Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Hoàn thiện pháp luật việt nam về kiểm soát tập trung kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.55 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ VŨ QUỲNH TRANG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Thị Vân Anh

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ủng hộ,
khuyến khích em trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo và các cán bộ
đang giảng dạy, công tác tại Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để
em cũng như các học viên khác học tập, nghiên cứu.
Em xin dành lời cảm ơn đặc biệt đến Giáo viên hướng dẫn là TS. Nguyễn
Thị Vân Anh đã hướng dẫn tận tình và cho em những lời khuyên chân thành giúp
em bổ sung kiến thức và hoàn thành Luận văn này.
Trong quá trình thực hiện Luận văn, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu


sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo
và các bạn quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả

Lê Vũ Quỳnh Trang


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ ...................................................................5
1.1.

Khái quát hoạt động tập trung kinh tế ..............................................................5

1.1.1. Khái niệm tập trung kinh tế..............................................................................5
1.1.2. Các hình thức tiến hành tập trung kinh tế ........................................................7
1.1.3. Sự cần thiết phải kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế ..................................9
1.2.

Khái quát pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế....................................... 10

1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ..................................... 10
1.2.2. Mục tiêu của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ................................. 11
1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ..................... 12
1.2.3.1.

Xác định thị trường liên quan .................................................................. 12


1.2.3.2.

Xác định dạng giao dịch tập trung kinh tế............................................... 13

1.2.3.3.

Các tiêu chí đánh giá vụ việc tập trung kinh tế ....................................... 15

1.2.3.4.

Các biện pháp xử lý vi phạm và khôi phục cạnh tranh ........................... 18

1.2.4. Cơ quan kiểm soát tập trung kinh tế ............................................................. 20
1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế và các
tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về kiểm soát tập trung
kinh tế ............................................................................................................ 22

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ............ 22
1.3.1.1.

Tình hình kinh tế - xã hội ........................................................................ 23

1.3.1.2.

Cơ chế quản lý kinh tế ............................................................................. 23

1.3.1.3.


Sự tác động của chính sách cạnh tranh và chính sách công nghiệp ........ 24

1.3.1.4.

Ý thức pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ chức thực
hiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế .......................................... 25

1.3.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tập trung
kinh tế ............................................................................................................ 26


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT
TẬP TRUNG KINH TẾ ........................................................................................ 29
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
ở Việt Nam ............................................................................................................... 29
2.2.

Quy định của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam ............. 31

2.2.1. Các hình thức tập trung kinh tế ..................................................................... 31
2.2.2. Ngưỡng thông báo và thủ tục thông báo tập trung kinh tế............................ 34
2.2.3. Các trường hợp miễn trừ và thủ tục thực hiện miễn trừ................................ 36
2.2.4. Quy định về xử lý vi phạm ............................................................................ 37
2.2.5. Cơ quan kiểm soát tập trung kinh tế ............................................................. 38
2.3. Thành tựu của pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
ở Việt Nam ............................................................................................................... 40
2.3.1. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật
xây dựng pháp luật ................................................................................................... 40
2.3.2. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế đã đáp ứng yêu cầu cơ bản về tính

minh bạch ................................................................................................................. 41
2.3.3. Cơ quan quản lý cạnh tranh đã tích cực thực thi các quy định về kiểm soát
tập trung kinh tế ....................................................................................................... 42
2.4. Hạn chế của pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở
Việt Nam .................................................................................................................. 44
2.4.1. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế chưa đảm bảo tính thống nhất ...... 44
2.4.2. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế chưa đảm bảo tính toàn diện......... 46
2.4.3. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế chưa đảm bảo tính khả thi ............ 47
2.4.4. Sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát tập trung kinh tế chưa chặt chẽ .... 51
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM. .. 53
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam .... 53


3.1.1. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế phải đáp ứng yêu cầu phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đảm bảo công bằng cho mọi
chủ thể kinh doanh ................................................................................................... 54
3.1.2. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế phải gắn liền với quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế trong đó có tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ...................................... 55
3.1.3. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế đảm bảo cân đối giữa chính sách
cạnh tranh và chính sách đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nâng cao năng lực cạnh
tranh trong hội nhập. ................................................................................................ 57
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam .. 58
3.2.1. Mở rộng các hình thức giao dịch tập trung kinh tế được điều chỉnh ............ 58
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về ngưỡng thông báo tập trung kinh tế và cơ chế
thẩm tra hồ sơ thông báo tập trung kinh tế............................................................... 59
3.2.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về đánh giá vụ việc tập trung kinh tế ................. 61
3.2.4. Sửa đổi, bổ sung quy định về cơ chế xem xét hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ
tập trung kinh tế và cơ chế giám sát việc thực hiện miễn trừ .................................. 62
3.2.5. Sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát tập trung

kinh tế ....................................................................................................................... 62
3.2.6. Sửa đổi, bổ sung quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật Cạnh tranh .................. 63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
ở Việt Nam ............................................................................................................... 64
3.3.1. Thường xuyên rà soát quy định pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế .... 64
3.3.2. Xây dựng cơ chế phối hợp trong hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế giữa
các cơ quan có thẩm quyền liên quan ...................................................................... 65
3.3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức làm việc tại các cơ quan
kiểm soát tập trung kinh tế ....................................................................................... 66
3.3.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ................................ 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 69


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Ý nghĩa

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

KTTT

Kinh tế thị trường

Nghị định
116/2005/NĐ-CP


Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Cạnh tranh

Nghị định
120/2005/NĐ-CP

Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực cạnh tranh

Nghị định
119/2011/NĐ-CP

Nghị định số 119/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày
16/12/2011 sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Cạnh tranh

QLCT

Quản lý cạnh tranh

QPPL

Quy phạm pháp luật

TTKT


Tập trung kinh tế

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Khả năng kết luận về sức mạnh thị trường theo tiêu chí thị phần tại EU và
Hoa Kỳ ......................................................................................................................15
Hình 2.1. Số hồ sơ thông báo tập trung kinh tế được Cục Quản lý cạnh tranh tiếp
nhận ...........................................................................................................................43
Hình 2.2. Số lượng và giá trị tập trung kinh tế tại Việt Nam từ năm 2003 đến Quý 1
năm 2012 ...................................................................................................................48


1

Luận văn cao học

Luật Kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam dù phải trải qua cuộc khủng

hoảng kinh tế toàn cầu nhưng nhìn chung vẫn duy trì được sự phát triển ổn định và
thực sự trở thành một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Một
trong những kênh đầu tư vừa hiệu quả vừa giúp các doanh nghiệp giảm chi phí gia

