Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HÀ THANH

PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC XÂT DỰNG

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN QUANG

HÀ NỘI – 2014






Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhu cầu về xây dựng đang là một nhu cầu tất yếu trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước đòi hỏi ngành xây dựng phải đi trước một bước nhằm đáp ứng về kết
cấu hạ tầng phục vụ cho quá trình phát triển đồng thời đáp ứng nhu cầu nhà ở
sinh hoạt trong nhân dân, đặc biệt tại các khu vực đô thị lớn như Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định ngành xây dựng nước ta đã có đóng
góp tích cực vào ba khâu đột phá của nền kinh tế bao gồm đột phá về cơ sở hạ
tầng, nâng cao điều kiện phát triển xã hội và góp phần tạo môi trường đầu tư tốt
hơn để thu hút các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Xây dựng thực sự là ngành
kinh tế - kỹ thuật có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế xã hội, trực tiếp góp phần nâng cao đời sống cho người dân và toàn xã hội.
Góp phần quan trọng vào những thành tựu của ngành xây dựng không thể
không nhắc đến vai trò của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng chiến lược phát triển ngành xây dựng, tạo lập trật tự kỷ cương trong hoạt
động xây dựng, bảo đảm cho lĩnh vực hoạt động này phát triển theo đúng định
hướng chiến lược đã đề ra. Cùng với những kết quả tích cực đáng khích lệ, quản
lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng trong những năm qua đang phải đối mặt với
những khó khăn, thách thức phức tạp đặc biệt là tình trạng vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực này xảy ra ngày càng nhiều với những
phương thức và thủ đoạn vô cùng tinh vi. Với sự xuất hiện ngày càng nhiều các
khu đô thị lớn, những công trình xây dựng có quy mô lớn và sự gia tăng chóng
mặt của các công trình xây dựng dân dụng, vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xây dựng đã trở thành vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Qua công tác kiểm tra,



Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
2

thanh tra, giám sát các dự án xây dựng lớn cho thấy có nhiều dự án vi phạm quy
định về thẩm định dự án, quy chế đấu thầu, các quy định về trình tự thủ tục trong
quản lý đầu tư xây dựng và quản lý chất lượng công trình. Tiêu cực, tham nhũng
trong đầu tư xây dựng cơ bản xảy ra ở nhiều khâu với tính chất ngày càng phức
tạp. Công tác cấp phép xây dựng và quản lý trật tự xây dựng vẫn còn nhiều tồn
tại, bất cập trong đó nổi bật là việc kiểm tra thực hiện xây dựng theo giấy phép
và quản lý trật tự xây dựng còn bị buông lỏng, xử lý chưa kịp thời và nghiêm
minh.
Thông thường, nguyên nhân chính dẫn đến vi phạm hành chính trong lĩnh
vực xây dựng như đã nêu trên là sự thiếu hiểu biết các quy định pháp luật về xây
dựng của các chủ thể tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, hiện nay
xuất hiện ngày càng nhiều vi phạm hành chính do những đối tượng có hiểu biết
về pháp luật nói chung và pháp luật xây dựng nói riêng nhưng vẫn cố tình vi
phạm với những phương thức khá tinh vi, phức tạp.
Thực tiễn vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng như đã nêu trên
đòi phải tăng cường hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm tra,
phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Để
thực hiện được yêu cầu này, việc hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng
chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực này cần được đặc biệt chú trọng. Trên
thực tế, Nhà nước ta đã và đang có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn
thiện các quy định và hệ thống văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm chính nói
chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng nói riêng. Cùng với Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 121/2013/NĐCP ngày 10/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây
dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
3

dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở. Bộ
Xây dựng cũng đã ban hành Thông tư số 02/2014/TT-BXD của Bộ Xây dựng
hướng dẫn Nghị định số 121/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh
doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển
nhà và công sở. Đây là những văn bản pháp luật mới có hiệu lực thi hành, có
nhiều điểm mới so với các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này đã ban hành
trước đây. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng, phân tích, đánh giá nội dung pháp luật và
thực tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực này, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực xây dựng là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Chính vì lý do này, tác giả đã chọn đề tài: "Pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng" làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình với mong
muốn đóng góp một phần khiêm tốn nhằm phân tích rõ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng để khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng, nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
2. Tình hình nghiên cứu
Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính là đối tượng nghiên cứu

của nhiều công trình khoa học ở những giác độ khác nhau. Những công trình
nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này phải kể đến:
Thứ nhất, nhóm các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ:
- Phạm Quang Huy (2002), Luận án Tiến sĩ luật học "Ranh giới giữa tội
phạm và không phải là tội phạm trong Luật Hình sự Việt Nam", Viện nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Bình (2000), Luận văn Thạc sĩ luật học "Hoàn thiện các
quy định pháp luật về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính", Trường Đại
học Luật Hà Nội.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
4

- Nguyễn Thị Thuỷ (2001), Luận văn Thạc sĩ luật học "Thẩm quyền xử lý
vi phạm hành chính", Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Bích (2003), Luận văn Thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính với người chưa thành niên", Trường Đại học
Luật Hà Nội.
- Bùi Tiến Đạt (6/2005), Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn”, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Tống Thị Hoài Phương (2011), Luận văn Thạc sĩ luật học "Xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực", Trường Đại học Luật Hà Nội.
Thứ hai, nhóm các sách chuyên khảo, bài viết tạp chí, các đề tài nghiên
cứu khoa học:
- Trần Minh Hương (1999), "Bàn thêm về xử lý vi phạm hành chính",
Luật học, (4), tr. 16-19.
- Vũ Thư (2000), "Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn", Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.
- Trần Thị Hiền (2003), "Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính", Luật học, (Số đặc san về vi phạm hành chính), tr. 23-27.
- Lê Vương Long (2003), "Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính", Luật học, (Số đặc san về vi phạm hành chính), tr. 34-40.
- Lê Minh Tâm (2003), "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Bùi Thị Đào (2005), "Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính", Luật học,
(Số đặc san về vi phạm hành chính), tr. 17-22.
- Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2005), "Bình luận khoa học Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002", Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Bùi Xuân Đức (2006), "Vi phạm hành chính và hình thức xử phạt vi phạm
hành chính - Những hạn chế và giải pháp đổi mới", Luật học, (2), tr. 18-25.
- Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), "Từ điển Luật học", Nxb Tư
pháp, Hà Nội.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
5

- Trung tâm Từ điển học (2008), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
- Bùi Tiến Đạt, "Cải cách cấu trúc của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 11 - tháng 6/2009).
- Ban Soạn thảo Dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính - Vụ Pháp luật
hình sự - hành chính Bộ Tư pháp (2009), "Pháp luật quốc tế về xử lý vi phạm
hành chính", (Tài liệu tham khảo), Hà Nội.
- Bùi Tiến Đạt, Chủ nhiệm đề tài NCKH cấp Khoa (Khoa Luật,
ĐHQGHN) "Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở Việt Nam

hiện nay”, đã nghiệm thu đạt loại Tốt.
- Bùi Tiến Đạt, Triết lý trong xây dựng và thực hiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2011.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã đề cập
đến các vấn đề lý luận liên quan đến vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành
chính, phân tích, đánh giá những nội dung pháp luật liên quan cũng như thực tiễn
thi hành pháp luật trong lĩnh vực này ở góc độ chung cũng như trong một số lĩnh
vực quản lý nhà nước cụ thể. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu
chuyên sâu về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
đặc biệt là sau thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các Nghị
định hướng dẫn thi hành Luật này có hiệu lực thi hành. Vì vậy, luận văn này sẽ
tập trung nghiên cứu pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây
dựng nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật hiện hành về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và tình hình thực tiễn thi
hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
Luận văn tập trung phân tích, đánh giá các quy định pháp luật liên quan
của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, các quy định về xử phạt vi phạm


