Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo luật nuôi con nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.96 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THU

NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI
THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phương Thu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Công ước Lahay năm 1993

Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế

ICCPR

Công ước về các quyền dân sự, chính trị năm
1966

ICESRC

Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
năm 1966

Luật HN-GĐ

Luật hôn nhân và gia đình

Nghị định 68/2002/NĐ-CP

Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

Nghị định 69/2006/NĐ-CP

Nghị định 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

Nghị định 158/2005/NĐ-CP

Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch

Nghị định số 68/2008/NĐ-CP Nghị định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/05/2008
của Chính phủ quy định điều kiện thủ tục thành
lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ


xã hội.

Nghị định 19/2011/NĐ-CP

Nghị

định

số

19/2011/NĐ-CP

ngày

21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.

Nghị định 110/2013/NĐ-CP

Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành
án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Thông tư 08/2006/TT-BTP

Thông tư 08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006
hướng dẫn thực hiện một số quy định về nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài.

UDHR

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
năm 1948

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC GIẢI
QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI............................................................... 5
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ...5
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi ................................................................ 5
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi....................... 7
1.2. Cơ sở quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ............ 9
1.2.1. Cơ sở lý luận.................................................................................. 9
1.2.2. Cơ sở thực tiễn............................................................................. 10
1.3. Quá trình hình thành các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi 11
1.4. Ý nghĩa của các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ............... 14
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VIỆC
NUÔI CON NUÔI THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI .............................. 17
2.1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gia đình gốc .............................................. 17
2.2.Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện,
bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức
xã hội........................................................................................................ 20
2.2.1. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi ........................ 20
2.2.2. Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện tự nguyện, bình đẳng,
không phân biệt nam nữ......................................................................... 27
2.2.3. Việc nuôi con nuôi không trái pháp luật và đạo đức xã hội.......... 34
2.3. Chỉ cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài khi không thể tìm
được gia đình thay thế ở trong nước ...................................................... 35


CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC GIẢI
QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CỦA CÁC NGUYÊN TẮC NÀY TRONG

THỰC TẾ ................................................................................................... 46
3.1. Thực tiễn áp dụng các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ..... 46
3.1.1. Những kết quả đạt được ............................................................... 46
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế............................................................... 50
3.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .................................. 62
3.2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện các nguyên tắc giải
quyết việc nuôi con nuôi ....................................................................... 64
KẾT LUẬN ................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 71
PHỤ LỤC.................................................................................................... 74


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, thể
hiện tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con
người. Đặc biệt, đối với những trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm
nghèo, trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa thì việc nuôi con nuôi lại càng có
ý nghĩa thiết thực. Tại Việt Nam, sau chiến tranh, số lượng trẻ em mồ côi, bị
bỏ rơi cần được chăm sóc, nuôi dưỡng tăng nhanh. Trong khi đó, nhu cầu
người nước ngoài muốn nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi ngày càng phổ
biến. Những hiện tượng trục lợi, cò mồi môi giới trẻ em làm con nuôi người
nước ngoài đã phát sinh trong quá trình giải quyết cho trẻ làm con nuôi.
Chính vì vậy, nhu cầu về một quy trình giải quyết nuôi con nuôi chặt chẽ,
nghiêm ngặt đảm bảo mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi được đặt ra
một cách cấp thiết. Là một nước có nhiều trẻ em được nhận làm con nuôi
người nước ngoài, trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động
trong việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề nuôi

con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trước thời điểm Luật nuôi con nuôi có hiệu
lực, vấn đề nuôi con nuôi được quy định trong rất nhiều các văn bản pháp luật
khác nhau, từ văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp cho đến các
Nghị định, Thông tư. Các văn bản này đã cho thấy hệ thống các quy định bảo
vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam ngày
càng toàn diện, tiến bộ và phù hợp hơn với yêu cầu của pháp luật quốc tế. Tuy
nhiên, bên cạnh những điểm tiến bộ, hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi vẫn
còn những điểm bất cập như các quy định điều chỉnh về vấn đề nuôi con nuôi
còn tản mạn, nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác
nhau, nhiều quy định của pháp luật trong nước không phù hợp, thậm chí trái
với những nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Trước những tồn tại này, việc
ban hành một văn bản pháp luật để thống nhất và sửa đổi, bổ sung các quy