nhập thị trường là thông qua các hoạt động tập trung kinh tế (TTKT) như mua lại
doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp, liên doanh… Hoạt động TTKT ở Việt Nam
mới được khởi động từ năm 2000 nhưng đã trở thành một làn sóng mạnh mẽ chưa
từng thấy. Theo Báo cáo của Công ty kiểm toán Pricewaterhouse Coopers (PwC),
các vụ TTKT tại Việt Nam trong năm 2007 tăng nhanh nhất ở khu vực Châu ÁThái Bình Dương với hơn 113 vụ sáp nhập với tổng giá trị đạt 1.753 tỷ USD. Đến
năm 2010, số vụ TTKT đã lên tới 245 vụ việc [7, tr.132 ]. Rõ ràng, TTKT là phương
cách tiết kiệm mà hiểu quả để liên kết tận dụng giá trị cộng hưởng từ thương hiệu,
tài chính, thị trường giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, sức hấp dẫn từ lợi nhuận mà
hoạt động TTKT đem đến cũng thôi thúc tham vọng bành trướng của các doanh
nghiệp thông qua việc thực hiện một số hành vi TTKT nhằm thôn tính hoặc gây ảnh
hưởng đến doanh nghiệp khác, dẫn tới hình thành thế độc quyền lũng đoạn thị
trường và có thể tác động xấu đến môi trường cạnh tranh. Trong khi đó, khung pháp
lý điều tiết hoạt động TTKT ở Việt Nam còn nhiều hạn chế về tính thống nhất, tính
toàn vẹn, tính khả thi và cả những bất cập trong công tác thực thi pháp luật các cơ
quan có thẩm quyền. Những hạn chế này chính là một trở ngại lớn cho các doanh
nghiệp tham gia TTKT, đồng thời làm giảm hiệu quả thực thi pháp luật của các cơ
quan có thẩm quyền kiểm soát TTKT. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
TTKT đã trở thành một nhiệm vụ cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của việc kiểm
soát hoạt động TTKT một cách có hiệu quả, khách quan, đảm bảo môi trường cạnh
tranh lành mạnh và lợi ích của người tiêu dùng.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về kiểm soát tập trung kinh tế” làm luận văn Thạc sỹ luật học, hy vọng
góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát TTKT vốn
còn rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu sâu rộng hơn nữa.


2

Luận văn cao học
2.


Luật Kinh tế

Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề TTKT cũng như pháp luật về kiểm soát TTKT đã được khá nhiều nhà

khoa học, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Nhiều công trình khoa học đã đề cập
đến thực trạng hoạt động TTKT hiện nay, việc thực hiện pháp luật liên quan, trong
đó có đề cập đến nhu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nói chung và pháp
luật cạnh tranh nói riêng về kiểm soát TTKT. Có thể kể đến một số công trình như:
“Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế và vai trò của cơ quan quản lý cạnh
tranh” của PGS. TS. Nguyễn Như Phát đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4
(41) năm 2007; “Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề
của Việt Nam” của ThS. Nguyễn Ngọc Sơn đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp
số 79 năm 2006; các nghiên cứu của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương như
sách tham khảo “Kiểm soát tập trung kinh tế: kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại
Việt Nam” (năm 2007) và Chương 3 của “Báo cáo rà soát các quy định của pháp
luật cạnh tranh Việt Nam” (năm 2012); Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn đề
pháp lý về tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh Việt Nam” của Trần Thị Bảo Ánh
(Đại học Luật Hà Nội, năm 2006) và một số Luận văn Thạc sỹ luật học khác nghiên
có đề tài liên quan.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong thời gian qua chủ yếu đi sâu làm
rõ khái niệm, bản chất của hoạt động TTKT, phân tích thực trạng diễn ra hoạt động
TTKT tại Việt Nam, một số bất cập của pháp luật hiện hành và giải pháp cụ thể. Tuy
nhiên, phần lớn các công trình mới chỉ nghiên cứu việc kiểm soát TTKT dưới góc độ
pháp luật cạnh tranh, mà chưa có cái nhìn tổng thể, đầy đủ toàn bộ hệ thống pháp
luật hiện hành. Ngoài ra, chưa có công trình nào đưa ra được các giải pháp một cách
toàn diện và đồng bộ trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về kiểm soát TTKT.
Liên quan trực tiếp đến vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam về kiểm soát TTKT,
đáng chủ ý có Luận văn Thạc sỹ luật học “Pháp luật Việt Nam về kiểm soát TTKT”

của Ngô Thị Hiền Anh đã có những đóng góp tích cực cho việc nghiên cứu sâu rộng
về lĩnh vực này. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu nêu trên chủ yếu mang tính tổng hợp,
phân tích pháp luật nói chung mà chưa xem xét dưới góc độ hoàn thiện pháp luật,
đặt ra các tiêu chí, yêu cầu rõ ràng trong việc hoàn thiện pháp luật, và các yếu tố ảnh
hưởng đến pháp luật về kiểm soát TTKT ở Việt Nam.


3

Luận văn cao học
3.

Luật Kinh tế

Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, hoạt động TTKT được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, như

từ góc độ kinh tế, từ góc độ pháp lý hoặc góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật
v.v… Đối với Luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu TTKT dưới góc độ pháp
lý, căn cứ trên các quy định của pháp luật hiện hành, kể cả các quy định của pháp
luật cạnh tranh và pháp luật khác có liên quan. Trong đó, tác giả không nghiên cứu
dàn trải toàn bộ các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động TTKT mà đi sâu nghiên
cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về kiểm soát TTKT.
4.

Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam

về kiểm soát TTKT trên cơ sở các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật như
tính minh bạch, tính thống nhất, tính toàn vẹn, tính khả thi và trình độ kỹ thuật pháp

lý, đồng thời có xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về kiểm soát TTKT
như tình hình kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý kinh tế v.v…
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn đã đặt ra một số nhiệm
vụ cơ bản sau:
-

Làm sáng tỏ khái niệm TTKT, pháp luật về kiểm soát TTKT, các tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật
về kiểm soát TTKT tại Việt Nam.

-

Hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát TTKT, tổng
kết các thành tựu, đánh giá các hạn chế trong pháp luật hiện hành và hoạt
động thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền kiểm soát TTKT.

-

Đề xuất các yêu cầu và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về kiểm soát TTKT ở Việt Nam nhằm tạo thuận lợi cho việc
thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp và người tiêu dùng.

5.

Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận

khoa học và các phương pháp của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài cũng được dựa trên cơ sở các quan điểm, đường

lối về chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.


4

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau để làm
rõ những nội dung nghiên cứu, như: hệ thống hóa, thống kê, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu, phân tích… Trong đó, phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt luận
văn; phương pháp thống kê, tổng hợp được sử dụng để cung cấp các thông tin, số
liệu cần thiết liên quan đến nội dung luận văn; so sánh quy định của pháp luật hiện
hành với thực tiễn, so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới; đánh giá ưu
điểm và hạn chế của pháp luật để làm cơ sở chứng minh, luận giải cho các giải pháp
hoàn thiện pháp luật.
6.

Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn này đưa ra những kết quả nghiên cứu mới cơ bản sau:

-

Xây dựng được các khái niệm: pháp luật về kiểm soát TTKT, các yếu tố ảnh
hưởng đến pháp luật về kiểm soát TTKT, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát TTKT

-


Phân tích, đánh giá khách quan thực trạng pháp luật về kiểm soát TTKT ở
nước ta, trong đó đã trình bày những thành tựu và cả hạn chế của pháp luật và
việc thực hiện pháp luật hiện hành về kiểm soát TTKT.

-

Đề xuất các yêu cầu và giải pháp tương đối đồng bộ và sát với thực tiễn nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát TTKT ở Việt
Nam.

7.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm

03 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về tập trung kinh tế và pháp luật về kiểm soát tập trung
kinh tế.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát tập trung kinh tế.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
kiểm soát tập trung kinh tế tại Việt Nam.


