Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ HOÀNG PHÚC

NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ HUYỀN

Hà Nội – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả lao động của
riêng tôi, chưa được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Hoàng Phúc


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN


BLDS 2005

Bộ luật Dân sự 2005

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS 2004

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004

BLTTDS 2011

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

GCNQSD

Giấy chứng nhận quyền sử dụng

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

HĐXX


Hội đồng xét xử

NXB

Nhà xuất bản

NVTT

Nghĩa vụ tố tụng

PLTTGQCVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989

1989
PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994

1994
PLTTGQCTCLĐ

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996

1996
PLTTDS

Pháp lệnh tố tụng dân sự

PLCPGĐĐG


Pháp lệnh Chi phí giám định, định giá; chi phí cho ngƣời làm chứng,
ngƣời phiên dịch trong tố tụng 2012

QHPL

Quan hệ pháp luật

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TGTT

Tham gia tố tụng

TR.

Trang

TTDS

Tố tụng dân sự

TƢAP


Tạm ứng án phí

UBND

ủy ban nhân dân

VADS

Vụ án dân sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ

6

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1


Khái niệm, đặc điểm nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự

6

1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự

6

1.1.2. Đặc điểm nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự

7

1.2.

Cơ sở quy định nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự

11

1.2.1. Cơ sở lý luận

11

1.2.2. Cơ sở thực tiễn

13

1.3.

Các điều kiện bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng


14

dân sự
1.3.1. Tính thống nhất, đồng bộ, phù hợp của pháp luật về nghĩa vụ của đƣơng sự

14

trong tố tụng dân sự
1.3.2. Ý thức chấp hành pháp luật của đƣơng sự

15

1.3.3. Trách nhiệm của Tòa án

15

1.4.

Quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới về nghĩa vụ của

16

đƣơng sự trong tố tụng dân sự
Kết luận Chƣơng 1

20

Chƣơng 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM


21

VỀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ

2.1.

Khái quát về sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật

21

tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ của đƣơng sự
2.1.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945

21

2.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989

22

2.1.3. Giai đoạn từ 1989 đến 2005

24

2.2.

Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành quy định về nghĩa vụ

25

của đƣơng sự

2.2.1. Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh

27

2.2.2. Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án

36

2.2.3. Nghĩa vụ chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết

41

vụ
2.2.4. Nghĩa vụ tôn trọng Tòa án và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa

41


2.2.5. Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng chi phí và chi phí

42

Kết luận Chƣơng 2

48

Chƣơng 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TỐ TỤNG CỦA

51


ĐƢƠNG SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM
THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ
NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ

3.1.

Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự

51

3.1.1. Đƣơng sự không cung cấp chứng cứ và chứng minh

52

3.1.2. Không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án

54

3.1.3. Không chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ

57

án
3.1.4. Đƣơng sự không tôn trọng Tòa án, vi phạm nội quy phiên tòa

57

3.1.5. Không nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng chi phí giám định, định giá

58


3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định

59

của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ của đƣơng sự
3.2.1. Cần tách các quy định quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự riêng thành từng

59

khoản
3.2.2. Về nghĩa vụ giao nộp chứng cứ và biện pháp xử lý hành vi vi phạm

60

3.2.3. Về thủ tục tố tụng trong trƣờng hợp đƣơng sự vắng mặt hoặc đến muộn

61

3.2.4. Về biện pháp xử lý đƣơng sự không chấp hành các quyết định của Tòa án

62

trong thời gian giải quyết vụ án dân sự
3.2.5. Bổ sung quy định thế nào là hành vi không tôn trọng Tòa án, vi phạm nội

63


quy, trật tự phiên tòa và biện pháp xử lý
3.2.6. Về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng chi phí giám định, định giá

