồng thời giúp cho các quy định pháp luật tố
tụng trong giai đoạn điều tra được tôn trọng và được thực thi một cách nghiêm
chỉnh, từ đó mà quyền con người (quyền của bị can) trong giai đoạn điều tra được
tôn trọng, được bảo đảm. Khi tham gia tố tụng, luật sư bào chữa có vai trò nhất
định xét trong mối quan hệ đối với từng chủ thể của tố tụng hình sự:
Thứ nhất, trong mối quan hệ với CQĐT và điều tra viên. Đây là quan hệ
giữa luật sư bào chữa, một người tham gia tố tụng – là một chủ thể tố tụng với chủ
thể khác – chủ thể tiến hành tố tụng trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Đây là
chủ thể đặc biệt, được pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất
định nhằm tiến hành các hoạt động điều tra làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án, trong đó có việc làm sáng tỏ hành vi phạm tội và người phạm tội.



16

Ngay từ khi được cấp giấy chứng nhận bào chữa, luật sư bào chữa đã thực
hiện quyền bào chữa của mình và liên tục tiếp xúc, giáp mặt với CQĐT và điều tra
viên như có mặt khi hỏi cung bị can, nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can;
có mặt trong các hoạt động điều tra khác như khám nghiệm hiện trường, khám xét
nơi ở, nơi làm việc, thu giữ, kê biên tài sản,…Với hoạt động như vậy, luật sư bào
chữa đã tự tiếp thu thông tin, chứng cứ có liên quan từ đó có nhận định riêng hoặc
phát hiện tình tiết mới có lợi cho bị can làm cơ sở đề xuất cho CQĐT những ý kiến,
nhận định của mình có lợi cho bị can, đồng thời việc tham gia tố tụng của luật sư có
thể giúp cho CQĐT khắc phục những thiếu sót trong hoạt động điều tra, thậm chí
còn có thể ngăn chặn hành vi vi phạm tố tụng của điều tra viên.
Thứ hai, vai trò của luật sư trong mối quan hệ với VKS và kiểm sát viên.
Viện kiểm sát và kiểm sát viên là chủ thể quan trọng của quan hệ TTHS, có
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động TTHS, trong đó có hoạt động điều tra của CQĐT, tổ chức và chỉ đạo các hoạt
động thực hành quyền công tố. Với chức năng của mình, VKS có trách nhiệm bảo
đảm mọi hành vi phạm tội phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, tạm giam, việc tiến hành điều tra phải đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Với luật sư bào chữa, bằng quyền hạn của mình khi thực hiện hoạt động bào
chữa nếu phát hiện những quyết định tố tụng hoặc hành vi tố tụng trái pháp luật của
CQĐT và điều tra viên xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can mà mình
nhận bào chữa, xâm phạm quyền của chính mình, có quyền kiến nghị, khiếu nại
hoặc tố cáo đến VKS cùng cấp, từ đó VKS bằng quyền hạn luật định khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra sẽ can
thiệp kịp thời những hành vi vi phạm tố tụng của CQĐT đối với việc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, quyền thực hiện hoạt động bào chữa của luật sư.
Thứ ba, vai trò của luật sư trong mối quan hệ với bị can. Bị can là người
tham gia TTHS, với họ luôn phải chấp hành các quyết định tố tụng, các yêu cầu hay

hành vi tố tụng của CQTHTT, họ có thể bị hạn chế một số quyền công dân như
quyền tự do đi lại, tự do tiếp xúc mọi người hay quyền tham gia quan hệ xã hội
khác.


17

Trong giai đoạn điều tra, luật sư bào chữa và bị can có mối quan hệ đặc biệt,
đây là mối quan hệ giữa người có khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý đối với khách
hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ mà luật sư cung cấp để bảo vệ quyền lợi của
mình. Thực chất là quan hệ giữa người thực hiện dịch vụ pháp lý và “thân chủ” của
mình. Ở đây, luật sư có vai trò quan trọng đối với bị can, thể hiện ở việc giúp bị can
ổn định tâm lý khi đối mặt với điều tra viên và khai báo thành khẩn đúng với hành
vi mà mình đã thực hiện, ngăn cản ngay lập tức hành vi vi phạm của điều tra viên
đối với bị can như bức cung, nhục hình. Mặt khác, luật sư có thể trao đổi, tìm kiếm
từ bị can những thông tin, tài liệu, đồ vật cần thiết có liên quan đến việc chứng
minh vô tội hay các tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can trước sự
buộc tội của cơ quan, người tiến hành tố tụng, ngoài ra luật sư còn là cầu nối thông
tin giữa bị can với người thân thích (trừ bí mật điều tra đã cam kết không tiết lộ).
Tóm lại, dù thực hiện quyền bào chữa như thế nào đi nữa, thì vai trò quan
trọng nhất của luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can là
nhằm tìm chứng cứ chứng minh sự vô tội hay những tình tiết làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, đồng thời giúp bị can về mặt pháp lý, bảo đảm quyền bị
can, quyền con người trong giai đoạn điều tra. Đây cũng là mục tiêu cuối cùng mà
luật sư bào chữa tham gia trong TTHS nói chung và trong giai đoạn điều tra nói
riêng hướng tới.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về việc tham gia
tố tụng của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Quy định về thời điểm tham gia tố tụng hình sự của luật sư bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Thời điểm tham gia tố tụng của luật sư bào chữa là thời điểm mà pháp luật tố
tụng hình sự quy định luật sư được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa
trong vụ án hình sự nhằm thực hiện việc bào chữa cho bị can trong giai đoạn điều
tra vụ án.
Việc quy định về thời điểm tham gia tố tụng của luật sư bào chữa có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, đồng thời bảo đảm cho
việc điều tra được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mặt khác, việc quy định