5

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG TẾ
1.1 Khái quát hoạt động tập trung kinh tế
1.1.1 Khái niệm tập trung kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp đều phải đối mặt với sức ép
cạnh tranh đến từ những đối thủ hiện có trên thị trường và cả những đối thủ tiềm
năng. Để tìm kiếm cơ hội tồn tại và đạt được lợi thế trong kinh doanh, các doanh
nghiệp buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh vượt trội hơn so với đối thủ. Lịch sử
hình thành các loại hình doanh nghiệp đã cho thấy phương pháp ngắn nhất để các
thương nhân nâng cao năng lực cạnh tranh là liên kết vốn và khả năng quản lý trong
quá trình kinh doanh [10, tr.230]. Việc tập trung các nguồn lực kinh tế như vốn,
kinh nghiệm quản lý, nhân lực… ngày càng diễn ra phổ biến với nhiều hình thức và
mức độ khác nhau, từ đầu tư, tích lũy cho đến thâu tóm, chi phối doanh nghiệp,
trong đó có việc tiến hành tập trung kinh tế (TTKT) giữa các doanh nghiệp.
TTKT thực chất là hoạt động giành quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp
hoặc bộ phận doanh nghiệp, hoặc nhiều doanh nghiệp cùng liên kết lại nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động; chứ không chỉ đơn thuần là sở hữu
một phần vốn góp hoặc cổ phần doanh nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ lẻ.
Hiện nay, khái niệm hoạt động TTKT được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau trong kinh tế học và khoa học pháp lý.
Ở góc độ sự hình thành và thay đổi của cấu trúc thị trường, TTKT được hiểu
là việc giảm số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường thông qua
các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của
doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất [17]. Cách nhìn nhận này đã
làm rõ nguyên nhân và hậu quả của TTKT đối với cấu trúc thị trường cạnh tranh,
nhưng dường như coi hiện tượng tích tụ tư bản là một phần của khái niệm TTKT.
Ở góc độ là một hành vi của doanh nghiệp, trong Từ điển Tiếng Việt do Viện
Ngôn ngữ học phát hành không có khái niệm TTKT mà chỉ có khái niệm Tập trung
tư bản với cách hiểu tương tự là sự gia tăng tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại hoặc
một tư bản này thu hút một tư bản khác [19, tr.870]. Quan điểm này cho thấy
phương thức của hiện tượng TTKT.



6

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

Ở góc độ pháp luật, Điều 91 Luật Cạnh tranh Canada không sử dụng thuật
ngữ TTKT (economic concentration) mà sử dụng thuật ngữ “sáp nhập” (merger) để
chỉ “… sự thâu tóm hoặc thiết lập, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi một hoặc nhiều bên
thông qua việc mua hoặc thuê cổ phần/tài sản, hợp nhất hoặc kết hợp bằng cách
khác nắm quyền kiểm soát đối với, hoặc lợi ích đáng kể trong toàn bộ hoặc một
phần hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, bên cung cấp, bên mua hàng
hoặc người khác”. Tại Nhật Bản, Luật Chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh
thương mại lành mạnh 1947 (gọi tắt là Luật Chống độc quyền - AMA) quy định
cấm thành lập một công ty mà việc thành lập công ty này có thể gây ra sự tập trung
quyền lực kinh tế quá mức (excessive concentration of economic power). Khoản 3
Điều 9 AMA định nghĩa sự tập trung quyền lực kinh tế quá mức là “tình trạng lớn
mạnh về tổng tài sản của một công ty và các công ty phụ thuộc nó và các công ty
khác tại Nhật Bản, quy mô kinh tế của họ đối với phần lớn lĩnh vực kinh doanh
được công ty này kiểm soát bằng cách nắm giữ cổ phần, từ đó các công ty đó có
ảnh hưởng đáng kể đến các công ty khác thông qua các giao dịch liên quan đến tài
chính hoặc chiếm giữ những vị trí có ảnh hưởng đối với phần lớn hoạt động kinh
doanh, có tác động lớn đến nền kinh tế quốc gia và ngăn cản việc thúc đẩy cạnh
tranh tự do và công bằng”. Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh không định nghĩa về
TTKT mà chỉ liệt kê các hành vi TTKT của doanh nghiệp tại Điều 16 Luật Cạnh
tranh gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp và các
hành vi TTKT khác.
Mặc dù chưa có định nghĩa chung nhất về TTKT và mỗi nhà nghiên cứu lại

có quan điểm riêng về TTKT, nhưng nhìn chung đều thống nhất các đặc điểm của
hoạt động TTKT như sau:
Thứ nhất, chủ thể của TTKT là các doanh nghiệp hoạt động trên cùng một thị
trường hoặc có thể hoạt động trên các thị trường khác nhau, không trùng lắp về sản
phẩm hoặc dịch vụ mà họ cung cấp (nói theo ngôn ngữ của pháp luật cạnh tranh là
cùng thị trường liên quan hoặc không cùng một thị trường liên quan).
Thứ hai, biện pháp thực hiện TTKT là các chủ thể chủ động tích tụ các
nguồn lực kinh tế (vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực quản lý, tổ chức…) mà họ đang
nắm giữ riêng lẻ để liên kết với nhau, hình thành một khối thống nhất hoặc phối hợp


7

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

hình thành các nhóm doanh nghiệp. Dấu hiệu này giúp khoa học pháp lý phân biệt
TTKT với việc tích tụ tư bản trong kinh tế chính trị. Tích tụ tư bản là tăng thêm tư
bản dựa vào tích lũy giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản.
Tích tự tư bản là quá trình phát triển nội sinh của một doanh nghiệp theo thời gian
bằng kết quả kinh doanh. Trong khi đó, TTKT cũng có dấu hiệu của sự tích tụ tư
bản nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi của doanh nghiệp.
Thứ ba, kết quả của hoạt động TTKT là một doanh nghiệp sẽ giành được
quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp khác, từ đó làm thay đổi cấu trúc thị trường
và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường. Tuy nhiên, điều này không nhất
thiết có nghĩa là sau khi tiến hành TTKT, mức độ cạnh tranh trên thị trường bị suy
giảm đáng kể. Vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể hơn tại các phần sau.
1.1.2 Các hình thức tiến hành tập trung kinh tế
Để hiểu rõ thêm về hành vi TTKT thì điều cần quan tâm là các hình thức

TTKT, bởi mỗi hình thức có mức độ tác động khác nhau đến thị trường. Dựa vào vị
trí của các doanh nghiệp tham gia giao dịch TTKT trong các cấp độ kinh doanh
khác nhau có thể chia TTKT thành 3 hình thức khác biệt gồm chiều ngang, chiều
dọc và hỗn hợp [24, tr.27]. Đây là cách phân chia giúp cơ quan quản lý và các nhà
nghiên cứu dễ hình dung tác động của TTKT đối với thị trường, đồng thời bao quát
hết các hành vi TTKT, tránh sự thiếu sót khi liệt kê TTKT theo các dạng giao dịch
cụ thể như mua lại tài sản, mua cổ phần, liên doanh v.v…
(1)