2

định còn bất cập là điều cần thiết. Sau nhiều phiên thảo luận, ngày 27/6/2010,
Luật nuôi con nuôi chính thức được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào
ngày 01/01/2011. So với hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi trước đây, Luật
nuôi con nuôi có rất nhiều điểm mới, trong đó đặc biệt có ý nghĩa là việc quy
định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi (tại Điều 14 Luật nuôi con
nuôi). Đây chính là nền tảng pháp lý cơ bản đối với tất cả các quy phạm pháp
luật điều chỉnh về nuôi con nuôi. Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con
nuôi đã ít nhiều được đề cập tới trong các văn bản pháp luật trước đó, nhưng
cũng có nguyên tắc lần đầu tiên được quy định một cách minh bạch, rõ ràng
trong Luật nuôi con nuôi. Các nguyên tắc này đã làm thay đổi một cách cơ
bản quan điểm giải quyết việc nuôi con nuôi trước đây và đòi hỏi các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về nuôi con nuôi phải thay đổi, quy định lại cho
phù hợp. Tuy nhiên, vì các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi mới được
quy định và có nhiều điểm mới nên sự nhận thức, hiểu và vận dụng, thi hành

các nguyên tắc này trong thực tế còn rất hạn chế, gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc. Xuất phát từ những lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Nguyên tắc giải quyết
việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi” làm đề tài luận văn Thạc sỹ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật nuôi con nuôi có hiệu lực đến nay đã gần 03 năm, tuy nhiên hiện
tại việc nghiên cứu về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi vẫn chưa nhận
được nhiều sự quan tâm của các tác giả. Liên quan đến vấn đề này mới chỉ có
bài viết “mục đích nuôi con nuôi, nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi” của
tác giả Đào Hà trong số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi đăng trên Tạp
chí Dân chủ và pháp luật năm 2011. Nghiên cứu sâu hơn thì có Khóa luận tốt
nghiệp năm 2012 của tác giả Nguyễn Thanh Vân cũng với tên đề tài “Nguyên
tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi”. Về cơ bản, Khóa
luận tốt nghiệp cũng đã có một nghiên cứu riêng và toàn diện về vấn đề này,
tuy nhiên chưa ở mức độ chuyên sâu. Luận văn này tập trung nghiên cứu toàn


3

diện và chuyên sâu về các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi, gắn liền
với thực tiễn thực hiện và áp dụng các nguyên tắc này trong quá trình giải
quyết việc nuôi con nuôi.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu của đề tài
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và nội dung của các
nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi.
+ Thực tiễn thực hiện các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi:
việc áp dụng, thực hiện các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi trong
thực tế và phát hiện những vi phạm, bất cập còn tồn tại.
+ Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện các

nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi một cách nghiêm túc và có hiệu quả
trong thực tế.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận và nội dung
của nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, nghiên
cứu và đánh giá được thực tiễn thực hiện các nguyên tắc này. Trên có sở đó,
phát hiện những bất cập, vi phạm các nguyên tắc này trong thực tiễn giải
quyết việc nuôi con nuôi để đề xuất hướng giải quyết và hoàn thiện nhằm bảo
đảm thực hiện các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có hiệu quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
theo Luật nuôi con nuôi và có sự đối chiếu với Công ước Lahay năm 1993 và
thực tiễn thực hiện các nguyên tắc này trong quá trình giải quyết việc nuôi
con nuôi từ khi Luật nuôi con nuôi có hiệu lực.
- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi được quy định
trong Luật nuôi con nuôi 2010, có sự so sánh với quy định của các văn bản


4

pháp luật trước đây điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi như Luật HN-GĐ năm
2000, Nghị định 68/2002/NĐ-CP, Nghị định 69/2006/NĐ-CP, Thông tư
08/2006/TT-BTP và Công ước Lahay 1993.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
+ Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở gắn liền
giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
+ Phương pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử,

so sánh, thống kê…
6. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu với 3 chương như sau:
+ Chương 1. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con
nuôi.
+ Chương 2. Nội dung các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật
nuôi con nuôi.
+ Chương 3. Thực tiễn áp dụng các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
và một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả của các nguyên tắc này trong
thực tế.


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC
GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở nhiều quốc gia và được
pháp luật các nước điều chỉnh. Thuật ngữ “nuôi con nuôi” đã xuất hiện từ rất
lâu trên thế giới. Ngay trong bộ luật Hammurabi, một trong những bộ luật
thành văn cổ xưa nhất cũng đã chứa đựng những quy định về nuôi con nuôi.
Cụ thể là mục 106 của Bộ luật này đã quy định “trước khi đàn ông có thể nuôi
dưỡng một đứa trẻ bị bỏ rơi, ông ta phải tìm cha mẹ đẻ của nó, nếu tìm thấy
thì phải trả đứa trẻ cho họ”. Ở Việt Nam, việc nuôi con nuôi cũng đã tồn tại
từ khá sớm. Tuy nhiên, khái niệm về “nuôi con nuôi” thì phải đến Luật HNGĐ năm 2000 mới được quy định và được điều chỉnh lại tại khoản 1 Điều 3
Luật nuôi con nuôi. Theo đó, “nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ
và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”. Như

vậy có thể hiểu khái niệm nuôi con nuôi dưới hai góc độ sau:
* Dưới góc độ xã hội: nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội. Quan hệ
nuôi con nuôi có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như “nuôi con nuôi trên
danh nghĩa”, “nuôi con nuôi thực tế’’ hay “nuôi con nuôi lập tự”... Ví dụ như
“nuôi con nuôi trên danh nghĩa” là hình thức nuôi con nuôi được xác lập do
sự thỏa thuận của cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên hoặc giữa cha mẹ
nuôi và cha mẹ đẻ của con nuôi chưa thành niên trên cơ sở tình cảm và ước
nguyện gắn bó giữa hai gia đình. Đối với “nuôi con nuôi thực tế”, đây là hình
thức nuôi con nuôi mà người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi đã
gắn bó với nhau, thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con trên thực tế,
đáp ứng các điều kiện của chủ thể nhưng không đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Như vậy, những hình thức quan hệ này không đòi hỏi các điều


