Tải bản đầy đủ (.pdf) (0 trang)

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.28 KB, 0 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DƢƠNG THỊ HỒNG LĨNH

BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI KIÊN ĐIỆN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong
công trình khoa học khác.

Tác giả

Dƣơng Thị Hồng Lĩnh



LỜI CẢM ƠN
Tác giả chân thành cảm ơn sự quan tâm hướng dẫn nhiệt tình của
người hướng dẫn khoa học, của các giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội,
sự tạo điều kiện học tập nghiên cứu của ngành Kiểm sát nhân dân cũng như
sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn
này.

Tác giả

Dƣơng Thị Hồng Lĩnh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM ....................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam ................... 6
1.2. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong
Tố tụng hình sự.............................................................................................. 9
1.3. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp ngăn
chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam ............................................................ 11
1.3.1. Quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về biện pháp bắt bị can, bị
cáo trước khi có BLTTHS ........................................................................ 11
1.3.2. Quy định của BLTTHS 1988 về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị
cáo để tạm giam....................................................................................... 13
1.3.3 Quy định của BLTTHS 2003 về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị
cáo để tạm giam....................................................................................... 17
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 30

CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM .................................................................................................... 31
2.1. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam
trong tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................... 31
2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt bị can, bị cáo để tạm giam ................................................................ 33
2.1.2. Những hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam ..................................... 38


2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam ........ 41
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp
bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam ................ 50
2.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Tố tụng hình sự..... 51
2.2.2. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của
đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng ............................................................. 59
2.2.3. Đổi mới công tác tổ chức, chỉ đạo điều hành ............................... 62
2.2.4. Một số giải pháp khác ................................................................... 63
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS


: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dấn tối cao
THTT

: Tiến hành tố tụng

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay,
nhằm đảm bảo cho quá trình tiến hành tố tụng cũng như giải quyết vụ án được
nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo công bằng trong xã hội thì việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn bắt người đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm,
bị can, bị cáo giữ một vai trò rất quan trọng. Nó góp phần đảm bảo cho hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án được tiến hành thuận lợi; hạn chế tình trạng trốn tránh
pháp luật cũng như cản trở hoạt động điều tra của người bị tình nghi, bị can,
bị cáo. Một trong những biện pháp ngăn chặn bắt người có tính cưỡng chế
nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự là bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Vì
vậy, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này cần được hết sức quan tâm vì chỉ
cần một sơ suất nhỏ có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, xâm phạm
trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.
Hiện nay, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người nói chung, bắt
bị can, bị cáo để tạm giam trong tố tụng hình sự nói riêng đã đạt được những
kết quả nhất định. Tình trạng bắt người tràn lan, bắt sai đối tượng, bắt không
đúng thẩm quyền đã giảm đáng kể, đáp ứng phần nào Chỉ thị của Bộ Chính trị
về công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng
biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam hiện nay có thể thấy, quy
định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn này còn nhiều hạn chế, thiếu sót,
việc hiểu và áp dụng đúng quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn bắt
bị can, bị cáo để tạm giam chưa thật sự thống nhất dẫn đến tình trạng bắt
nhầm đối tượng, bắt bị can, bị cáo để tạm giam sau đó trả tự do vì không

phạm tội…Những tồn tại, thiếu sót đó là nguyên nhân làm giảm chất lượng


2

hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Xuất phát từ thực tế nói trên, nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn bắt người nói
chung, bắt bị can, bị cáo để tạm giam nói riêng, đồng thời thực hiện tốt nhiệm
vụ đấu tranh phòng chống tội phạm mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra thì việc
nghiên cứu một cách toàn diện biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm
giam về mặt lý luận cũng như thực tiễn là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn
nhằm đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, góp phần giải quyết nhanh
chóng, kịp thời các vụ án hình sự. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Bắt bị can,
bị cáo để tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam” để nghiên cứu làm
luận văn Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bắt người là một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, xâm phạm trực
tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân. Vì thế, biện pháp ngăn chặn này
đã được nhiều sách báo, công trình nghiên cứu đề cập tới như: Luận văn thạc
sỹ: “Bắt người trong Tố tụng hình sự Việt Nam” (2000) của tác giả Vũ Gia
Lâm; Luận án tiến sỹ: “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
trong Tố tụng hình sự Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”
(2005) của tác giả Nguyễn Văn Điệp; Luận văn thạc sỹ: “Biện pháp ngăn
chặn bắt người và thực tiễn áp dụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng” (2010) của tác giả Nguyễn Hồng
Ly…Ngoài ra còn nhiều bài viết khác về biện pháp ngăn chặn bắt người được
đăng trên các tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát,