TTKT theo chiều ngang (Horizontal): là việc TTKT giữa các doanh nghiệp

trong cùng một thị trường liên quan. Hay nói cách khác, đây là một hình thức TTKT
được thực hiện giữa các doanh nghiệp nằm ở vị trí ngang nhau của chu trình sản
xuất, phân phối hoặc lưu thông hàng hóa. Ví dụ: việc sáp nhập giữa các nhà sản
xuất linh kiện máy tính với nhau; hoặc việc sáp nhập giữa các doanh nghiệp cùng là
nhà phân phối máy vi tính với nhau.
Kết quả của những giao dịch như trên thường mang lại cho doanh nghiệp cơ
hội mở rộng thị trường, kết hợp thương hiệu, giảm chi phí, tăng cường hiệu quả của
hệ thống phân phối và hậu cần. Rõ ràng khi hai đối thủ cạnh tranh kết hợp với nhau
thì không những giảm bớt cho mình một đối thủ mà còn tạo ra sức mạnh lớn hơn để
đương đầu với các đối thủ còn lại. Mặc dù vậy, cũng có trường hợp công ty bị sáp


8

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

nhập trở thành gánh nặng cho công ty mua lại, như thương vụ giữa Daimler Benz

và Chrysler. Daimler Benz là nhà sản xuất ô tô lớn nhất của Đức và cũng là hãng
sản xuất ô tô lớn thứ 13 của thế giới. Năm 1998, Daimler (bên sáp nhập) đã tiến
hành sáp nhập với nhà sản xuất ô tô lớn thứ ba của Mỹ là Chrysler (bên bị sáp nhập)
để ra đời một công ty mới là Daimler Chrysler A.G với hy vọng tạo một sự thành
công “xuyên đại dương”, làm chủ thị trường sản xuất ô tô và xe tải thế giới. Tuy
nhiên, việc sáp nhập cũng không thể cứu Chrysler khỏi tình trạng khủng hoảng về
tài chính và tổ chức, và kéo hoạt động kinh doanh của Daimler tụt dốc theo. Do đó,
từ năm 2007 đến 2009, Daimler đã bán dần toàn bộ cổ phần trong Chrysler, đồng
thời cắt đứt quan hệ về mặt sở hữu giữa hai công ty suốt 11 năm. Như vậy, do tác
động của nhiều yếu tố từ bản thân các bên tham gia giao dịch đến tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới khiến kết quả giao dịch TTKT này không được như
mong đợi. Điều này có nghĩa, một giao dịch TTKT chiều ngang không luôn luôn
mang lại lợi thế lớn cho doanh nghiệp, mà kết quả (mức độ tác động đến thị trường)
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
(2)

TTKT theo chiều dọc (Vertical): là việc TTKT giữa các doanh nghiệp có

quan hệ người mua - người bán với nhau, tức là các doanh nghiệp này nằm ở vị trí
khác nhau trong một chu trình sản xuất - phân phối - lưu thông hàng hóa. Giao dịch
này giúp doanh nghiệp tiến hành TTKT lợi thế về đảm bảo và kiểm soát chất lượng
nguồn hàng hoặc đầu ra sản phẩm, giảm chi phí trung gian, khống chế nguồn hàng
hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh. Hành vi này có thể tác động tiêu cực đến cạnh
tranh vốn có trên thị trường thông qua việc gây sức ép cho doanh nghiệp khác.
Có thể nhận thấy, việc TTKT theo chiều ngang có khả năng gây nhiều tác
động xấu đến thị trường hơn là các giao dịch theo chiều dọc. Ví dụ: việc sáp nhập
giữa hãng nước hoa nổi tiếng của Pháp Yves Rocher với các đại lý của mình trên
toàn quốc. Nếu giao dịch này có thực hiện được thì mức độ gây ảnh hưởng đến thị
trường đến đâu còn phụ thuộc nhiều vào sức cạnh tranh của các hãng nước hoa
khác. Trong khi đó, nếu có 2 - 3 hãng nước hoa lớn của Pháp mà sáp nhập với nhau

(TTKT chiều ngang) thì mức ảnh hưởng sẽ lớn hơn, có thể làm các hãng còn lại,
nhất là các hãng có sức cạnh tranh không lớn lâm vào khó khăn, thậm chí phá sản.


9

Luận văn cao học
(3)

Luật Kinh tế

TTKT theo hình thức tổ hợp (Conglomerate): là việc TTKT giữa các doanh

nghiệp không cùng hoạt động trên cùng một thị trường sản phẩm liên quan, đồng
thời cũng không có mối quan hệ khách hàng với nhau. Ví dụ: một công ty cung cấp
thiết bị y tế mua một công ty thời trang, một công ty du lịch của Nga mua một công
ty du lịch ở Việt Nam... Mục tiêu của việc sáp nhập này thường là nhằm phân tán
rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ những lý do chiến lược thị trường
của các doanh nghiệp đó. Hoạt động này có thể tác động tiêu cực đến cạnh tranh
thông qua những lợi thế về tín dụng, thanh toán và quan hệ đối ngoại. Tuy nhiên,
hiện nay hình thức hỗn hợp chưa phổ biến bằng hai loại hình thức trước.
1.1.3 Sự cần thiết phải kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
Các phân tích tại các phần trước cho thấy, hoạt động TTKT có khả năng
mang đến cho các doanh nghiệp tham gia giao dịch rất nhiều lợi ích rõ rệt và cả
những nguy cơ làm suy giảm tính cạnh tranh trên thị trường.
Dưới góc độ kinh tế, hoạt động TTKT xuất phát và phục vụ cho nhu cầu kinh
doanh, tăng cường tiềm lực của doanh nghiệp, cho nên chúng thuộc phạm vi của
quyền tự do kinh doanh mà pháp luật đã thừa nhận và bảo hộ. Hoạt động TTKT tạo
điều kiện để tập hợp các doanh nghiệp phân phối hoặc khách hàng vào một mối để
đảm bảo tốt hơn nguồn cung hoặc khả năng tiêu thụ, tạo sự hiệp lực mới, dẫn đến

cải cách bằng cách kết hợp nhân tài của các doanh nghiệp với nhau… Từ đó, thị
trường được thay đổi theo hướng: các nguồn lực được sử dụng tập trung và hiệu quả
hơn, tránh tình trạng manh mún, nhỏ lẻ trong kinh doanh. Do đó, pháp luật các quốc
gia đều không loại bỏ các hành vi TTKT ra khỏi sinh hoạt chung của thị trường.
Tuy nhiên, TTKT có thể dẫn đến hệ quả hình thái thị trường cạnh tranh thay
đổi và chuyển sang mô hình độc quyền nhóm hoặc hình thành các doanh nghiệp có
quyền lực thị trường. Hoạt động TTKT đã đột ngột làm xuất hiện một hoặc một
nhóm doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh bằng tổng năng lực cạnh tranh của tất cả
doanh nghiệp tham gia. Về căn bản, TTKT không trực tiếp làm giảm vị trí cạnh
tranh trên thị trường của các doanh nghiệp hiện hữu, song lại làm thay đổi quan hệ
giữa họ với doanh nghiệp sau giao dịch. Các lý thuyết về thị trường đôi khi coi
TTKT là hoạt động nhằm cơ cấu lại thị trường, hướng đến tạo dựng vị thế thống
lĩnh, độc quyền của doanh nghiệp, từ đó sẵn sàng thực hiện các hành vi gây tổn thất