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
6

hành chính trong hoạt động xây dựng của Nghị định số 121/2013/NĐ-CP ngày
10/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng,

kinh doanh bất động sản, khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, quản
lý công trình hạ tầng kỹ thuật, quản lý phát triển nhà và công sở và Thông tư số
02/2014/TT-BXD ngày 12/02/2014 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thi hành Nghị
định 121/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
xây dựng, kinh doanh bất động sản, khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây
dựng, quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật, quản lý phát triển nhà và công sở.
Luận văn không đề cập tới toàn bộ nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính mà tập trung vào một số nội dung cơ bản bao gồm: Quy định về hành
vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm
quyền xử phạt và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
Khi đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng, Luận văn tập trung vào việc đánh giá việc
thi hành pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn Hà Nội. Để triển khai vấn đề
này, ngoài những nội dung khác, Luận văn phân tích những quy định có liên
quan của Quyết định số 46/2013/QĐ-UBND ngày 25/10/2013 của UBND thành
phố Hà Nội về việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Xây dựng
thành phố Hà Nội, Quyết định số 09/2014/QĐ-UBND ngày 14/02/2014 ban
hành Quy chế phối hợp quản lý trật tự xây dựng giữa Sở Xây dựng và uỷ ban
nhân dân quận, huyện, thị xã, uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trên địa bàn
thành phố Hà Nội và một số văn bản pháp luật khác của Hà Nội có liên quan đến
nội dung đề tài.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng nghiên cứu các quy
định của pháp luật có liên quan đến nội dung đề tài được ban hành trước khi
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực thi hành.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận, tác giả đã sử dụng cơ sở lý luận là phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các tư


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ


Trường Đại học Luật Hà Nội
7

tưởng, quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng và chính sách, pháp luật của
nhà nước ta về pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
Ngoài ra, trong luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh ... để nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện
hành, thực tiễn áp dụng pháp luật và và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây
dựng nhằm xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xây dựng,
tăng cường trật tự kỷ cương trong quản lý nhà nước đối với hoạt động xây dựng.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nội dung những vấn đề được nghiên cứu và đề xuất trong Luận văn có ý
nghĩa nhất định trong việc nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và và quản lý nhà nước đối với hoạt
động xây dựng.
Luận văn không những nêu bật những ưu điểm, những thuận lợi và vai trò
của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính mà còn chỉ rõ được những bất cấp
trong các quy định của pháp luật và tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn áp
dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Từ đó đưa
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng và những giải pháp hoàn thiện về tổ chức thực
hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu cho thấy luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về vi phạm hành chính và xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng như khái niệm, hành vi vi phạm,
chế tài xử phạt vi phạm, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt vi

phạm ... để làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng vi phạm trong lĩnh vực xây
dựng cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng hiện nay.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
8

- Từ nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng, luận văn chỉ rõ những hạn chế, bất
cập, những quy định không khả thi trong các văn bản pháp luật hiện hành để tạo
cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
- Luận văn bước đầu đưa ra những đề xuất có tính gợi mở cho việc nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong công tác xử phạt vi phạm hnàh chính trong
lĩnh vực xây dựng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, phần kết luận, luận văn được bố cục thành 03
chương, gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng.
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ


Trường Đại học Luật Hà Nội
9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG
1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
1.1.1. Định nghĩa
Khi đề cập đến pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, một trong những
vấn đề cần được quan tâm là cơ sở của việc xử phạt hành chính. Vi phạm hành
chính là cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính. Việc nghiên cứu về khái
niệm hành vi vi phạm hành chính vừa có ý nghĩa lý luận quan trọng vừa mang
tính thực tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, chỉ khi định nghĩa được đúng về hành vi vi phạm
hành chính mới có thể xác định được các vi phạm hành chính cụ thể trong từng
lĩnh vực quản lý nhà nước.
Vi phạm hành chính là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa tới mức
phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, vi phạm hành chính đều là những
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại tới lợi ích của nhà nước, tập thể,
cá nhân trong xã hội, đồng thời sẽ là nguyên nhân dẫn tới tình trạng phạm tội
nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Vi phạm hành chính diễn ra ở
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động quản lý
hành chính nhà nước.
Lý luận cũng như thực tiễn đòi hỏi định nghĩa vi phạm hành chính phải
phản ánh đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của loại vi phạm này, trong đó cần
thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm của chúng và là cơ sở để phân biệt giữa loại vi
phạm này với tội phạm. Vi phạm hành chính được định nghĩa lần đầu tiên trong
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, theo đó “vi phạm hành chính
là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các
quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định

của pháp luật phải bị xử lý hành chính”. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) không trực tiếp đưa ra định nghĩa về vi


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
10

phạm hành chính mà thông qua quy định về xử phạt vi phạm hành chính các nhà
làm luật đã gián tiếp nêu ra định nghĩa này. Khoản 2 Điều 1, Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính 2002 quy định “xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối
với cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 định nghĩa vi phạm hành chính như sau: "Vi phạm hành chính là hành vi có
lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính".
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, các quan niệm về vi phạm hành
chính nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp
luật này. Những dấu hiệu bản chất này giúp chúng ta đưa ra định nghĩa chung về
vi phạm hành chính, theo đó, vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật
về quản lý nhà nước của cá nhân, tổ chức, có lỗi, không phải là tội phạm và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Trên cơ sở của định nghĩa chung về vi phạm hành chính nêu trên, có thể
định nghĩa vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng là hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng của cá nhân, tổ chức, có lỗi,
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm
hành chính.

1.1.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính
Cũng tương tự như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm hành chính
được cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách thể.
* Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là tổng hợp các dấu hiệu bên
ngoài của vi phạm hành chính, bao gồm hành vi trái pháp luật, hậu quả và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cùng một số dấu hiệu khác như công
cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
11

Vi phạm hành chính trước hết phải là hành vi, được biểu đạt ra bên ngoài
bằng hành động hoặc không hành động. Dù biểu hiện bằng hình thức nào đi
chăng nữa, hành vi đó chỉ bị coi là vi phạm hành chính khi nó là hành vi trái
pháp luật hành chính.
Hậu quả của vi phạm hành chính thể hiện ở việc nó đã xâm hại đến các
định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Nói cách khác hậu quả của vi phạm hành chính thể hiện các quan hệ xã hội
được pháp luật hành chính xác lập và bảo vệ đã bị xâm hại.
Hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính có mối
quan hệ nhân quả, theo đó, hành vi vi phạm là tiền đề xuất hiện của hậu quả mà
vi phạm này gây ra. Cần lưu ý rằng hậu quả và thiệt hại xảy ra không đồng nhất
với nhau. Mặt khách quan của đa phần các cấu thành vi phạm hành chính không
bắt buộc phải có dấu hiệu thiệt hại. Trong một số trường hợp thiệt hại là dấu hiệu
bắt buộc và trường hợp này nhất thiết phải xác định mối quan hệ giữa hành vi và
thiệt hại mà nó gây ra.

Ngoài ra, mặt khách quan của vi phạm hành chính cũng có thể có một số
yếu tố khác như thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi vi
phạm hành chính. Những dấu hiệu này mặc dù không phổ biến nhưng trong một
số trường hợp đây lại là dấu hiệu bắt buộc để xác định hành vi đó có phải là vi
phạm hành chính hay không.
* Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu bên trong của vi phạm
hành chính, bao gồm các yếu tố lỗi, mục đích và động cơ, trong đó, lỗi là dấu
hiệu cơ bản trong cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. Lỗi là thái độ tâm
lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm
pháp luật của mình và được phân chia thành hai hình thức, lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi
vi phạm nhận thức được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hoặc
nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng lại có ý thức xem thường, mặc
dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
12

Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi
vi phạm không biết và không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật,
mặc dù cần phải biết và nhận thức được điều đó, hoặc trường hợp một người thực
hiện hành vi trái pháp luật do vô tình hoặc thiếu thận trọng mà không thực hiện
những nghĩa vụ pháp lý bắt buộc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo đúng
nghĩa vụ đó.
Khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính, còn
có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lỗi của tổ chức. Có ý kiến cho rằng lỗi chỉ

là trạng thái tâm lý của cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi phạm nên không
đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi phạm hành
chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp luật hành
chính và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp
xử phạt vi phạm hành chính là đủ.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì tổ chức phải chịu trách nhiệm
về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời có trách nhiệm xác định lỗi của người
thuộc tổ chức của mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ được giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thường thiệt
hại theo quy định của pháp luật.
Mục đích, động cơ trong vi phạm hành chính không phải là dấu hiệu bắt
buộc phải có trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính. Mục đích của vi
phạm hành chính là cái “đích” trong ý thức của người vi phạm hành chính, được
đặt ra cho hành vi vi phạm đạt tới. Mục đích của vi phạm hành chính chỉ có ở
trong một số hành vi vi phạm hành chính nhất định, và những trường hợp này
đều có hình thức lỗi cố ý. Động cơ vi phạm hành chính được hiểu là động lực
bên trong thúc đẩy người vi phạm thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trừ
những vi phạm hành chính với lỗi cố ý, có động cơ, mục đích rõ rệt, còn phần
lớn các vi phạm hành chính có động cơ, mục đích không rõ nét. Trong các
trường hợp này, vi phạm hành chính chủ yếu do thiếu thận trọng, vô tình hay coi
nhẹ các nghĩa vụ pháp lý mà vi phạm ở mức độ nhỏ và trên thực tế thiệt hại


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
13

không đáng kể. Do vậy, động cơ, mục đích vi phạm hành chính không được coi

là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của phần lớn các vi phạm hành chính.
* Mặt khách thể
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp
luật hành chính bảo vệ và bị các vi phạm hành chính xâm hại. Vi phạm hành
chính là đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật hành
chính bảo vệ. Vì vậy, khách thể của vi phạm hành chính là trật tự quản lý nhà
nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như trật tự an toàn giao
thông, an ninh trật tự, an toàn xã hội, trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường… được pháp luật quy định và bảo vệ.
* Mặt chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có
năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Cá nhân là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm công dân Việt Nam và
người nước ngoài (trừ những người được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại
giao và lãnh sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt
Nam, vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải. Những người này phải có
năng lực trách nhiệm hành chính (tức là không mắc các bệnh tâm thần hoặc các
bệnh khác đến mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình) và đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật (từ đủ 16 tuổi trở
lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính, từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính đối với hành vi vi
phạm do cố ý).
Chủ thể vi phạm hành chính là tổ chức bao gồm: các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và
các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc tham gia có quy định khác.



Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
14

1.1.3. Đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
Ngoài những dấu hiệu chung giống như bât kỳ vi phạm hành chính nào, vi
phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng có một số nét đặc thù sau đây:
Thứ nhất, tính chất đa dạng, phức tạp của các vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng.
Xây dựng là ngành kinh tế - kỹ thuật có nội dung hoạt động khá đa dạng
và phong phú. Sản phẩm của ngành xây dựng khá đa dạng; chúng có thể là
phương tiện cho các hoạt động lao động sản xuất hay cung ứng dịch vụ, các công
trình công cộng hoặc nhà ở dân cư: như hệ thống các nhà xưởng trong sản xuất,
hệ thống đường xá giao thông, bệnh viện, trường học, nhà ở sinh hoạt dân cư.
Trên thực tế, một công trình xây dựng thường kéo dài, chi phí lớn về nguồn lực
kinh tế, đòi hỏi sự tham gia của nhiều người, tác động tới nhiều vấn đề xã hội,
nên có tính phức hợp. Chính vì vậy, các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực xây dựng hết sức đa dạng phức tạp được phân ra với nhiều đối tượng vi
phạm khác nhau.
Thứ hai, vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng gắn với những yếu
tố đặc thù kinh tế - kỹ thuật của ngành xây dựng. Về phương diện pháp luật,
những đặc thù cơ bản của lĩnh vực xây dựng được phản ánh tương đối toàn diện
và đầy đủ trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Xây dựng và các
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng. Những đặc thù của vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây
dựng cũng được phản ánh trong các văn bản pháp luật có liên quan như Nghị
định số 121/2013/NĐ-CP của Chính phủ (thay thế Nghị định 23/2009/NĐ-CP)
quy định xử phạt hành chính trong hoạt động xây dựng, kinh doanh bất động
sản, khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, quản lý công trình hạ tầng