Khoa học Pháp lý như: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về những
biện pháp ngăn chặn” của tác giả Mai Bộ (2007); “Hoàn thiện một số quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp


3

ngăn chặn” của tác giả Vũ Gia Lâm (2012); “Những vướng mắc trong việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS và kiến nghị
sửa đổi bổ sung” của tác giả Phùng Văn Tài (2012)….
Có thể thấy, những vấn đề chung về biện pháp ngăn chặn bắt người
cũng như một số trường hợp bắt người cụ thể đã được nhiều tác giả nghiên
cứu, đề cập đến. Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn
áp dụng chỉ riêng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam, để tìm ra những hạn chế, thiếu sót trong việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn này thì chưa có một công trình nào đề cập đến. Vì vậy,
tác giả lựa chọn việc đi sâu nghiên cứu biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo
để tạm giam – một trường hợp bắt người cụ thể, với mong muốn nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện hơn về biện pháp ngăn chặn này làm cơ sở cho
việc đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng áp dụng
biện pháp ngăn chặn quan trọng đó của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng biện
pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố tụng hình sự, luận văn
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện
pháp ngăn chặn này trong thực tiễn.
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Phân tích bản chất, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị
cáo để tạm giam.

- Phân tích quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn bắt bị can,
bị cáo để tạm giam trước và sau khi có Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật, đưa
ra nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện


4

pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong những năm gần đây (Từ
năm 2009 đến năm 2013).
- Đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và những
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị
cáo để tạm giam; Thực trạng áp dụng những quy định này trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề chung và các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để
tạm giam; Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm
giam trên địa bàn cả nước trong những năm gần đây (Từ năm 2009 đến năm
2013).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mac-Lênin về Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm
của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Luận văn
hoàn thành dựa trên các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp
phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê các số liệu tổng kết của các cơ quan
tiến hành tố tụng; tham khảo các bài viết trên các sách, tạp chí, các công trình
nghiên cứu khác.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu sâu những vấn đề chung liên quan đến biện
pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, luận văn sẽ xây dựng khái
niệm khoa học về biện pháp ngăn chặn này, chỉ ra những ý nghĩa quan trọng
của biện pháp ngăn chặn đó đối với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp ngăn
chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam những năm qua, luận văn chỉ ra được


5

những kết quả và nhất là những bất cập, tồn tại trong thực tiễn áp dụng biện
pháp ngăn chặn này từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị phù hợp. Các giải
pháp, kiến nghị đó có thể được tham khảo trong quá trình lập pháp tố tụng
hình sự cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để
tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm hai chương:
Chƣơng I: Một số vấn đề chung về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị
cáo để tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chƣơng II: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam.


6

CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT BỊ CAN,
BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế
nghiêm khắc trong Tố tụng hình sự Việt Nam. Thời gian qua, việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn này đã góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn tội
phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật và gây khó khăn cho
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên đây là biện pháp ngăn chặn tác
động trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người bị bắt, hạn
chế trong chừng mực nhất định sự tự do thân thể của người bị bắt. Vì vậy,
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đòi hỏi cần tuân thủ chặt chẽ quy
định của pháp luật, nhằm tránh gây ra những hậu quả xấu trong việc bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự, đồng thời tránh ảnh hưởng đến hiệu
lực pháp luật, làm giảm uy tín của nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Cho nên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt
người, trong đó có việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam, vừa đảm bảo tính hợp
pháp, tránh tình trạng lạm quyền, oan sai nhưng không gây khó khăn, cản trở
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án của các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Trước hết, để đạt được mục đích này cần làm rõ khái niệm biện pháp
ngăn chặn bắt người trong tố tụng hình sự.
Trong lịch sử lập pháp Tố tụng hình sự Việt Nam, lần đầu tiên biện
pháp ngăn chặn bắt người được đề cập trong Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946
của Nhà nước ta về quyền tự do cá nhân. Sắc lệnh đã đề cập về trình tự, thủ
tục áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người nhưng chưa đưa ra quy phạm định
nghĩa về khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt người.