10

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

phúc lợi xã hội để tối đa hóa lợi nhuận. Do những hậu quả tiềm tàng như vậy, việc
điều chỉnh các giao dịch TTKT là một nhu cầu bức thiết của thực tiễn và đã trở
thành một phần quan trọng của chính sách và pháp luật cạnh tranh trên thế giới.
Chính vì những lợi ích và cả tác động tiêu cực của giao dịch TTKT như trên,
pháp luật nhìn nhận TTKT là hoạt động hiển nhiên của nền kinh tế nhưng cần kiểm
soát hậu quả của các giao dịch này chứ không nên cấm đối hoàn toàn. Thông qua
chính sách và pháp luật cạnh tranh, Nhà nước đã thực hiện việc kiểm soát các giao
dịch TTKT để kịp thời ngăn chặn những tác động làm suy giảm cạnh tranh của giao
dịch. Khi kiểm soát hoạt động TTKT, Nhà nước nhất thiết phải cân nhắc về tính

hiệu quả của từng giao dịch.
1.2 Khái quát pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
1.2.1 Khái niệm pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
Từ phương diện thực thi chính sách, pháp luật cạnh tranh là tổng thể những
quy phạm pháp luật quy định những biện pháp pháp lý cần thiết (từ các biện pháp
trừng phạt, ngăn chặn của pháp luật hình sự, hành chính, cho đến các biện pháp dân
sự) để thực hiện chính sách cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh chỉ xuất hiện trong mô
hình kinh tế thị trường, nơi mà quyền tự do kinh doanh của công dân được khẳng
định, Nhà nước tập trung vào quản lý kinh tế vĩ mô, còn doanh nghiệp được hoàn
toàn chủ động trong việc ra quyết định kinh doanh, điều chỉnh theo tín hiệu từ thị
trường và ở đó cạnh tranh được xem là động lực để phát triển kinh doanh. Pháp luật
cạnh tranh đã vạch ra giới hạn, tiêu chuẩn pháp lý tối thiểu trong hoạt động cạnh
tranh mà doanh nghiệp không được phép vượt qua và ngăn ngừa, trừng phạt những
hành vi phản cạnh tranh. Giới hạn đó được xây dựng thông qua quy định về các
hành vi cạnh tranh bị kiểm soát gồm hai nhóm: hành vi cạnh tranh không lành mạnh
và hành vi hạn chế cạnh tranh. Trong đó, TTKT là một trong các hành vi chính
thuộc nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh đã xây dựng các
nguyên tắc, nội dung cơ bản của việc kiểm soát TTKT, từ quy định về hành vi cho
đến các quy định về trình tự, thủ tục. Trên cơ sở đó và căn cứ nhu cầu quản lý nhà
nước trong từng ngành, lĩnh vực kinh tế, các quy định pháp luật trong lĩnh vực
chuyên ngành có liên quan cũng có thể được xây dựng nếu cần thiết và kết nối với


11

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

pháp luật cạnh tranh để tạo thành một hệ thống pháp luật về kiểm soát TTKT.

Chẳng hạn, tại Nhật Bản, để kiểm soát TTKT, một hệ thống các văn bản pháp luật
đã được xây dựng như: Luật chống độc quyền tư nhân và duy trì thương mại lành
mạnh 1947, các hướng dẫn liên quan đến các công ty tập trung sức mạnh kinh tế
quá mức, Hướng dẫn về việc cho phép sáp nhập và nắm giữ cổ phiếu của các ngân
hàng và công ty bảo hiểm… Tại Đức, quy định về kiểm soát TTKT chủ yếu nằm
trong Luật Chống hạn chế cạnh tranh, các hướng dẫn về kiểm soát TTKT và một số
quy định về viễn thông, năng lượng…
Do vậy có thể hiểu, pháp luật về kiểm soát TTKT bao gồm một hệ thống các
quy định của pháp luật cạnh tranh và các pháp luật có liên quan được ban hành để
kiểm soát và ngăn ngừa các hành vi TTKT có khả năng gây hạn chế cạnh tranh hoặc
tiêu hủy cạnh tranh trên thị trường. Điều này có nghĩa là pháp luật cạnh tranh chỉ
xem xét đến hệ quả mà hành vi TTKT tạo ra chứ không quan tâm đến các hành vi
đó phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục như thế nào.
1.2.2 Mục tiêu của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về chính sách và pháp luật cạnh tranh trên
thế giới, nhưng nhìn chung các quốc gia đều thống nhất về ba mục tiêu chính của
chính sách và pháp luật cạnh tranh là: (1) đảm bảo một quá trình cạnh tranh hiệu
quả; (2) tăng cường phúc lợi xã hội, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng; (3) tối đa
hóa hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phân bổ các nguồn lực xã hội. Vì vậy, pháp luật
cạnh tranh là công cụ để bảo vệ và đem lại lợi ích cho nền kinh tế và xã hội.
Với vai trò là một trụ cột không thể thiếu của pháp luật cạnh tranh, quy định
về kiểm soát TTKT cũng hướng đến những mục tiêu chung như trên. Tuy nhiên,
khác với pháp luật kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh khác, pháp luật về
kiểm soát TTKT mang tính chất tiền kiểm (ex-ante), có tác dụng ngăn ngừa trước
các giao dịch có khả năng làm phương hại đến cạnh tranh. Trong khi đó, quy định
điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh khác (như lạm dụng sức mạnh thị trường,
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh) lại mang tính chất hậu kiểm (ex-post), có tác dụng
trừng phạt các hành vi đã xảy ra làm phương hại tới cạnh tranh trên thị trường.
Tóm lại, pháp luật cạnh tranh về kiểm soát TTKT hướng tới mục tiêu ngăn
ngừa các giao dịch TTKT có khả năng hiện hữu làm thay đổi cấu trúc thị trường,



12

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

làm tổn hại tới động lực cạnh tranh trên thị trường, từ đó làm suy giảm hiệu quả
kinh tế và xâm hại tới lợi ích của người tiêu dùng.
1.2.3 Nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
Pháp luật về kiểm soát TTKT tập trung vào các vấn đề chính gồm: (1) xác
định thị trường liên quan (khuôn khổ, phạm vi tác động của giao dịch TTKT), (2)
hình thức TTKT, (3) đánh giá mức độ tác động của vụ việc TTKT đối với thị trường
thông qua nhiều tiêu chí và (4) biện pháp xử lý vi phạm và khôi phục cạnh tranh.
1.2.3.1Xác định thị trường liên quan
Xác định thị trường liên quan là một bước quan trọng, mang tính quyết định
đối với một vụ việc TTKT vì nó giúp đánh giá sức mạnh thị trường của doanh
nghiệp thông qua TTKT, các đối thủ cạnh tranh và tác động của giao dịch TTKT
đối với cạnh tranh trên thị trường. Việc xác định thị trường liên quan được căn cứ
trên cả phương diện sản phẩm là đối tượng của giao dịch (thị trường sản phẩm liên
quan) và khu vực địa lý nơi giao dịch đó diễn ra (thị trường địa lý liên quan).
Về thị trường sản phẩm liên quan:
Tại Liên minh Châu Âu, thị trường sản phẩm liên quan được định nghĩa như
sau: “Một thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả sản phẩm và/hoặc dịch vụ
mà người tiêu dùng cho là có thể hoán đổi, thay thế cho nhau về đặc tính, giá cả và
mục đích sử dụng của các sản phẩm/dịch vụ đó [21, tr.8]. Còn tại Hoa Kỳ, “Khi một
sản phẩm được bán bởi một công ty sáp nhập (sản phẩm A) cạnh tranh với một hoặc
nhiều sản phẩm được bán bởi một công ty sáp nhập khác, cơ quan cạnh tranh sẽ xác
định thị trường sản phẩm liên quan xung quanh sản phẩm A để đánh giá về tầm

quan trọng của quan hệ cạnh tranh đó. Thị trường sản phẩm liên quan đó bao gồm
nhóm các sản phẩm có khả năng thay thế cho sản phẩm A, và bao gồm cả sản phẩm
A. Vì vậy, cơ quan cạnh tranh có thể xác định một thị trường liên quan bao gồm
nhiều sản phẩm” [25, tr.8].
Về thị trường địa lý liên quan:
Liên minh Châu Âu định nghĩa về thị trường địa lý liên quan bao gồm “các
khu vực nơi mà các doanh nghiệp có liên quan có mối liên hệ với nhau trong việc
cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, trong đó các điều kiện cạnh tranh là đồng nhất và
có thể phân biệt với các khu vực địa lý lân cận do các điều kiện cạnh tranh tại các