kỹ thuật, quản lý phát triển nhà và công sở và Thông tư số 02/2014/TT-BXD
hướng dẫn thi hành Nghị định số 121/2013/NĐ-CP
Theo nhận định của các cơ quan chức năng, sai phạm phổ biến trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về xây dựng là ở khâu quy hoạch, khảo sát qua loa đại
khái hoặc thông đồng với cơ quan tư vấn để làm sai lệch số liệu ban đầu về khối


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
15

lượng, giá công trình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các sai
phạm tiếp theo. Việc lập thiết kế, dự toán, thẩm định dự toán không đúng với
đơn giá quy định là những tiền đề tạo điều kiện cho hàng loạt sai phạm xảy ra
trong đấu thầu, thi công dự án. Những hành vi khai khống khi giải phóng mặt
bằng, khai tăng số lượng, khối lượng; thi công sai thiết kế; bên A, bên B thông
đồng thay đổi chủng loại vật tư, xác nhận khối lượng phát sinh để rút tiền chia
nhau vẫn xảy ra trong thực hiện đầu tư
Thứ ba, những thiệt hại trong lĩnh vực xây dựng là rất lớn và ảnh hưởng
tới nhiều vấn đề xã hội khác nhau cả về kinh tế, môi trường, sức khỏe con người,
thẩm mỹ xã hội..Những thiệt hại có thể được đánh giá ngay cũng có thể là thời
gian về sau trong quá trình sử dụng. Để xác định được tính thiệt hại của nó
không phải là vấn đề đơn giản. Điều này cũng là một vấn đề khó khăn đối với
các nhà làm luật cũng như các cơ quan quản lý nhà nước. Do những nguyên
nhân gây ra hành vi vi phạm và hậu quả của nó có những mối quan hệ nhân quả
và chồng chéo nhau nên dối tượng chịu trách nhiệm thường tìm mọi cách trốn
tránh, dẫn tới hiệu quả xử phạt không cao, thiếu đi tính nghiêm minh của pháp
luật tạo ra kẽ hở để những đối tượng vi phạm còn có thêm hành vi “ lách luật”.
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng

1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Khi vi phạm hành chính xảy ra, Nhà nước cần tiến hành áp dụng các biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng vi phạm. Việc áp dụng
các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trước hết là nhằm mục đích răn đe,
trừng phạt người vi phạm. Việc xử phạt vi phạm hành chính, cũng nhằm giáo
dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, các quy tắc quản lý, trật tự quản lý
hành chính nói riêng và trật tự pháp luật nói chung, tôn trọng các quy tắc của đời
sống xã hội; ngăn chặn và phòng ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra, góp
phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
16

Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, vi phạm hành
chính là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. Luật Xử lý vi
phạm hành chính và các Nghị định của Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành
chính, hình thức, biện pháp xử phạt hành chính áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước cụ thể là những
cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền
theo quy quy định của pháp luật. Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản
có quy định về xử phạt vi phạm hành chính xác định cụ thể các chủ thể có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức độ xử phạt hành chính mà họ
được phép áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.

Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình
tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính do các cơ quan nhà nước nươc có thẩm quyền ban hành.
Kết quả của hoạt động xử phạt hành chính thể hiện ở các quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, trong đó ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp
đụng dối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Việc quyết định áp dụng biện
pháp xử phạt có thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của nhà nước đói với các tổ
chức, cá nhân vi phạm hành chính, qua đó giáo dục cho mọi người ý thức tuân
thủ pháp luật hành chính nói riêng và pháp luật nói chung.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu xử phạt vi phạm hành chính là hoạt
động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện
hành về xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt
hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần
thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính. Với cách hiểu tương tự, xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng là
việc người có thẩm quyền áp dụng các hình thức, biện pháp xử phạt và biện


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
17

pháp cưỡng chế hành chính khác đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng theo thủ tục do pháp luật quy định.
1.2.2. Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng mang đầy đủ những
đặc điểm chung của xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước khác nhau. Tuy nhiên với đặc thù của ngành xây dựng, xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực này cũng có một số điểm đáng lưu ý sau đây:

Thứ nhất, ngành xây dựng là một ngành sản xuất vật chất độc lập. Đặc
điểm của sản phẩm xây dựng có quy mô lớn kết cấu phức tạp, mỗi công trình
được xây dựng theo một thiết kế, kỹ thuật riêng, có giá trị dự toán riêng và tại
một địa điểm nhất định. Quá trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công
trình bàn giao và đưa vào sử dụng thường kéo dài, phụ thuộc quy mô và tính chất
phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Với những đặc trưng trên của ngành
xây dựng thì vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng chủ yếu là vi phạm về
các quy chuẩn kỹ thuật, cụ thể là:
Đối với chủ đầu tư: Chủ đầu tư công trình xây dựng thường vi phạm chủ
yếu ở các vấn đề sau: khảo sát xây dựng, lưu trữ, điều chỉnh quy hoạch xây
dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, thiết kế, dự toán xây dựng công
trình, quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; quy định về đầu tư phát triển đô
thị; quy định về khởi công xây dựng công trình; quy định về tổ chức thi công xây
dựng; quy định về giải phóng mặt bằng xây dựng công trình; quy định về giám
sát thi công xây dựng công trình quy định về quản lý chất lượng công trình xây
dựng quy định về bảo hành, bảo trì công trình xây dựng quy định về nghiệm thu,
thanh toán khối lượng hoàn thành và quyết toán công trình xây dựng đối với
công trình sử dụng vốn nhà nước quy định về đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây
dựng theo Luật xây dựng quy định về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
của nhà thầu tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
Đối với nhà thầu: nhà thầu thi công công trình xây dựng thường vi phạm
quy định về điều kiện hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng; vi


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
18

phạm nội dung hồ sơ dự thầu; vi phạm nội dung hồ sơ dự thầu quy định về khảo

sát xây dựng quy định về công tác lập quy hoạch xây dựng lập thiết kế, dự toán
xây dựng công trình quy định về thi công xây dựng an toàn trong thi công xây
dựng công trình quản lý chất lượng công trình xây dựng giám sát thi công xây
dựng công trình.
Đối với các tổ chức cá nhân: Các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng công
trình thường vi phạm quy định về ngừng cung cấp điện, cung cấp nước đối với
công trình vi phạm trật tự xây dựng; vi phạm quy định về thẩm tra, kiểm định,
thí nghiệm, đào tạo trong hoạt động xây dựng
Xuất phát từ đặc thù này, khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xây dựng, thông thường, người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện thủ tục
kiểm tra, giám định chất lượng công trình, đòi hỏi một hết việc phát hiện hành vi
vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và việc xử phạt thường được thực
hiện thông qua các đợt kiểm tra, thanh tra về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kỹ
thuật cao, không phải bất cứ một tổ chức nào cũng có thể thực hiện được, ở đây
phải là bộ phạn giám định chuyên ngành. Với yêu cầu nêu trên thì hầu vấn đề
xây dựng thông thường xuất phát qua đơn khiếu nại, tố cáo của cá nhân hay các
tổ chức.
Thứ hai, vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng rất phong phú, đa
dạng, với nhiều hình thức vi phạm và đối tượng vi phạm khác nhau. Không chỉ
đơn thuần là các thông số kỹ thuật trong hoạt động xây dựng, mà còn liên quan
đến vấn đề đất đai, vấn đề quy hoạch, vấn đề về môi trường, thẩm mỹ đô thị...
Chính vì vậy, việc xử phạt vi phạm hành chính và căn cứ xử phạt trong lĩnh vực
xây dựng được quy định cụ thể, có hệ thống trong nhiều văn bản luật khác nhau.
1. Luật Xử lý vi phạm hành chính, ban hành năm 2012.
2. Nghị định số 121/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh
bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công
trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở.



Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
19

3. Thông tư số 02/2014/TT-BXD ngày 12 tháng 02 năm 2014 của Bộ Xây
dựng hướng dẫn Nghị định số 121/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất,
kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát
triển nhà và công sở.
4. Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2009 của Chính
phủ về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
5. Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 02 năm 2005 của Chính
phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
6. Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2013 của Chính phủ
về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
7. Nghị định số 11/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2013 của Chính
phủ về quản lý đầu tư phát triển đô thị.
8. Nghị định số 188/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2013 của Chính
phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội.
Những văn bản pháp luật trên hướng dẫn các chủ thể tham gia hoạt động
xây dựng thực hiện đúng Luật Xây dựng, đồng thời là căn cứ để xác định hành vi
vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và là căn cứ để xử phạt hành vi vi
phạm của các cơ quan chức năng.
Thứ ba, do đặc thù của ngành xây dựng là một hoạt động kinh tế đặc thù,
sản phẩm thường đặc trưng bởi tính lâu bền, nguồn vốn đầu tư lớn, đồng thời
liên quan tới nhiều vấn đề xã hội như: vấn đề môi trường, sử dụng đất, lối sống,
xu hướng thẩm mỹ... đều có những mối tương tác nhất định. Chính vì vậy, hành
vi vi phạm trong lĩnh vực này thường để lại những hậu quả, ảnh hưởng tới nhiều
vấn đề xã hội có liên quan. Vì vậy, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực xây dựng phải đặc biệt lưu tâm đến việc áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
1.3. Yêu cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xây dựng


Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ

Trường Đại học Luật Hà Nội
20

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng là tổng
thể các quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành quy định về
vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Là
một bộ phận của pháp luật nói chung, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng có vai trò rất quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu
tranh có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng ở
nước ta, giữ vững ổn định, trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội
trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng là một yêu cầu khách
quan luôn được nhằm bảo đảm chất lượng, hiệu quả của việc điều chỉnh pháp
luật đối với các vấn đề phát sinh của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng. Một cách khái quát, pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng phải bảo đảm cả yêu cầu về tính hợp pháp lẫn yêu
cầu về tính hợp lý.
1.3.1. Yêu cầu bảo đảm tính hợp pháp
Các văn bản quy phạm pháp luật ra đời là để giải quyết, điều chỉnh các
quan hệ, hành vi pháp lý nảy sinh trong xã hội. Theo quy định của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật phải bảo đảm tính tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của

văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Tính hợp pháp của các
văn bản pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng được thể
hiện ở ba nội dung mang tính nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng của cấp dưới phải phù hợp văn bản của cấp trên, văn
bản của cơ quan có thẩm quyền chuyên môn phải phù hợp với văn bản của cơ
quan có thẩm quyền chung, văn bản của cơ quan hành chính phải phù hợp với
văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp và văn bản của các cơ quan ở
cùng cấp ban hành không được trùng lắp, chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng phải được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền. Nếu


×