64

3.2.7. Về việc xử lý các hành vi không thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự

65

Kết luận Chƣơng 3

67

KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70

PHỤ LỤC

75


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc giải quyết vụ án dân sự (VADS) tại Tòa án là do nhu cầu giải quyết các quan

hệ pháp luật (QHPL) nội dung giữa các đƣơng sự nên các đƣơng sự là một thành phần chủ
yếu, không thể thiếu của VADS. Không có đƣơng sự thì cũng không thể có VADS tại Tòa
án. Để bảo đảm giải quyết nhanh chóng, đúng đắn các VADS, các đƣơng sự cần thực hiện
tốt nghĩa vụ của mình để không làm ảnh hƣởng đến thời hạn xét xử và kết quả giải quyết
VADS. Khi tham gia QHPL tố tụng dân sự (TTDS), các đƣơng sự thƣờng chỉ quan tâm
nhiều đến quyền của mình mà không để ý tới nghĩa vụ của mình đối với việc giải quyết
VADS. Do đó, ý thức chấp hành quy định của pháp luật tố tụng dân sự (PLTTDS) về nghĩa
vụ của đƣơng sự thƣờng không tốt dẫn đến gây trở ngại cho Tòa án, khó khăn cho các
đƣơng sự khác trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ. Đây cũng chính là một nguyên nhân
dẫn đến tình trạng án quá hạn của Tòa án ngày một nhiều, ảnh hƣởng đến thời hạn giải
quyết VADS, gây bức xúc cho các đƣơng sự khác. Mặt khác, việc áp dụng chế tài đối với
những hành vi vi phạm nghĩa vụ của đƣơng sự chƣa đƣợc thực thi trên thực tế khiến cho
việc hiện nghĩa vụ của đƣơng sự chƣa đƣợc tốt.
Nghĩa vụ của đƣơng sự và các biện pháp xử lý việc không thực hiện nghĩa vụ của
đƣơng sự trong PLTTDS Việt Nam đƣợc quy định tại chƣơng VI, chƣơng XIV và chƣơng
XXXII Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Thực tế cho thấy trong BLTTDS có những quy
định về nghĩa vụ của đƣơng sự (gọi tắt là nghĩa vụ tố tụng - NVTT) của đƣơng sự còn quy
định rải rác, chƣa thật cụ thể nhƣ quy định quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong cùng một
điều luật nhƣng không phân định rõ đâu là quyền và đâu là nghĩa vụ hoặc có những quy
định đến nay vẫn chƣa đƣợc ban hành nhƣ về thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt
đối với các hành vi cản trở hoạt động TTDS khiến cho Thẩm phán, Tòa án không có cơ sở
để xử lý các hành vi không thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự, dẫn đến việc chấp hành
NVTT của đƣơng sự chƣa đƣợc nghiêm, ảnh hƣởng đến thời hạn giải quyết VADS và làm
cho sự nghiêm minh của pháp luật không đƣợc bảo đảm.
Đúng nhƣ Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm
2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách
tƣ pháp đến năm 2020, đã nhận định: “Chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư



2
pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung”. Do đó, nhiệm vụ đặt ra trong cải
cách tƣ pháp là: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố
tụng tư pháp” trong đó cần “tiếp tục hoàn thiện thủ tục TTDS. Nghiên cứu thực hiện và
phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ
động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.” theo
hƣớng: “Hình thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý
bằng thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình
quản lý, tổ chức thi hành pháp luật”, “tạo điều kiện thuận lợi cho người dân Ttham gia tố
tụng, bảo đảm sự bình đẳng của công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài Nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam là hết sức cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay về cả lý luận và thực tiễn. Qua đó, có
cách nhìn tổng quan hơn, rõ ràng hơn về nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS. Từ đó, tìm ra
những thiếu sót, bấp cập trong việc áp dụng pháp luật để đƣa ra các biện pháp khắc phục
vƣớng mắc, kiến nghị sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay chƣa có một bài viết hay công trình khoa học nào nghiên cứu riêng, đầy đủ
và chi tiết về nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS. Nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS chỉ
đƣợc đề cập đến trong một phần bài viết, đề tài nghiên cứu về đƣơng sự nhƣ: Bài viết
“Người tham gia TTDS” của ThS. Nguyễn Việt Cƣờng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân
(TAND), số 8/2005, tr. 14 – 20; Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008, luận án tiến sỹ luật
học năm 2010 với đề tài “Đương sự trong TTDS - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
tác giả Nguyễn Triều Dƣơng và Khoá luận tốt nghiệp năm 2010 với đề tài “Đương sự trong
TTDS” của tác giả Lê Thị Phƣợng... Tất cả đều nghiên cứu về khái niệm, thành phần, năng
lực hành vi TTDS của đƣơng sự, quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự và thực tiễn đƣơng sự
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhƣng cũng chủ yếu nói về quyền của đƣơng sự,
còn nghĩa vụ của đƣơng sự thì chỉ nói về nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập và hậu quả
pháp lý của sự vắng mặt. Hoặc là chỉ nghiên cứu về một nghĩa vụ nào đó của đƣơng sự nhƣ
nghĩa vụ chứng minh của đƣơng sự có Khoá luận tốt nghiệp năm 1997 với đề tài “Nghĩa vụ
chứng minh của đương sự trong TTDS” của tác giả Lê Tiến Tý ... hay chỉ nghiên cứu về