6

kiện chặt chẽ mà chủ yếu đáp ứng những lợi ích về vật chất và tinh thần.
Quan hệ nuôi con nuôi dưới hình thức này không phải bao giờ cũng có sự
thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong các trường hợp này
vẫn xác lập quan hệ nuôi con nuôi, tuy nhiên, hầu như những quan hệ này
không được pháp luật điều chỉnh.
Cũng cần phân biệt việc nuôi con nuôi với những hình thức nuôi dưỡng
hiện đang phổ biến trên thực tế hiện nay như việc nuôi dưỡng trẻ em trong nhà
chùa, trong các cơ sở bảo trợ xã hội, trong gia đình tạm nuôi. Trong những môi
trường này, trẻ em có thể được chăm sóc đầy đủ về đời sống vật chất cũng như
tinh thần, và trẻ em cũng gọi người nuôi dưỡng mình là cha, mẹ. Cũng có
trường hợp vì tình nghĩa mà người này gọi người kia là “cha, mẹ nuôi”, các
ngày giỗ, tết…cũng có mặt với tư cách là một thành viên trong gia đình. Tuy
nhiên, tất cả những hình thức này đều không được coi là nuôi con nuôi vì nó
không hình thành quan hệ cha, mẹ và con. Ví dụ, người cha, mẹ trong trường

hợp này không đương nhiên trở thành người đại diện theo pháp luật của con; họ
không có nghĩa vụ phải thương yêu, chăm sóc cho những trẻ em này, mà điều
này xuất phát từ tính nhân đạo và mang yếu tố đạo đức là chủ yếu.
* Dưới góc độ pháp lý: việc nuôi con nuôi có sự công nhận của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Các chủ
thể phải đáp ứng những điều kiện pháp luật quy định. Người được nhận nuôi
phải trong một độ tuổi nhất định, người nhận nuôi phải đảm bảo khoảng cách
tuổi chênh lệch phù hợp với người được nhận nuôi và có khả năng thực tế
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi… Bên cạnh đó, các chủ thể phải
tuân theo trình tự, thủ tục về việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi. Đồng thời,
khi quan hệ nuôi con nuôi được công nhận, các bên sẽ có quyền và nghĩa vụ
theo luật định. Việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quyền và
nghĩa vụ này sẽ phải chịu những chế tài của pháp luật.
So sánh giữa quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi với quan hệ cha mẹ đẻ
và con đẻ sẽ thấy hai quan hệ này có nhiều điểm khác nhau. Nếu quan hệ cha


7

mẹ đẻ và con đẻ là quan hệ dựa trên sự kiện sinh đẻ, là mối quan hệ huyết
thống tự nhiên thì quan hệ nuôi con nuôi được hình thành dựa trên ý chí chủ
quan của cha mẹ nuôi và con nuôi. Nếu như quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa
cha mẹ đẻ và con đẻ phát sinh không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ đẻ
là hợp pháp hay không hợp pháp thì quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi chỉ phát sinh khi quan hệ nuôi con nuôi được pháp luật công
nhận. Khi quan hệ nuôi con nuôi được công nhận thì các quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con giống như quan hệ
giữa cha mẹ đẻ và con
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu nuôi con nuôi là “việc xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi với đứa trẻ được nhận nuôi phù

hợp với tình cảm và ý chí tự nguyện của các bên chủ thể mà không gắn với
quan hệ huyết thống, trên cơ sở đó làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp
lý trong quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên”.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
“Nguyên tắc” được hiểu theo một nghĩa chung nhất, đó là “những điều
cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [27, Tr.
672], nó được coi là “cái chuẩn”, là “thước đo”cho một quá trình hoạt động.
Trong khoa học pháp lý cũng vậy, bất cứ một hệ thống pháp luật nào
cũng cần phải được xây dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định.
Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, được dùng để điều chỉnh những
quan hệ xã hội, hướng các quan hệ xã hội đi theo một trật tự có lợi nhất cho
Nhà nước và xã hội. Ở mỗi quốc gia, Nhà nước trên cơ sở những mục tiêu
trước mắt và lâu dài, định hình hướng chỉ đạo việc điều chỉnh pháp luật trong
các lĩnh vực.
Cũng giống như các lĩnh vực khác, Luật nuôi con nuôi được xây dựng
trên cơ sở xác định những nguyên tắc cơ bản điều chỉnh lĩnh vực nuôi con
nuôi. Nội dung của nguyên tắc thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta trong điều chỉnh việc xác lập, thực hiện quan hệ về nuôi