7

Trong Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do
thân thể và bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, đã

quy định bắt người tại chương II- Bắt người phạm pháp.
Đến Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988 cũng như BLTTHS
2003 đã quy định rất cụ thể về các trường hợp bắt người trong tố tụng hình sự
nhưng cũng chưa đưa ra được định nghĩa pháp lý của khái niệm biện pháp
ngăn chặn bắt người.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm biện pháp ngăn
chặn bắt người nhưng còn chưa thật sự đầy đủ, chưa bao hàm được hết mục
đích, phạm vi đối tượng cũng như thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
này. Theo quan điểm của tác giả, biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố tụng
hình sự được hiểu một cách đầy đủ là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự, do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc người có thẩm
quyền quyết định áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị
khởi tố về hình sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định,
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh
pháp luật, tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người cần được tiến hành kịp thời, theo
đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên cần tránh tình trạng áp dụng biện
pháp ngăn chặn bắt người tràn lan, sai đối tượng, làm ảnh hưởng đền quyền
và lợi ích chính đáng của công dân nhất là các biện pháp ngăn chặn liên quan
đến vấn đề tạm giam như biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 ra đời là sự kế thừa có chọn lọc những quy định của
các văn bản luật trước đây, nhất là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 với 03
lần sửa đổi, bổ sung. Cùng với việc hoàn thiện các chế định pháp lý nhằm
nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các quy định về bắt


8


người, trong đó có trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, cũng không
ngừng được hoàn thiện.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại điều 80 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003. Mặc dù điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
quy định tương đối đầy đủ về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm
giam nhưng chưa đưa ra được khái niệm về biện pháp ngăn chặn này.
Theo giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học
Luật Hà Nội thì: “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về
hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm
ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [29; tr.206]. Tuy
nhiên khái niệm này chưa chỉ ra được đầy đủ căn cứ áp dụng cũng như thẩm
quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Có tác giả lại đưa ra quan điểm khác: “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền của Cơ
quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể
đối với người bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra
xét xử nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
hoặc thi hành án” [26; tr.79]. Khái niệm này tuy khá đầy đủ nhưng vẫn chưa
đưa ra được căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Theo tác giả khác thì: “Bắt bị can,bị cáo để tạm giam là trường hợp
bắt được áp dụng với người đã bị khởi tố về hình sự (bị can) hoặc người đã bị
tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử (bị cáo) để tạm giam nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiến hành tố tụng” [16]. Khái niệm này cũng chưa đưa
ra được cụ thể căn cứ, thẩm quyền cũng như mục đích cụ thể của biện pháp
ngăn chặn này.


9


Để đưa ra một khái niệm đầy đủ về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị
cáo để tạm giam cần đưa ra được cụ thể đối tượng, căn cứ, thẩm quyền, mục
đích áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Theo quan điểm của tác giả thì bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền của Cơ
quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với người đã bị khởi tố về
hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử khi có những căn
cứ do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự”.
Tác giả cho rằng khái niệm này là hợp lý hơn cả vì nó đã chỉ ra được
đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn này là bị can, bị cáo tức là những
người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử. Căn cứ áp dụng là những căn cứ do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Việc áp dụng biện pháp bắt người này được thực hiện bởi những người có
thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Đồng thời, khái
niệm cũng khái quát được mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Việc
đưa ra một khái niệm đầy đủ về biện pháp ngăn chặn bắt người này tạo điều
kiện thuận lợi cho các Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, bắt
đúng người, đúng tội, tránh oan sai, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm
về thân thể và quyền tự do của công dân. Đồng thời góp phần giải quyết kịp
thời, nhanh chóng vụ án hình sự, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
1.2. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm
giam trong Tố tụng hình sự
Xuất phát từ mục đích chung của biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng
hình sự là nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm; ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ
gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; cũng như
ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, có thể thấy được ý nghĩa quan