bảo đảm sự có mặt của bị đơn nhƣ bài viết “Bảo đảm sự có mặt của bị đơn và những vấn đề
liên quan khi giải quyết VADS” của tác giả Lê Xuân Tri đăng trên Tạp chí TAND số 1 năm
1998... Các tác giả trên đã đƣa ra đƣợc một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện PLTTDS về


3
đƣơng sự nhƣng đến nay BLTTDS năm 2004 đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011 phần nào
đã giải quyết đƣợc một số bất cập và kiến nghị của các tác giả. Qua hơn một năm thi hành
BLTTDS sửa đổi, thực tế vẫn có những bất cập mới chƣa đƣợc giải quyết. Do đó, rất cần
những đề tài nghiên cứu chỉ ra đƣợc những bất cập đó của PLTTDS hiện hành, để từ đó đƣa
ra đƣợc những kiến nghị sửa đổi, bổ sung có tính khả thi, kịp thời hoàn thiện PLTTDS về
đƣơng sự nói chung, về NVTT của đƣơng sự nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, yêu cầu của đƣơng sự tại Tòa án các cấp thì
đƣơng sự có nghĩa vụ dân sự đối với đƣơng sự có quyền dân sự và có NVTT đối với Tòa
án. Trong TTDS có loại thủ tục giải quyết vụ án dân sự (VADS) và có loại thủ tục giải
quyết việc dân sự (VDS). Do giới hạn không cho phép nên đối tƣợng và phạm vi nghiên
cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ của đƣơng sự trong quá
trình giải quyết VADS tại Tòa án cấp sơ thẩm do luật TTDS điều chỉnh (hay còn gọi là
nghĩa vụ tố tụng). Trong số NVTT của đƣơng sự thì đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu về một số
nghĩa vụ quan trọng mà việc không thực hiện nghĩa vụ đó của đƣơng sự sẽ làm ảnh hƣởng
đến thời hạn và kết quả giải quyết đúng đắn của VADS đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và
Nhà nƣớc về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trƣơng cải cách tƣ
pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành khác nhau cũng đƣợc sử dụng nhƣ: phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, thống
kê, diễn giải, quy nạp ...
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ của
đƣơng sự trong TTDS, từ đó phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện
hành về NVTT của đƣơng sự và thực tiễn thực hiện các quy định này ở Tòa án; đồng thời
đi sâu nghiên cứu các biện pháp xử lý đối với trƣờng hợp vi phạm nghĩa vụ TTDS nhằm
đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự một cách đúng đắn, để từ đó tìm ra giải
pháp hoàn thiện các quy định pháp luật TTDS về NVTT của đƣơng sự giúp cho hoạt động
tố tụng tại Tòa án đƣợc bảo đảm, đƣợc tôn trọng và giữ gìn sự nghiêm minh của pháp luật.


4
Để đạt đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đƣợc xác định trên những khía
cạnh sau:
- Nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS nhƣ
khái niệm, ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS, mối quan hệ giữa
nghĩa vụ và quyền của đƣơng sự trong TTDS, mối quan hệ giữa nghĩa vụ TTDS của đƣơng
sự với hoạt động TTDS tại Tòa án, các yêu cầu bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự
trong TTDS.
- Nêu khái quát về sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam về nghĩa vụ của đƣơng sự.
- Nghiên cứu quy định của PLTTDS một số nƣớc về nghĩa vụ của đƣơng sự để tìm ra
những điểm phù hợp nhằm tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
- Phân tích làm rõ các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về nghĩa vụ của
đƣơng sự để tìm ra những hạn chế, bất cập của các quy định này.
- Tìm hiểu thực tiễn thực hiện các quy định về nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS,
để từ đó đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTDS về nghĩa vụ của
đƣơng sự.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về
nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS, luận văn có những đóng góp mới sau:
- Xây dựng đƣợc khái niệm nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS.