13

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

khu vực này là khác biệt đáng kể. Các nhân tố có liên quan trong quá trình xác định
thị trường địa lý liên quan bao gồm bản chất và các đặc tính của sản phẩm hoặc dịch
vụ có liên quan, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường hay thị hiếu của
người tiêu dùng, sự khác biệt đáng kể về thị phần của các doanh nghiệp giữa các
khu vực địa lý lân cận hay các khác biệt đáng kể về giá”. Tại Hoa Kỳ, thị trường địa
lý liên quan được xác định thông qua việc trả lời một câu hỏi người tiêu dùng sẽ
chuyển sang nguồn cung nào nếu giá của sản phẩm liên quan tăng một mức nhỏ
nhưng đáng kể và không phải trong một thời gian ngắn? Nếu một số lượng đáng kể
người tiêu dùng chuyển sang mua hàng tại một khu vực ngoài khu vực đang được
xem xét, vậy khu vực địa lý mà người tiêu dùng sẽ quyết định chuyển sang mua
hàng sẽ phải nằm trong thị trường địa lý liên quan.
Như vậy, mặc dù pháp luật mỗi quốc gia có cách định nghĩa khác nhau về thị
trường liên quan nhưng đều thống nhất các tiêu chí quan trọng cần được đánh giá

khi xác định thị trường liên quan, đó là: các tiêu chí về đặc tính, mục đích sử dụng
và giá cả của sản phẩm để xác định nhóm các sản phẩm cùng thuộc một thị trường
sản phẩm liên quan có khả năng thay thế nhau; các rào cản gia nhập thị trường, thị
hiếu của người tiêu dùng, sự khác biệt giữa các khu vực địa lý lân cận… để xác
định thị trường địa lý liên quan. Trên thế giới, thẩm quyền thực hiện các phân tích,
đánh giá chuyên sâu giúp xác định thị trường liên quan nêu trên khi điều tra hay
xem xét một giao dịch TTKT được giao cho các cơ quan cạnh tranh.
1.2.3.2Xác định dạng giao dịch TTKT
Tùy thuộc điều kiện, tình hình phát triển kinh tế cụ thể mà pháp luật mỗi
quốc gia lại quy định khác nhau về các dạng giao dịch TTKT cần được kiểm soát.
Tại Canada, Phần 1- Hướng dẫn thực thi sáp nhập tháng 9/2004 chỉ rõ: “Khái
niệm Sáp nhập bao gồm bất kỳ hành vi nào, trong đó quyền kiểm soát hoặc một lợi
ích đáng kể, trong toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của bên khác được
thâu tóm hoặc thiết lập. Trong khi những hướng dẫn này tập trung chủ yếu vào các
vụ sáp nhập theo chiều ngang, Điều 91 cũng điều chỉnh cả các vụ sáp nhập chiều
dọc và các vụ sáp nhập hỗn hợp”.
Chương 4 Luật Chống độc quyền Nhật Bản (AMA) quy định các giao dịch
tập trung quyền lực kinh tế quá mức gồm:


14

Luận văn cao học
-

Luật Kinh tế

Mua cổ phần: “Không công ty nào được mua hay nắm giữ cổ phần của (các)

công ty khác nếu việc đó gây cản trở lớn đến cạnh tranh trong một lĩnh vực thương

mại nhất định” (Điều 10 AMA).
-

Kiêm nhiệm lãnh đạo: “Cán bộ và nhân viên của một công ty không được

cùng một lúc làm cán bộ ở một hoặc nhiều công ty khác ở Nhật Bản khi việc kiêm
nhiệm đó có thể gây ra hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trong một lĩnh vực
thương mại nhất định” (Điều 13 AMA).
-

Sở hữu cổ phần của chủ thể không phải là doanh nghiệp: “Cá nhân không

được mua hoặc giữ cổ phần của một công ty khác khi việc nắm giữ cổ phần đó gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể tại một lĩnh vực thương mại nhất định” (Điều
14 AMA).
-

Sáp nhập: các công ty không được sáp nhập khi việc sáp nhập làm hạn chế

cạnh tranh một cách đáng kể tại một lĩnh vực thương mại nhất định; thực hiện các
hoạt động thương mại không lành mạnh trong quá trình sáp nhập (Điều 15 AMA).
-

Thiết lập bộ phận chung giữa các công ty hoặc mua lại một bộ phận công ty:

trường hợp này bị cấm khi giao dịch đó có thể gây ra hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể trong một lĩnh vực thương mại nhất định; thực hiện các hoạt động thương
mại không lành mạnh trong quá trình thành lập hoặc mua lại (Điều 15.2 AMA).
-


Chuyển giao cổ phần: “Không công ty nào được tham gia chuyển giao cổ

phần với công ty khác khi việc chuyển giao đó có thể gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể trong một lĩnh vực thương mại nhất định; thực hiện các hoạt động
thương mại không lành mạnh trong quá trình chuyển giao” (Điều 15.3 AMA).
-

Các giao dịch mua lại toàn bộ hoặc phần lớn sản nghiệp, tài sản công ty hoặc

thuê, quản lý toàn bộ hoặc phần lớn hoạt động kinh doanh của công ty mà có thể
gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trong một lĩnh vực thương mại nhất định
(Điều 16 AMA).
Bên cạnh đó, pháp luật một số quốc gia lại không sử dụng cách thức liệt kê,
mà quy định bản chất hành vi nhằm bao quát các hành vi TTKT cần được kiểm
soát. Chẳng hạn: Khoản 3 Điều 4 Đạo luật liên bang Thụy Sỹ về cartel và các hành
vi hạn chế cạnh tranh khác (1995) quy định các hành vi tập trung của doanh nghiệp
gồm: (1) sáp nhập của hai hoặc nhiều doanh nghiệp độc lập; và (2) “bất kỳ giao dịch