10

trọng của biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong Tố tụng
hình sự, cụ thể:
Thứ nhất, bắt bị can, bị cáo để tạm giam góp phần quan trọng vào
công tác đấu tranh chống tội phạm.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì thế,
đây được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta, đòi hỏi phải
được tiến hành kiên quyết, triệt để, đấu tranh không khoan nhượng, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn đầu của quá trình
tố tụng, để góp phần tìm ra sự thật của vụ án, việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn nghiêm khắc như bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố tụng hình sự
không những nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm, mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để Cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng thay mặt Nhà nước áp dụng nhằm đạt được mục đích
cuối cùng của tố tụng hình sự [17; tr.9].
Thứ hai, bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho việc ngăn
ngừa tội phạm.
Ngăn ngừa tội phạm là ngăn không cho tội phạm đang được chuẩn bị
xảy ra hoặc không cho tội phạm đang được thực hiện được tiếp tục. Khi thực
hiện tội phạm, người phạm tội luôn mong muốn thực hiện tội phạm tới cùng,
bất chấp hậu quả xảy ra. Vì thế, khi có căn cứ cho rằng một người đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm hay đang thực hiện một tội phạm xâm hại đáng kể đến
các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thì việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn bắt người nói chung và biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để
tạm giam nói riêng là vô cùng cần thiết, góp phần ngăn ngừa tội phạm tiếp tục
xẩy ra đồng thời góp phần làm giảm bớt hậu quả do tội phạm gây ra.
Thứ ba, bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.



11

Để góp phần tìm ra sự thật của vụ án cũng như xử lý kịp thời mọi
hành vi phạm tội, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt là rất cần thiết. Các
biện pháp ngăn chặn được áp dụng nhằm đảm bảo các điều kiện pháp lý cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo đúng các quy định của
pháp luật; bảo đảm cho sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng
khi cần thiết; bảo đảm để bản án đã tuyên có điều kiện thi hành khi có hiệu
lực pháp luật cũng như đảm bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động tố
tụng đó [8; tr.16].
Khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến
hành tố tụng không chỉ dựa vào các biện pháp nghiệp vụ của mình mà còn cần
có sự hợp tác từ phía bị can, bị cáo nhằm góp phần phát hiện kịp thời, nhanh
chóng tìm ra sự thật vụ án, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì thế
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, bắt bị can, bị cáo để tạm giam
nói riêng không chỉ tạo điều kiện cho việc nhanh chóng xác định sự thật của
vụ án mà còn góp phần hạn chế việc bị can, bị cáo có ý định bỏ trốn, che giấu,
tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc xử lý vụ án.
1.3. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1.3.1. Quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về biện pháp bắt bị
can, bị cáo trước khi có BLTTHS
Trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam, các quy định chung
đầu tiên về bắt người được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946. Điều 11 Hiến
pháp quy định: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm
người công dân Việt Nam”. Đây chính là cơ sở pháp lý cho việc ban hành các
quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam, nhằm đảm bảo quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân.

Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 của Nhà nước ta về bảo đảm quyền tự
do cá nhân đã đề cập về trình tự, thủ tục áp dụng hai biện pháp ngăn chặn là:


12

Bắt người, giam người. Tiếp đó tại Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 về tổ
chức bộ máy tư pháp Công an và Sắc lệnh số 85/SL ngày 07/11/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng có quy định cụ thể hơn về bắt người “Tư
pháp công an có nhiệm vụ bắt người phạm pháp và giao cho các Tòa án xét
xử”. Tại phần VI Sắc lệnh số 131/SL còn quy định: “…để đảm bảo quyền tự
do thân thể của người dân, nghiêm cấm việc bắt giam trái pháp luật…”. Trong
Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, đã đề
cập ba biện pháp ngăn chặn là: Bắt người, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp
cưỡng chế trong tố tụng hình sự như khám người, khám đồ vật, khám nhà ở
và thư tín. Đây có thể coi là văn bản pháp luật Tố tụng hình sự đầu tiên quy
định một cách có hệ thống và tương đối đầy đủ về các biện pháp cưỡng chế
trong Tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có bắt người. Tại điều 3 Luật này quy
định: “Bắt người phạm đến pháp luật phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp
cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên nếu là thường dân phạm pháp hoặc Viện kiểm
sát quân sự, Tòa án quân sự nếu là quân nhân phạm pháp”. Luật 103 còn quy
định về người có thẩm quyền ra lệnh bắt người như: Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực
thuộc Trung ương trở lên. Riêng đối với các tỉnh phía Nam VKSND từ cấp
huyện trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội; Chánh án, Phó
Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) có quyền ra lệnh bắt giam
người phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý; Trưởng và phó cơ
quan Công an nhân dân từ cấp tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người
phạm tội, lệnh phải được sự phê chuẩn chính xác của Viện kiểm sát.

Ngoài ra còn một số văn bản khác cũng quy định về biện pháp ngăn
chặn bắt người trong tố tụng hình sự như: Nghị định số 301 – TTg ngày
10/7/1957 quy định chi tiết thi hành Luật số 103 ngày 20/5/1957 và Sắc luật
số 002 ngày 18/6/1957 xác định cụ thể thẩm quyền ký lệnh bắt người trong


13

các trường hợp bình thường và bắt giữ hoặc ra lệnh bắt giữ người trong
trường hợp khẩn cấp; Sắc lệnh số 02-SL/76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng
Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định việc
bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật cũng đã đưa ra được các
quy định về vấn đề bắt người trong Tố tụng hình sự.
Tuy rằng các văn bản tố tụng trên đây chỉ mới quy định chung chung
về biện pháp ngăn chặn bắt người chứ chưa quy định cụ thể, chi tiết về từng
trường hợp bắt người, nhưng đã phần nào cho thấy pháp luật nước ta thời kỳ
này cũng đã quan tâm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.
Tuy nhiên, đời sống xã hội ngày càng thay đổi và phát triển, vì thế
những quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp
ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam không còn phù hợp với thực tế nữa.
Vì thế ngày 25/8/1988 Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989 để điều chỉnh các quan hệ xã
hội mới phát sinh, cho phù hợp với thực tiễn xã hội thời kỳ đó.
1.3.2. Quy định của BLTTHS 1988 về biện pháp ngăn chặn bắt bị
can, bị cáo để tạm giam
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, qua ba lần sửa đổi bổ sung
(Năm 1990, năm 1992, năm 2000), lần đầu tiên trong tố tụng hình sự, các
trường hợp bắt người được quy định một cách cụ thể tại một chương riêng và
một số điều khác trong Bộ luật. Tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã quy
định khá cụ thể các trường hợp bắt, bao gồm: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;

bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã.
Bên cạnh việc quy định các trường hợp bắt người, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 đã quy định tương đối cụ thể về căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn nói chung; quy định về thẩm quyền, đối tượng và thủ tục áp dụng
trong từng trường hợp bắt. Có thể thấy rằng, sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự


14

năm 1988 ra đời, các quy phạm pháp luật về việc bắt đã được pháp điển hóa
thành những quy định trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao,
những quy định này đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong cuộc
đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động điều tra, giải quyết vụ án một cách nhanh chóng trong thời gian
vừa qua.
Về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988 đã quy định cụ thể tại điều 62 của Bộ luật này. Nếu
như trong các văn bản pháp luật trước đây, biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị
cáo để tạm giam tương ứng với quy định về trường hợp bắt người bình
thường thì nay tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã được quy định một
cách cụ thể và rõ ràng hơn về đối tượng, mục đích, thẩm quyền và thủ tục áp
dụng biện pháp ngăn chặn này.
Đầu tiên, về đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo
để tạm giam, ngay tại tên điều luật đã thể hiện rõ là bị can, bị cáo tức là người
đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án mà họ
bị khởi tố ra xét xử để tạm giam. Việc quy định cụ thể và rõ ràng đối tượng có
thể bị bắt để tạm giam, góp phần áp dụng biện pháp ngăn chặn này chính xác,
đúng đắn, tránh tình trạng lạm dụng, áp dụng tùy tiện dẫn đến việc xâm phạm
một cách trái pháp luật đến quyền tự do thân thể, quyền tự do đi lại của công