- Phân tích và làm sáng tỏ những điểm bất cập của các quy định pháp luật tố tụng về
nghĩa vụ của đƣơng sự.
- Nêu ra thực tiễn việc thực hiện NVTT của đƣơng sự tại một số Tòa án.
- Đƣa ra một sô kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về
nghĩa vụ của đƣơng sự và các biện pháp xử lý hành vi không thực hiện hoặc chậm thực
hiện NVTT của đƣơng sự.
7. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, có hệ thống
về nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần bổ sung và hoàn thiện lý luận về nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS, qua đó có cơ sở
lý luận để phân tích, đánh giá những bất cập của các quy định pháp luật TTDS hiện hành,


5
đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật TTDS về nghĩa vụ của đƣơng sự để làm
cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho Thẩm phán, Thƣ ký
trong công tác thực tiễn và có thể đƣợc sử dụng để đóng góp vào việc sửa đổi, bổ sung các
quy định của BLTTDS về nghĩa vụ của đƣơng sự và các biện pháp bảo đảm thực hiện
NVTT của đƣơng sự.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
Chƣơng 2: Nội dung pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ của đƣơng sự.
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ của đƣơng sự.


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự:
Nghĩa vụ mà tiếng Anh và tiếng Pháp đều viết là “obligation” có nguồn gốc từ danh
từ “obligatio” của tiếng Latin. Đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nghĩa vụ nhƣ:
“Nghĩa vụ là một QHPL được xác lập giữa hai chủ thể theo đó một chủ thể (chủ thể quyền người có quyền) có quyền yêu cầu chủ thể kia (chủ thể nghĩa vụ - người có nghĩa vụ) phải
hoàn thành một yêu cầu nhất định” [7, tr. 11]. Cuốn từ điển pháp luật của Pháp mang tên
“Petit Dictionnaire de Droit” định nghĩa: “Nghĩa vụ là một mối quan hệ pháp lý theo đó một
người, được gọi là trái chủ, có thể sử dụng phương cách cưỡng chế của quyền lực công
theo sự lựa chọn của anh ta để buộc người khác, người thụ trái xác định, chuyển giao tài
sản, làm hoặc không làm việc gì đó”[42]. Điều thứ 676 Bộ luật dân sự (BLDS) Trung Kỳ
1936 và Điều thứ 641 BLDS Bắc Kỳ đã định nghĩa: Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật
thực tế hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm gì đối với
một hay nhiều người nào đó.
Còn "tố tụng" là việc thƣa kiện (procès), "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định
những thủ tục về cách tố tụng (code deprocédure)" [9, tr. 302]. Sách Tiếng nói nôm na của
Lê Gia, dẫn giải 30.000 từ tiếng Việt thƣờng dùng có liên quan đến từ Hán Việt (NXB Văn
Nghệ TP HCM, 1999) giải thích chi tiết hơn "Tố tụng" là vạch tội và đƣa ra cửa công để
phân giải phải trái (trang 1027-1028). Thời Pháp thuộc, ngƣời ta dùng hai chữ "tố tụng" để
dịch chữ "procédure" (tiếng Pháp) hay “procedure” (tiếng Anh) đều bắt nguồn từ chữ La
tinh procedere nghĩa là tiền bƣớc, gợi lên ý tƣởng một đƣờng lối phải theo để đi đến chỗ
thắng kiện nhƣ trong Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Bắc Kỳ năm 1921; Bộ dân sự,
thƣơng sự tố tụng Trung kỳ năm 1935. Dƣới chế độ cũ ở miền Nam trƣớc năm 1975, cũng
có Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng năm 1972. Hoặc theo Pothier, một luật gia trứ danh
cuối thế kỷ XIX đã định nghĩa: “Tố tụng là hình thức phải theo để đệ đơn kiện, kháng biện,
can thiệp, cứu xét, phán xử, thượng khống và thi hành án văn” [31].
Nhƣ chúng ta đã biết, nghĩa vụ dân sự của một ngƣời bắt đầu từ khi ngƣời đó tham

vào một giao dịch dân sự và kết thúc khi ngƣời đó thực hiện xong nghĩa vụ của mình đối
với ngƣời có quyền dân sự. Nhƣng khi có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự xảy ra và