15

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

nào mà trong đó một hoặc nhiều doanh nghiệp đạt được, đặc biệt là bằng việc mua
lại cổ phần hoặc thông qua một thỏa thuận, để kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp
một hoặc nhiều doanh nghiệp độc lập hoặc một phần của nó”.
Thông qua đó có thể nhận thấy pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới
điều chỉnh cả ba hình thức TTKT: theo chiều ngang, chiều dọc và hỗn hợp. Một số

dạng giao dịch TTKT cơ bản mà pháp luật các quốc gia đều có quy định điều chỉnh
như: sáp nhập doanh nghiệp, mua lại sản nghiệp của doanh nghiệp, mua hoặc
chuyển giao cổ phần, tổ chức Ban lãnh đạo hoặc bộ phận chung giữa các doanh
nghiệp v.v…
1.2.3.3Các tiêu chí đánh giá vụ việc TTKT
Kết quả cuối cùng của việc xem xét một giao dịch TTKT dự định được tiến
hành là quyết định ngăn cấm hay cho phép thực hiện giao dịch đó. Để có căn cứ ra
quyết định, các cơ quan cạnh tranh thế giới thường sử dụng đồng thời một hệ thống
các tiêu chí, gồm các tiêu chí định lượng (thị phần, chỉ số CR, HHI…) và tiêu chí
định tính (khả năng gia nhập thị trường của các đối thủ mới, hiệu quả kinh tế…)
giúp so sánh lợi ích và tác hại của giao dịch TTKT đó.
Thị phần là một yếu tố giúp đánh giá sức mạnh thị trường của doanh nghiệp
trước và sau khi TTKT. Luật pháp Châu Âu và Hoa Kỳ đều không quy định chính
xác về mức độ thị phần cho thấy doanh nghiệp chắc chắn có sức mạnh thị trường,
nhưng nhìn chung đều có sự thống nhất tương đối về mức thị phần để xác định sức
mạnh thị trường của doanh nghiệp như sau:
Bảng 1.1. Khả năng kết luận về sức mạnh thị trƣờng theo tiêu chí thị
phần tại EU và Hoa Kỳ
Khả năng kết luận dựa trên tiêu chí thị phần

Mức thị phần của doanh nghiệp
EU [20]
US [25]

Giả định cao về khả năng có sức mạnh thị trường (chủ yếu kết
>50%
70-80%
luận thông qua những chứng cứ ban đầu)
Giả định có sức mạnh thị trường, cần thu thập thêm chứng cứ
40-50%

Giả định thấp về sức mạnh thị trường, cần thu thập thêm nhiều
30-40%
50-70%
chứng cứ chứng minh
Không có dấu hiệu về sức mạnh thị trường
< 25%
< 50%
Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh - 2012

Tuy nhiên, cần phải khẳng định, thị phần là yếu tố đầu tiên, nhưng không
phải là yếu tố duy nhất được cơ quan có thẩm quyền sử dụng để đánh giá sức mạnh


16

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

thị trường của doanh nghiệp. Các phán quyết của Tòa án tại Hoa Kỳ cho rằng
“…việc chứng minh sức mạnh thị trường của doanh nghiệp đòi hỏi quá trình đánh
giá toàn diện và không chỉ đơn thuần dựa trên tiêu chí thị phần”[26]. Chẳng hạn vụ
sáp nhập giữa Daimler và Chrysler đã trình bày ở phần trước cho thấy, tác động đến
cạnh tranh của giao dịch TTKT tùy thuộc vào nhiều yếu tố như xu hướng thị
trường, tình hình hoạt động của doanh nghiệp, thời điểm tiến hành giao dịch… (các
yếu tố động) chứ không chỉ là vị thế, thị phần hiện có của doanh nghiệp (yếu tố
tĩnh). Các cơ quan cạnh tranh cần phải đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố này để đưa ra
kết luận chính xác về khả năng vụ việc có gây suy giảm cạnh tranh hay không.
Mức độ tập trung của thị trường không trực tiếp phản ánh cạnh tranh trên thị
trường nhưng có thể giúp đánh giá sơ bộ tác động của vụ việc TTKT đối với cạnh

tranh. Các chỉ số cơ bản để đánh giá mức độ tập trung cua thị trường gồm:
Chỉ số tích tụ thị trường (CR) được tính bằng tổng thị phần của các doanh
nghiệp chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường theo công thức:
CRn = Si1 + Si2 +… + Sin
Si là thị phần của doanh nhiệp lớn thứ i trong ngành; n là số lượng các doanh
nghiệp có thị phần lớn nhất trên thị trường để xác định CRn.
Chỉ số CR dao động từ 0% đến 100%. Chỉ số càng cao thì các doanh nghiệp
hàng đầu càng chiếm vị trí quan trọng trên thị trường và tính tập trung của ngành
càng cao. Ví dụ: bốn doanh nghiệp sản xuất sữa lớn nhất có thị phần lần lượt là
37%, 16%, 14% và 8%. Chỉ số CR4 sẽ là 75%, đây là thị trường có mức độ tập
trung khá cao, với nhiều nguy cơ xảy ra các vấn đề gây hạn chế cạnh tranh.
Chỉ số Herfindahl-Hirschmann Index (HHI) được định nghĩa là tổng bình
phương của thị phần của mỗi doanh nghiệp cá biệt, được tính theo công thức:
HHI = S1² + S2 ² + … + Sn²
S1, S2..Sn là các mức thị phần; n là tổng số doanh nghiệp trên thị trường.
Các cơ quan cạnh tranh thường căn cứ vào các mức như sau của HHI để đưa
ra những đánh giá về thị trường [2, tr.42]:
HHI < 1000: thị trường không mang tính tập trung;
1000 ≤ HHI ≤ 1800: thị trường tập trung ở mức độ vừa phải
HHI > 1800: thị trường tập trung ở mức độ cao


17

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

Ví dụ: trên thị trường sản xuất sữa có 6 doanh nghiệp với thị phần lần lượt là
37%, 22%, 16%, 14%, 8% và 3% thì chỉ số HHI của thị trường là 2378, cho thấy

mức độ tập trung cao và nguy cơ xảy ra các vấn đề hạn chế cạnh tranh.
Các tiêu chí nêu trên (ngoài ra còn có tiêu chí doanh thu, giá trị giao dịch) là
công cụ để pháp luật cạnh tranh thế giới đặt ra mức giới hạn cụ thể, dễ nhận biết đối
với các vụ việc TTKT, mà theo đó nếu các tiêu chí nêu trên vượt qua mức giới hạn
luật định thì vụ việc TTKT tiềm ẩn nguy cơ gây suy giảm cạnh tranh và bắt buộc
phải được đánh giá kỹ lưỡng hơn bởi cơ quan có thẩm quyền trước khi ra quyết
định cho phép hay ngăn cấm vụ việc. Mức giới hạn đó được gọi là ngưỡng an toàn
(Safe harbour). Đây cũng là căn cứ để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thông báo
về vụ việc TTKT của mình nếu các tiêu chí nêu trên đạt mức giới hạn luật định. Do
vậy, đây còn gọi là ngưỡng thông báo TTKT. Tại Australia ngưỡng thông báo là thị
phần từ 40% trở lên hoặc CR4 lớn hơn 75%; tại Ireland chỉ số HHI lớn hơn 1000,
tăng 50 điểm so với trước khi TTKT hoặc CR4 lớn hơn 40%.
Sau khi có thông tin về các chỉ số mang tính định lượng nêu trên và để đánh
giá toàn diện và đầy đủ về tác hại cũng như lợi ích của vụ việc TTKT, cơ quan có
thẩm quyền còn sử dụng các yếu tố định tính khác để đánh giá vụ việc như:
Khả năng gia nhập thị trường của đối thủ mới và mở rộng sản xuất: Nếu
doanh nghiệp khác (không tham gia TTKT) dễ dàng gia nhập thị trường, mở rộng
và duy trì sản xuất để cạnh tranh với các doanh nghiệp tham gia TTKT thì vụ việc
TTKT đó ít khả năng gây suy giảm cạnh tranh. Tuy nhiên, việc gia nhập thị trường
của đối thủ mới phải (i) khả thi, (ii) kịp thời và (iii) ở quy mô, phạm vi đủ lớn [7,
tr.100].
Sức mạnh của người mua: Trong trường hợp khách hàng có đủ sức mạnh
đàm phán thì có thể tự mình hạn chế hành vi của doanh nghiệp sau TTKT, do vậy
vụ việc TTKT sẽ ít khả năng gây suy giảm cạnh tranh (trừ trường hợp hàng hóa đặc
thù, thiếu nguồn cung hoặc không tìm được nguồn cung thay thế tin cậy).
Doanh nghiệp phá sản: Nếu một trong các doanh nghiệp TTKT thực sự rơi
vào tình trạng phá sản thì cần phải so sánh cấu trúc của thị trường trong trường hợp
nếu vụ việc TTKT được thực hiện với trường hợp ngăn cấm vụ việc và để doanh
nghiệp đó phá sản. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng không nên cho phép các