8

con nuôi. Đây là nguyên tắc cơ bản, tạo cơ sở cho việc xây dựng và áp dụng
các quy định của Luật, là những tư tưởng định hướng cho toàn bộ quá trình
thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi tại Việt Nam. Nguyên tắc giải quyết việc
nuôi con nuôi có những đặc điểm sau:
- Là hệ thống những nguyên lí chỉ đạo điều chỉnh các khía cạnh khác
nhau trong lĩnh vực nuôi con nuôi, được quy định trong văn bản pháp luật về
nuôi con nuôi. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là một nội dung quan
trọng của Luật nuôi con nuôi. Các nguyên tắc có những nội dung riêng, thể

hiện tính độc lập, đồng thời cũng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các quy
định khác tạo nên một thể thống nhất không tách rời.
- Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi thể hiện dưới dạng quy
phạm pháp luật có tính chỉ đạo, định hướng, quán triệt toàn bộ các quy phạm
pháp luật về nuôi con nuôi. Trong hệ thống các quy phạm pháp Luật nuôi con
nuôi, có thể phân chia thành hai nhóm: nhóm quy phạm chung và nhóm quy
phạm chuyên biệt. Quy phạm chung không trực tiếp điều chỉnh những quan
hệ cụ thể mà chỉ xác định “nguyên lý chung” cho việc điều chỉnh những quan
hệ nuôi con nuôi. Quy phạm chuyên biệt điều chỉnh các vấn đề cụ thể trong
quan hệ nuôi con nuôi, ví dụ như điều chỉnh về thủ tục giới thiệu trẻ làm con
nuôi người nước ngoài hoặc quy trình tìm gia đình thay thế cho trẻ em…Các
nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi thuộc nhóm quy phạm chung, có vai
trò định hướng, chỉ đạo các quy phạm chuyên biệt. Ngược lại, các quy phạm
chuyên biệt phải phù hợp, không được trái với các quy phạm chung và nhằm
thực hiện các quy phạm chung.
Từ sự phân tích trên đây, có thể hiểu khái niệm nguyên tắc giải quyết
việc nuôi con nuôi như sau:
“Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là những quan điểm chỉ đạo,
thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi, có tính định hướng, chỉ
đạo và được quán triệt trong toàn bộ các quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi
cũng như việc thi hành và áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi trong thực tiễn”.


9

1.2. Cơ sở quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, bất cứ một lĩnh vực pháp luật nào cũng cần phải được xây
dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định. Luật nuôi con nuôi cũng

không phải là một ngoại lệ. Việc xây dựng các nguyên tắc giải quyết việc
nuôi con nuôi đảm bảo cho các quy phạm pháp luật cụ thể được xây dựng và
áp dụng thống nhất, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn và nhằm đạt được mục
đích nhất định.
Thứ hai, trẻ em là một nhóm xã hội non nớt, dễ bị tổn thương, được
toàn thể cộng đồng quốc tế quan tâm và bảo vệ. Một trong những quyền cơ
bản của trẻ em được pháp luật bảo vệ là quyền được sống, được chăm sóc,
nuôi dưỡng trong môi trường gia đình. Những quyền này đã được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật quốc tế. Cụ thể là ngay trong lời mở đầu của
UDHR; ICCPR và ICESRC đã khẳng định trẻ em được thừa nhận là chủ thể
bình đẳng với người lớn trong việc hưởng tất cả các quyền và tự do cơ bản
được ghi nhận trong luật quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, do đặc trưng
của trẻ em là còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần, bởi vậy, ngay trong
UDHR, ICCPR và ICESCR, trẻ em đã được ghi nhận những quyền đặc thù,
đặc biệt là quyền được chăm sóc, giáo dưỡng và được bảo vệ đặc biệt. Dựa
trên cách tiếp cận đó, năm 1959, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua
một văn kiện riêng về quyền trẻ em (Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền
trẻ em). Tuyên bố này là tiền đề để Liên Hợp Quốc xây dựng và thông qua
Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/11/1989. Lời nói đầu của Công ước
đã ghi nhận rằng: “Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được bảo
vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng
như sau khi ra đời”. Tuy công ước này chỉ dành hai điều ngắn gọn (Điều 20
và Điều 21) để quy định quyền trẻ em khi được cho làm con nuôi nhưng nó đã
xác lập những vấn đề cốt lõi cho chế độ nuôi con nuôi trong nước và nước
ngoài trên cơ sở bảo vệ quyền trẻ em. Luật nuôi con nuôi chính là khung pháp