dân. Về mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn này đã được thể hiện quá rõ
ràng bởi tên gọi của nó là “bắt bị can, bị cáo để tạm giam”. Vì thế chỉ những
đối tượng nào có đủ điều kiện thì mới có thể bị bắt để tạm giam.
Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự không đề cập đến căn cứ cụ thể để
bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Do đó, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt
người này thường dựa vào các căn cứ được quy định tại Điều 61 (căn cứ
chung để áp dụng biện pháp ngăn chặn) và xem xét các điều kiện về tạm giam
quy định tại điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự.


15

Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định khá cụ thể về thẩm
quyền ra lệnh bắt, trình tự, thủ tục tiến hành bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam gồm những người sau:
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm
sát quân sự các cấp.
- Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân
khu trở lên chủ tọa phiên tòa;
- Trưởng Công an, Phó thủ trưởng công an cấp huỵện, Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên. Trong
trường hợp này lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành.
Việc quy định thẩm quyền bắt như trên là hoàn toàn phù hợp, đảm bảo
được sự độc lập và chủ động cho các cơ quan này trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của mình ở các giai đoạn tố tụng nhất định, góp phần giải quyết
nhanh chóng, kịp thời vụ án hình sự.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng việc quy định về thẩm quyền bắt bị can, bị
cáo để tạm giam còn một số điểm chưa hợp lý. Khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố

tụng hình sự quy định: “Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân
sự cấp quân khu trở lên chủ tọa phiên tòa” có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo
để tạm giam; Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định những người có
quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Khoản 1 điều
62 là người có quyền ra lệnh tạm giam. Như vậy, Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên được phân công làm chủ tọa
phiên tòa vừa có quyền ra lệnh bắt, vừa có quyền ra lệnh tạm giam. Nhưng tại
Điều 152 Bộ luật Tố tụng hình sự lại quy định thẩm quyền ra lệnh tạm giam
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chỉ thuộc về Chánh án và Phó Chánh án Tòa
án, do vậy trong thực tế các quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo


16

để tạm giam, quyền ra lệnh tạm giam của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu chủ tọa phiên tòa chỉ có tính hình thức.
Ngoài ra, tại điểm d Khoản 1 Điều 62 quy định thẩm quyền ra lệnh bắt bị can
để tạm giam cho Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện (huyện,
quận, thị xã thuộc tỉnh), quy định như vậy là chưa cụ thể, bởi lẽ xét về tổ chức
thì trong cơ quan Công an cấp huyện thông thường có một Trưởng Công an
và nhiều Phó trưởng Công an phụ trách các vấn đề chuyên môn khác nhau,
đội điều tra thuộc công an huyện chỉ là một bộ phận của cơ quan này, do đó
thẩm quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam chỉ thuộc về đội trưởng, đội phó
điều tra của Công an cấp huyện mà người đó có thể là Trưởng công an huyện
và một phó trưởng Công an phụ trách điều tra chứ không phải là tất cả. Quy
định chung chung như vậy làm cho điều luật thiếu chính xác, không chặt chẽ
dẫn đến tình trạng tất cả những người có chức danh nêu trên của Công an cấp
huyện đều có quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và trên thực tế đã có nhiều
người với chức danh này ký nhiều lệnh bắt, tạm giam oan sai người không đủ
điều kiện như pháp luật quy định [15; tr.49-50].