18

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

doanh nghiệp này tham gia TTKT bởi sự phá sản của họ sẽ kích thích các doanh
nghiệp khác nỗ lực hơn nữa để giành khách hàng của doanh nghiệp vừa phá sản.
Hiệu quả kinh tế: Vụ việc TTKT sẽ không có vấn đề nếu chứng minh được
hiệu quả, lợi ích kinh tế của vụ việc đó, như giúp nâng cao khả năng cải tiến công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm đáng kể… Trên thực tế, có trường hợp hiệu
quả kinh tế gia tăng nhưng cạnh tranh cũng bị suy giảm. Do vậy, cần so sánh hiệu
quả kinh tế và tác động phản cạnh tranh của vụ việc để đánh giá xem liệu cuối cùng
hiệu quả kinh tế đó có chuyển được tới người tiêu dùng không (tổng phúc lợi xã hội
tăng lên), hiệu quả kinh tế đó có cần xảy ra ngay lập tức không hay phải cần có áp
lực cạnh tranh trong một thời gian nhất định?...
Việc đánh giá vụ việc TTKT được hoàn thiện hơn khi miễn trừ cho một số
giao dịch hiển nhiên không gây ra quan ngại về tác động phản cạnh tranh, vì vậy cơ
quan có thẩm quyền không cần thiết phải đánh giá các vụ việc này (được gọi là các
trường hợp miễn trừ). Chẳng hạn: Đạo luật nâng cao chống độc quyền Hart-ScottRodino của Hoa Kỳ miễn trừ cho trường hợp giao dịch nội bộ (bên mua đang nắm
50% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của bên bán và chỉ tăng số cổ phần đang nắm
giữ), một số vụ thâu tóm được tiến hành bởi công ty bảo lãnh, tín dụng, bảo hiểm…
1.2.3.4Các biện pháp xử lý vi phạm và khôi phục cạnh tranh
Về biện pháp xử lý vi phạm
Những vi phạm pháp luật về kiểm soát TTKT có thể bao gồm: hành vi không
thông báo hay thông báo chậm về giao dịch TTKT; TTKT trước khi được cơ quan
có thẩm quyền xem xét và cho phép thực hiện; thực hiện không đúng quyết định của
cơ quan có thẩm quyền… Tùy mức độ và hậu quả của hành vi vi phạm mà cơ quan
có thẩm quyền sẽ áp dụng những hình thức phạt vi phạm khác nhau như: cảnh cáo,

phạt tiền, thậm chí là các biện pháp hình sự. Tại Hoa Kỳ, theo quy định tại Điều 7A
Đạo luật Clayton (được sửa đổi bởi Đạo luật Hart-Scott-Rodino) nếu doanh nghiệp
không tuân thủ các quy định về thông báo TTKT thì sẽ phải chịu một khoản phạt
dân sự 11.000 USD cho mỗi ngày chậm trễ, hoặc cấm tiến hành giao dịch TTKT
cho đến khi thực hiện đúng quy định. Khoản 1 Điều 14 Quy định số 139/2004 của
Hội đồng Châu Âu (EC) về kiểm soát TTKT quy định hành vi không thông báo
TTKT, cung cấp thông tin không chính xác có thể bị phạt tiền lên đến 1% tổng


19

Luận văn cao học

Luật Kinh tế

doanh số của doanh nghiệp có liên quan; thực hiện TTKT khi chưa có quyết định
của cơ quan cạnh tranh có thể bị phạt tới 10% tổng doanh số của doanh nghiệp có
liên quan; chậm trả lời yêu cầu cung cấp thông tin có thể bị phạt tới 5% tổng doanh
số trung bình ngày của doanh nghiệp liên quan cho mỗi ngày chậm thực hiện quyết
định của Ủy ban Châu Âu. Đặc biệt, Khoản 2 Điều 65 Luật Cạnh tranh Canada còn
xem việc không thông báo sáp nhập là một tội hình sự và doanh nghiệp đó có thể bị
phạt 50.000 đô la Canada.
Về biện pháp khôi phục cạnh tranh
Có thể nói đây là trung tâm của việc kiểm soát TTKT. Nó cho thấy bản chất
của vụ việc TTKT không đương nhiên mang tính hạn chế cạnh tranh và vì vậy
không nên bị nghiêm cấm trong mọi trường hợp. Nếu vụ việc có khả năng đảm bảo
lợi ích lớn về kinh tế trong khi vẫn có thể xảy ra một số vấn đề về cạnh tranh, cơ
quan quản lý có thể cho phép thực hiện giao dịch TTKT nếu doanh nghiệp thực hiện
một số biện pháp nhất định nhằm đảm bảo lợi ích thu được và hoặc khôi phục cạnh
tranh có thể bị suy giảm do tác động của vụ việc. Đó chính là các biện pháp khôi

phục (hoặc khắc phục) cạnh tranh. Các biện pháp khôi phục cạnh tranh theo pháp
luật các nước trên thế giới rất phong phú và đa dạng và việc quyết định biện pháp
phù hợp cho từng vụ việc cụ thể thực sự rất khó khăn và là trăn trở của nhiều cơ
quan cạnh tranh trên thế giới. Các biện pháp khôi phục cạnh tranh thường được chia
thành hai loại, gồm: các biện pháp có tác dụng khắc phục về mặt cấu trúc và các
biện pháp có tác dụng khắc phục về hành vi. (i) Các biện pháp khôi phục về cấu trúc
thường được thực hiện một lần nhằm phục hồi cấu trúc cạnh tranh của thị trường,
như: buộc doanh nghiệp bán lại một phần tài sản, bán lại hoặc buộc chuyển giao
quyền sở hữu trí tuệ… (ii) Các biện pháp khôi phục về hành vi như kiểm soát sản
lượng, điều chỉnh quan hệ với khách hàng cuối cùng v.v… thường được thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định để kiểm soát hành vi của doanh nghiệp tham
gia TTKT, tránh khả năng họ thực hiện các hành vi phản cạnh tranh. Kết thúc
khoảng thời gian đó, doanh nghiệp không phải thực hiện biện pháp khôi phục đó
nữa. Trong một số trường hợp, cơ quan cạnh tranh có thể xem xét hủy bỏ, sửa đổi
hoặc gia hạn các biện pháp trên. Nhìn chung, không nên áp dụng vô thời hạn các
biện pháp này bởi vì theo thời gian, điều kiện kinh tế-xã hội, thị trường cũng thay


×