10

lý cần thiết để Viêt Nam gia nhập Công ước Lahay 1993. Điều này đòi hỏi

việc quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi phải phù hợp với
yêu cầu của pháp luật quốc tế.
Thứ ba, tại Việt Nam, nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của
việc bảo vệ trẻ em và các quyền của trẻ em, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ đối tượng đặc thù này. Điều này
được thể hiện rất rõ thông qua các văn bản pháp luật mà Nhà nước đã ban
hành như Hiến pháp, Luật HN-GĐ năm 2000, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em năm 2004, Luật Giáo dục năm 2005. Do đó, các nguyên tắc giải
quyết việc nuôi con nuôi cũng phải bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích
tốt nhất của trẻ em.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, thực tiễn đất nước ta còn nghèo, hoàn cảnh đất nước còn phải
chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội có
nhiều khó khăn, mức thu nhập của nhân dân còn thấp nên hiện nay vấn đề
nuôi con nuôi được coi là giải pháp tương đối hiệu quả nhằm đảm bảo việc
chăm sóc trẻ em trong môi trường gia đình. Bên cạnh ý nghĩa tạo dựng mái
ấm gia đình thay thế cho trẻ em được nhận làm con nuôi (đa phần là những trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt), việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu
chính đáng của người nhận con nuôi, nhất là những cặp vợ chồng hiếm muộn,
vô sinh nhưng khao khát được làm cha, làm mẹ; phụ nữ có hoàn cảnh khó
khăn, sống đơn thân, không có điều kiện sinh nở. Thực trạng này dẫn đến việc
giải quyết nuôi con nuôi ngày càng nhiều. Do đó, để đảm bảo giải quyết việc
nuôi con nuôi được chặt chẽ và đúng đắn thì việc quy định các nguyên tắc
giải quyết việc nuôi con nuôi là cần thiết và hợp lý.
Thứ hai, thực tế những năm qua cho thấy, việc nuôi con nuôi đã giải
quyết rất tốt quyền và lợi ích của trẻ em, nhiều trẻ sau khi được nhận làm con
nuôi đã có được cuộc sống tốt đẹp hơn, được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục



11

trong môi trường hiện đại, văn minh và quan trọng là được yêu thương trong
môi trường gia đình cha mẹ nuôi. Tuy nhiên, những hiện tượng vi phạm các
quyền cơ bản của trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi như không đảm bảo cho
trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, lạm dụng sức lao động của
trẻ em, buôn bán trẻ em vẫn còn tồn tại, thậm chí ở một số địa phương còn
“rộ” lên những trường hợp lợi dụng việc cho trẻ em làm con nuôi để trục lợi.
Nguyên nhân của những hiện tượng này chủ yếu là do Nhà nước chưa có quy
định cụ thể cũng như chế tài tương ứng đối với các hành vi vi phạm. Chính vì
vậy, yêu cầu phải có các quy định mang tính nguyên tắc, quán triệt toàn bộ
quá trình giải quyết việc cho – nhận con nuôi là cấp thiết nhằm ngăn chặn tình
trạng trên.
1.3. Quá trình hình thành các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
Ở nước ta, trước khi Luật HN-GĐ năm 2000 ra đời, công tác quản lý
nhà nước về nuôi con nuôi chưa được nhìn nhận như một lĩnh vực công tác
chính thức của Chính phủ, mà chỉ được thực hiện lồng ghép trong chức năng
quản lý và đăng ký hộ tịch nói chung. Việc nuôi con nuôi mới được điều
chỉnh trong các văn bản pháp luật bằng các quy phạm riêng lẻ quy định những
vấn đề cụ thể như điều kiện nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của các
bên…nhưng chưa có quy định mang tính nguyên tắc chỉ đạo trong lĩnh vực
nuôi con nuôi.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước trở lại đây do tác động của hiện
tượng nuôi con nuôi quốc tế (người nước ngoài xin trẻ em Việt Nam làm con
nuôi), lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung được các cơ quan nhà nước và xã hội
quan tâm hơn, việc nuôi con nuôi trong nước cũng tăng lên. Cùng với việc số
lượng trẻ em được nhận làm con nuôi ngày càng nhiều, khung khổ pháp lý về
nuôi con nuôi cũng ngày hoàn thiện. Cụ thể là Luật HN-GĐ năm 2000 đã
dành hẳn chương VIII để quy định về vấn đề nuôi con nuôi. Tuy nhiên, Luật
HN-GĐ năm 2000 là văn bản điều chỉnh tổng hợp các vấn đề về quan hệ nuôi

con nuôi như điều kiện nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và


12

con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi…còn việc điều chỉnh cụ thể lại có các
văn bản hướng dẫn, trong đó mỗi văn bản hướng dẫn một vấn đề như: Nghị
định 158/2005/NĐ-CP chỉ quy định về việc đăng ký nuôi con nuôi trong
nước; Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP chỉ điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Nghị định 32/2002/NĐ-CP
chỉ có Điều 16, Điều 17 quy định về đăng ký nuôi con nuôi cho các dân tộc
thiểu số…Do vậy, pháp luật trong thời kỳ này không có những nguyên tắc
chung cho việc giải quyết nuôi con nuôi. Riêng đối với vấn đề nuôi con nuôi
nước ngoài, theo quy định tại Điều 35 Nghị định 68/2002/NĐ-CP được sửa
đổi bởi khoản 8 Điều 1 Nghị định 69/2006/NĐ-CP thì việc giải quyết cho
người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, “việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện trên
tinh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các
quyền cơ bản của trẻ em. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột
sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì các mục đích khác
không phải mục đích nuôi con nuôi; nghiêm cấm lợi dụng việc giới thiệu, giải
quyết, đăng ký cho trẻ em làm con nuôi nhằm mục đích trục lợi, thu lợi vật
chất bất hợp pháp”.
Đây là nguyên tắc rất quan trọng, lần đầu tiên được quy định chính thức
trong văn bản pháp luật, thể hiện quan điểm của Nhà nước ta là việc cho nhận
con nuôi vì mục đích nhân đạo và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Thứ hai, “người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu Việt Nam và nước nơi
người xin nhận con nuôi thường trú cùng là thành viên của điều ước quốc tế

hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi”.
Đây là một quy định mới đã làm thay đổi căn bản trình tự, thủ tục giải
quyết việc nuôi con nuôi, làm phạm vi người nước ngoài có thể xin nhận trẻ
em Việt Nam làm con nuôi giảm đi rất nhiều. Quy định này đảm bảo tốt hơn


13

lợi ích của trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài, vì nó tạo ra cơ sở
pháp lý bảo vệ trẻ em qua các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi.
Thứ ba, “người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi, mà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú và
Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước
quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi thì cũng được xem xét giải quyết,
nếu người đó thuộc một trong các trường hợp được pháp luật quy định”. Đó là
những trường hợp có thời gian công tác, học tập, làm việc tại Việt Nam từ 06
tháng trở lên; có vợ, chồng, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc
Việt Nam; có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin nhận làm con
nuôi hoặc đang có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được xin nhận làm
con nuôi… và các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định.
Như vậy, lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi có đặt
ra những nguyên tắc làm cơ sở chỉ đạo việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Tuy nhiên, các nguyên tắc này chỉ điều chỉnh việc nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài nên chính điều này lại tạo ra sự tách biệt giữa pháp luật
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi trong nước và pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vô hình chung điều này đã tạo ra những
kẽ hở mà những cá nhân hoặc các cơ sở nuôi dưỡng lợi dụng để trục lợi.
Nhằm khắc phục những hạn chế đó, Luật nuôi con nuôi đã ra đời. Luật
nuôi con nuôi đã quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi một
cách hệ thống, rõ ràng trong một điều luật. Các nguyên tắc này xác lập những

quan điểm hoàn toàn mới trong giải quyết việc nuôi con nuôi so với trước đây
nhằm phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn nuôi con nuôi và các văn bản pháp
luật về nuôi con nuôi quốc tế. So với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại
Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP thì những nguyên tắc
trong Luật nuôi con nuôi có điểm mới khá nổi bật đó chính là việc đưa thêm
vào nguyên tắc “khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ
em được sống trong môi trường gia đình gốc” và nguyên tắc “Chỉ cho trẻ em


14

làm con nuôi người nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở
trong nước”. Đây là điểm hoàn toàn mới mà chưa có một văn bản pháp luật
nào trước đây quy định. Quan điểm này chi phối, chỉ đạo toàn bộ các hoạt động
của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
1.4. Ý nghĩa của các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
Thứ nhất, đây là cơ sở pháp lý làm nền tảng để các quy phạm pháp luật
khác được quy định phù hợp với các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của trẻ em được nuôi con nuôi. Những nguyên
tắc này chi phối đến toàn bộ việc xây dựng các quy phạm pháp luật trực tiếp
điều chỉnh việc nuôi con nuôi, là cơ sở để quy định các quy phạm pháp luật
khác như quy định về điều kiện nuôi con nuôi, hệ quả của việc nuôi con
nuôi…Các quy phạm pháp luật trong Luật nuôi con nuôi cũng như trong các
văn bản dưới luật điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi phải nhằm thực hiện và đạt
được mục đích mà các nguyên tắc đã đề ra, phải phù hợp và không trái với
các nguyên tắc. Nói tóm lại, giữa nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi và
các quy phạm pháp luật cụ thể có mối quan hệ khăng khít với nhau, cùng tác
động qua lại với nhau. Các nguyên tắc chi phối đến việc xây dựng các quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi và ngược lại các quy phạm
pháp luật điều chỉnh việc nuôi con nuôi cũng phải phù hợp và không trái với

các nguyên tắc.
Thứ hai, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý
để rà soát, sửa đổi, bổ sung xây dựng các quy phạm pháp luật khác điều chỉnh
việc nuôi con nuôi.
Ngay sau khi Luật nuôi con nuôi có hiệu lực thi hành, rất nhiều các văn
bản pháp luật dưới Luật được ban hành nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn
thực hiện việc nuôi con nuôi. Các quy phạm này được xây dựng hoàn toàn
mới hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định trước đó không phù hợp hoặc trái
với Luật nuôi con nuôi nói chung và các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con
nuôi nói riêng.