Về trình tự, thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Bộ luật Tố tụng
hình sự cũng đã quy định khá cụ thể. Trước hết, muốn bắt bị can, bị cáo để
tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền, lệnh này phải ghi rõ thời
gian, địa điểm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị
bắt, lý do bắt; lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và dấu của cơ quan.
Đối với lệnh bắt của những người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra (quy
định tại điểm d, Khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự), phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Việc quy định như vậy nhằm
đảm bảo hiệu lực thực tế của lệnh bắt người, vừa đảm bảo tính chính xác của
việc bắt, tránh tình trạng bắt người tràn lan, oan sai, xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền tự do thân thể của công dân.


17

Ngoài ra, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không mang tính chất
cấp bách như các trường hợp bắt người khác nên Khoản 3 Điều 62 Bộ luật Tố
tụng hình sự đã quy định về thời điểm tiến hành lệnh bắt: “Không được bắt
người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang quy
định tại điều 63 và 64 của Bộ luật này”.
Có thể thấy rằng, sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời,
các quy phạm pháp luật về biện pháp ngăn chặn bắt người nói chung, bắt bị
can, bị cáo để tạm giam nói riêng đã được quy định cụ thể thành những điều
luật riêng trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, góp phần không
nhỏ trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, xử lý tội phạm. Tuy nhiên, Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời với ba lần sửa đổi, bổ sung, qua 15 năm áp
dụng trong thực tiễn đã bộc lộ không ít những vướng mắc bất cập về biện
pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam nói
riêng, đòi hỏi cần nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh

phòng chống tội phạm hiện nay.
1.3.3 Quy định của BLTTHS 2003 về biện pháp ngăn chặn bắt bị
can, bị cáo để tạm giam
Từ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung cũng như
biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam nói riêng, Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 đã ra đời, quy định chặt chẽ hơn việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn. Đồng thời đã có những sửa đổi, bổ sung cần thiết một số vấn đề cơ
bản trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Đối tƣợng áp dụng:
Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định về trường hợp bắt bị
can, bị cáo để tạm giam. Ngay tên gọi của biện pháp ngăn chặn này đã chỉ rõ
đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo – những người đã bị khởi tố về hình sự


18

hoặc đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những người chưa bị khởi
tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không
phải là đối tượng áp dụng biện pháp này.
Điều kiện áp dụng:
Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự đã chỉ rõ bị can, bị cáo là đối tượng
áp dụng biện pháp ngăn chặn này nhưng lại không quy định cụ thể những
trường hợp nào thì bị can, bị cáo có thể bị bắt để tạm giam? Tuy nhiên, mục
đích cuối cùng của biện pháp bắt người này là để tạm giam. Vì thế, khi muốn
xem xét các điều kiện để áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
cần dựa vào quy định tại Khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Các trường hợp bị tạm giam theo quy định tại Khoản 1 Điều 88 Bộ
luật Tố tụng hình sự đó là:
Thứ nhất, đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm

tội rất nghiêm trọng.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười
lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Xuất phát từ tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, xâm phạm nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ, có thể thấy rằng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng là cần
thiết cho quá trình giải quyết vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử nhằm tìm ra sự thật của vụ án một cách nhanh chóng, kịp
thời.
Thứ hai, đối với bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn
cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử


19

hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để có thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong
trường hợp này cần có hai điều kiện:
+ Điều kiện thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng nhưng có hình phạt tù trên 2 năm. Điều này có nghĩa không áp dụng
biện pháp bắt tạm giam đối với các bị can, bị cáo mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt từ hai năm tù trở xuống, như các tội: Tội giết con mới đẻ (Điều 94
Bộ luật Hình sự); Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
(Điều 96 Bộ luật Hình sự); Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng (Khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự);….[34; tr.104]
+ Điều kiện thứ hai: Có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định bị

can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội thường căn cứ vào yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử và sự
cần thiết của việc ngăn chặn tội phạm, thái độ của bị can, bị cáo khi được áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam [34; tr.104].
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì
không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp
sau: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã hoặc được áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở đến việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc
gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không áp dụng biện pháp tạm giam đối với
họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Căn cứ áp dụng:
Khi quy định về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam
điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự không đề cập đến điều kiện bắt bị can, bị cáo
để tạm giam cũng như căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Vì thế,
việc áp dụng biện pháp bắt người này thường được thực hiện dựa theo các căn


×