18

thời điểm tham gia tố tụng của luật sư bào chữa càng sớm bao nhiêu thì càng giúp
nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật vụ án, càng sớm kết thúc giai đoạn điều tra vụ án
bấy nhiêu.
Ở giai đoạn điều tra VAHS, đối tượng chính của hoạt động điều tra là hành vi
phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội đó. Nhà nước trao cho CQĐT những
quyền năng nhất định như quyền khởi tố bị can, quyền áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, tiến hành các hoạt động điều tra,...để làm rõ sự thật khách quan của vụ án,
những quyền năng này chủ yếu đều nhằm vào bị can là đối tượng bị điều tra. Để
việc điều tra được kịp thời và nhanh chóng có hiệu quả nhưng lại phải bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, pháp luật TTHS đã quy định quyền tự bào chữa
và nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng trường
hợp khác nhau mà pháp luật quy định thời điểm tham gia tố tụng của luật sư bào
chữa trong giai đoạn điều tra sớm hay muộn, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trường hợp phổ biến, luật sư bào chữa được tham gia tố tụng từ
khi có quyết định khởi tố bị can (tại khoản 1, Điều 58 BLTTHS năm 2003)
Quyết định khởi tố bị can là quyết định tố tụng hình sự do cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền (mà chủ yếu là CQĐT) ban hành, áp dụng cho người bị tình nghi
phạm tội sau khi có quyết định khởi tố vụ án, và có đủ căn cứ xác định người đó đã
thực hiện hành vi phạm tội.

Sau khi bị khởi tố bị can, bị can đó phải đối mặt với một hoặc một số điều tra
viên và có thể bị áp dụng một số biện pháp ngăn chặn như bị tạm giam, bị cấm đi
khỏi nơi cư trú, bị khám xét, bị kê biên tài sản,...dẫn đến bị hạn chế một số quyền
con người như quyền tự do đi lại, gặp gỡ người khác hay quyền tham gia quan hệ
xã hội khác, đồng thời phải khai báo, chịu sự thẩm vấn của điều tra viên. Những lời
khai, đồ vật, tài liệu mà CQĐT thu thập có liên quan đến vụ án trong giai đoạn này
đều là nguồn chứng cứ có thể trở thành chứng cứ buộc tội đối với bị can trong cả
quá trình tố tụng, điều này rất dễ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can trong các giai đoạn tố tụng sau.
Tại khoản 1, Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định thời điểm luật sư bào chữa
tham gia tố tụng là từ khi có quyết định khởi tố bị can. Đây chính là điểm mốc mà


19

luật sư bào chữa bắt đầu được tham gia tố tụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can trước các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của cơ quan, người
tiến hành tố tụng, đồng thời “giúp” cho CQĐT tránh được các vi phạm tố tụng và
kịp thời ra các quyết định và kết luận điều tra một cách sớm nhất, chính xác nhất,
rút ngắn thời gian điều tra và thời gian tạm giam bị can (nếu bị can bị tạm giam).
Quy định luật sư bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can
cho phép luật sư bào chữa được tham gia bào chữa cho bị can trong mọi vụ án hình
sự (trừ trường hợp luật định), dù bị can đang bị tạm giam hay đang tại ngoại thì
việc thực hiện quyền bào chữa cũng không hề bị hạn chế.
Thứ hai, đối với vụ án về tội xâm phạm an ninh quốc gia cần giữ bí mật điều
tra, thời điểm tham gia tố tụng của luật sư bào chữa là khi kết thúc điều tra.
Tội xâm phạm an ninh quốc gia là những tội phạm có tính nguy hiểm đặc biệt
cho xã hội được thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội, chế độ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, xâm hại sự tồn tại, sự vững mạnh của chính quyền nhân dân.

Do đặc thù của loại hình tội phạm này mà việc đấu tranh đòi hỏi phải đảm bảo
yêu cầu riêng và nghiệp vụ đặc biệt, vì vậy pháp luật TTHS quy định nếu là trường
hợp cần giữ bí mật điều tra, thì Viện trưởng VKS quyết định để luật sư bào chữa
tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Tại khoản 4, Điều 4, Thông tư 70/2011/TT- BCA ngày 10/10/2011 hướng dẫn
quy định thực hiện quyền của người bào chữa như sau: “Trường hợp người bị tạm
giữ, bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, Viện trưởng VKS đã có quyết
định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra thì Điều tra viên
phải thông báo cho họ biết quyết định của Viện trưởng VKS và giải thích cho họ
biết quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can theo quy định tại Điều 48, Điều
49 Bộ luật tố tụng hình sự”.
Theo quy định này do cần giữ bí mật điều tra đối với các vụ án xâm phạm an
ninh quốc gia, nên thời điểm luật sư bào chữa được tham gia tố tụng là sau khi đã
kết thúc điều tra vụ án.


×