15

Thứ ba, nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi lần đầu tiên được quy
định một cách hệ thống, rõ ràng, minh bạch đã xác định quan điểm, đường lối
giải quyết của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em
cũng như định hướng cách xử sự của các chủ thể có liên quan trong lĩnh vực
nuôi con nuôi. Các chủ thể này bao gồm cá nhân (như cha mẹ nuôi, cha mẹ
đẻ, người được nhận làm con nuôi), tổ chức (cơ sở nuôi dưỡng) và cơ quan
Nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi (UBND, Sở Tư pháp, Cục Con nuôi –
Bộ Tư pháp…). Tất cả đều phải tuân thủ các nguyên tắc đồng thời không
được lạm dụng quyền hạn, làm sai, làm trái với các quy định của pháp luật về
nuôi con nuôi.
Thứ tư, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi đã ít nhiều làm
thay đổi nhận thức, quan điểm, cách giải quyết đối với việc nuôi con nuôi so
với trước đây.
Trước khi Luật nuôi con nuôi ra đời, Việt Nam là một trong những
nước có nhiều trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài. Bởi lẽ, vào
thời điểm đó, quan điểm cho trẻ em làm con nuôi quốc tế sẽ tạo điều kiện cho

trẻ em có cơ hội được tiếp cận với nền văn hóa, giáo dục, y tế hiện đại, văn
minh, từ đó đảm bảo cho các cháu được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt hơn. Tuy
nhiên, kể từ ngày 01/01/2011 khi Luật nuôi con nuôi chính thức có hiệu lực
thi hành, quan điểm này đã hoàn toàn thay đổi. Đảng và Nhà nước ta đã nhận
thức rằng không có môi trường nào tốt hơn môi trường gia đình gốc, không có
nơi nào tốt hơn nơi mỗi con người được sinh sống, học tập và lao động trên
chính quê hương, đất nước mà mình được sinh ra. Điều này đã được xuyên
suốt trong Luật nuôi con nuôi. Cụ thể là, khi giải quyết việc nuôi con nuôi
phải tôn trọng quyền sống trong môi trường gia đình gốc của trẻ em, việc giải
quyết cho trẻ em làm con nuôi quốc tế phải là biện pháp cuối cùng khi không
tìm được gia đình thay thế ở trong nước. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp
với pháp luật chung của cộng đồng quốc tế.
Thứ năm, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là cơ sở để xem
xét, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi.


16

Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có giá trị chi phối tới toàn bộ
quá trình giải quyết và thực hiện việc nuôi con nuôi. Đây là cơ sở để xác định
các chế tài cụ thể đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. Vì vậy, nếu chủ thể nào
đó có hành vi vi phạm quy định về nuôi con nuôi thì sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Thứ sáu, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi luôn gắn bó, có
sự tác động qua lại với nhau, được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất
nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền và lợi ích cơ bản của trẻ em được làm
con nuôi. Cụ thể là, việc thực hiện tốt nguyên tắc thứ nhất “khi giải quyết việc
nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia
đình gốc” và nguyên tắc thứ ba “chỉ cho trẻ em làm con nuôi người nước
ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước” cũng là đảm
bảo quyền và lợi ích của trẻ được nhận làm con nuôi (nội dung nguyên tắc thứ

hai). Do đó, những nguyên tắc này có vai trò rất quan trọng trong việc điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi, góp phần đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả.


17

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON
NUÔI THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI
Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam
được quy định tại Điều 4 Luật nuôi con nuôi, được áp dụng cho cả nuôi con
nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các nguyên tắc giải
quyết việc nuôi con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi đã nội luật hóa
các nguyên tắc của Công ước Lahay và phát triển những nguyên tắc đó cho
phù hợp với đặc điểm văn hóa, xã hội và truyền thống gia đình của Việt Nam.
Cụ thể như sau:
2.1. “Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gia đình gốc”
Đây là một nguyên tắc được thừa nhận chung trong cộng đồng quốc tế.
Điều 3, Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội
liên quan đến phúc lợi và bảo về trẻ em ghi nhận: “ưu tiên hàng đầu đối với
trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm sóc”. Lời nói đầu Công ước của Liên
Hợp quốc về quyền trẻ em tin tưởng rằng, “gia đình với tư cách là nhóm xã
hội cơ bản và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả
các thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần
thiết có thể đảm đương đầy đủ các trách nhiệm của mình trong cộng đồng”.
Lời nói đầu Công ước Lahay năm 1993 nhắc lại rằng “mỗi nước cần phải ưu
tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm sóc trong
gia đình gốc của mình”.
Gia đình là một đơn vị trung tâm trong đời sống chính trị, xã hội và tôn

giáo, là “một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và
củng cố trên cơ sở hôn nhân và huyết thống hoặc nuôi dưỡng, giáo dục” [30].
Còn “gia đình gốc” thì được hiểu theo phạm vi hẹp hơn, đó là gia đình của
những người có quan hệ huyết thống (khoản 7 Điều 3 Luật nuôi con nuôi),


18

bao gồm bố, mẹ, ông, bà, anh, chị em ruột, cô, dì, chú, bác ruột của trẻ em.
Lời nói đầu của Luật HN-GĐ năm 2000 đã khẳng định “Gia đình là tế bào
của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình
thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”; Như
vậy, có thể thấy vai trò cần thiết của gia đình đối với mỗi cá nhân, đặc biệt là
đối với trẻ em thì gia đình gốc được coi là môi trường lý tưởng nhất cho sự
phát triển. Do còn non nớt cả về thể chất lẫn trí tuệ nên việc lớn lên và được
chăm sóc, đùm bọc của những thành viên trong gia đình là điều vô cùng quan
trọng. Điều này giúp cho trẻ em có được sự gần gũi trong cách sống, phong
tục cũng như về tính cách trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy, duy trì trẻ em
được sống trong gia đình gốc là việc làm cần được ưu tiên hàng đầu để bảo
đảm trẻ em được lớn lên trong bầu không khí yêu thương của cha mẹ đẻ.
Trong khi xem xét giải quyết việc nuôi con nuôi, trước hết cần phải chú ý đến
điều này, không được đưa trẻ em ra khỏi môi trường gia đình gốc trái với ý
chí, nguyện vọng và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Mặt khác, xuất phát từ những hạn chế đang còn tồn tại trong quá trình
cho và nhận con nuôi, vẫn còn tồn tại những vụ môi giới cho trẻ em làm con
nuôi người nước ngoài nhằm trục lợi bất chính, lợi dụng trẻ em như một “món
hàng” đẻ kiếm lời mà không quan tâm đến quyền lợi hợp pháp của trẻ. Do đó
việc ghi nhận nguyên tắc trên là cần thiết để đảm bảo cho trẻ có được một môi
trường sống tốt nhất.

Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc này, Luật nuôi con nuôi và Nghị định
19/2011/NĐ-CP đã quy định một số biện pháp đảm bảo trẻ em được cho làm
con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Đó là:
“Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi khi con đã được
sinh ra ít nhất 15 ngày (Khoản 4 Điều 21 Luật nuôi con nuôi). Sở dĩ pháp luật
quy định vấn đề này là để tránh những trường hợp vừa sinh con ra người cha,
người mẹ do chưa có sự suy nghĩ chín chắn đã quyết định cho con làm con


19

nuôi. Y học và thực tế chứng minh rằng người phụ nữ sau khi sinh con có
nhiều sự thay đổi về tâm sinh lý, thậm chí có nhiều người bị trầm cảm, vì thế
rất có thể họ có những hành động “bột phát”, đặc biệt đối với những người mẹ
trẻ đơn thân có con ngoài giá thú, do sự căng thẳng, lo lắng hoặc do áp lực
cộng thêm với tâm lý sau sinh đã vội vàng quyết định cho con đi làm con
nuôi. Do đó, để hạn chế những trường hợp này và để bảo vệ tốt nhất quyền lợi
của trẻ em, pháp luật quy định cha mẹ đẻ của trẻ chỉ được phép cho con làm
con nuôi sau 15 ngày kể từ ngày trẻ được sinh ra.
Trường hợp cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ đồng ý cho trẻ là
con nuôi thì việc đồng ý phải bằng văn bản thông qua biên bản đồng ý cho
con làm con nuôi hoặc giấy viết tay tự nguyện cho con làm con nuôi. Pháp
luật quy định, khi lấy ý kiến của những người này, cán bộ tư pháp – hộ tịch
phải tư vấn để trẻ em tiếp tục được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp
với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình gốc. Nếu những người liên
quan do chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những vấn đề được tư vấn hoặc
bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm
con nuôi nhưng sau đó muốn thay đổi ý kiến thì vẫn có quyền rút lại ý kiến về
việc cho trẻ em làm con nuôi trong thời hạn 15 ngày (đối với việc nuôi con
nuôi trong nước) hoặc 30 ngày (đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước

ngoài) kể từ ngày được lấy ý kiến (khoản 2, khoản 3 Điều 9 Nghị định
19/2011/NĐ-CP).
Thực tế công tác giải quyết việc nuôi con nuôi trong thời gian qua cho
thấy, có nhiều người mẹ trẻ đơn thân có con ngoài giá thú, vì không chịu được
định kiến xã hội đã vội vàng quyết định cho con làm con nuôi. Sau đó, các thủ
tục liên quan đã được thực hiện thì mẹ đẻ đã thay đổi ý kiến, không muốn cho
con đi làm con nuôi nữa. Đối với những trường hợp này, mặc dù chưa có quy
định của pháp luật nhưng Cục Con nuôi vẫn áp dụng nguyên tắc được thừa
nhận chung trong cộng đồng quốc tế, đó là ưu tiên quyền của trẻ em được
sống trong gia đình gốc. Do đó, Cục đã hướng dẫn các địa phương tiến hành
các thủ tục cần thiết để mẹ đẻ của trẻ em được nhận lại con mình.


×