7
đƣợc giải quyết tại Tòa án thì chỉ khi có phán quyết của Tòa án bằng một bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật thì mới xác định đƣợc đƣơng sự nào có quyền dân sự và đƣơng
sự nào có nghĩa vụ dân sự. Lúc này, đƣơng sự có nghĩa vụ dân sự mới phải thực hiện nghĩa
vụ dân sự của mình. Nhƣng để có đƣợc phán quyết của Tòa án một cách nhanh chóng, đúng
đắn thì việc giải quyết tranh chấp phải diễn ra trong một quá trình TTDS mà ở đó đƣơng sự
vừa có quyền lại vừa có NVTT. Chỉ khi có việc giải quyết VADS tại Tòa án thì khi đó
đƣơng sự mới có NVTT. Việc giải quyết VADS đƣợc bắt đầu từ khi có đơn khởi kiện cho
đến khi có phán quyết của Tòa án và đƣơng sự phải thực hiện NVTT trong suốt quá trình
giải quyết VADS.
Trong các văn bản pháp luật tố tụng từ trƣớc đến nay đều không có khái niệm NVTT
của đƣơng sự mặc dù thuật ngữ “nghĩa vụ tố tụng dân sự” hoặc “nghĩa vụ tố tụng” đã đƣợc
sử dụng trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) nhƣ Điều
20 quy định Quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đƣơng sự, Điều 23 quy định Quyền và

nghĩa vụ tố tụng của ngƣời đại diện đƣợc uỷ quyền, Điều 27 quy định Sự kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng, Điều 29 quy định Quyền và nghĩa vụ tố tụng của tổ chức
xã hội. BLTTDS năm 2004 cũng sử dụng thuật ngữ “nghĩa vụ tố tụng” tại các Điều nhƣ 57,
62, 67, 74, 189, 192, 406. Đến năm 2011, BLTTDS 2004 đƣợc sửa đổi, bổ sung cũng vẫn
sử dụng thuật ngữ “nghĩa vụ tố tụng”. Trong các công trình nghiên cứu trƣớc đây cũng nhƣ
các giáo trình của các trƣờng đại học hay PLTTDS của nƣớc ngoài cũng sử dụng thuật ngữ
này nhƣng cũng không đƣa ra khái niệm nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS hay NVTT.
Tuy nhiên, từ các phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS
một cách khái quát nhƣ sau:
Nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự (gọi tắt là NVTT của đương sự) là việc
bắt buộc đương sự phải thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá

trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc
dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự.
- Nghĩa vụ tố tụng của đương sự có mối liên hệ mật thiết với nhiệm vụ và quá trình giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án
Các chủ thể của hoạt động TTDS rất đa dạng, bao gồm: Các cơ quan tiến hành tố
tụng và những ngƣời tham gia tố tụng (TGTT), ngƣời liên quan. Tùy thuộc vào mục đích
TGTT và địa vị pháp lý của mỗi chủ thể mà mối liên hệ giữa các chủ thể này với nhau


8
trong quá trình giải quyết VADS tại Tòa án là khác nhau. Trong các chủ thể đó, đƣơng sự là
chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong TTDS bởi lợi ích của họ là nguyên nhân và mục
đích của quá trình tố tụng. Mối liên hệ giữa đƣơng sự và Tòa án là rõ nét nhất trong quá
trình TTDS. Khi đƣơng sự thực hiện nghĩa vụ của mình là cơ sở làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể khác nhƣ Tòa án, Viện kiểm sát và những ngƣời TGTT khác.
Chẳng hạn, về nguyên tắc đƣơng sự có nghĩa vụ chính trong việc cung cấp chứng cứ, chứng
minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp và có căn cứ, Tòa án chỉ tiến hành việc thu thập
chứng cứ trong một số trƣờng hợp nhất định do pháp luật quy định khi mà đƣơng sự không
tự thu thập đƣợc và có yêu cầu.
Trong quá trình giải quyết VADS, đa phần nghĩa vụ của đƣơng sự là phải thực hiện
đối với yêu cầu của Tòa án. Sau khi có phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, nếu Viện kiểm
sát muốn kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án thì có quyền yêu cầu đƣơng sự cung
cấp hồ sơ, tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị thì
đƣơng sự sẽ có NVTT là cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với Viện kiểm sát. Ở một số quốc
gia nhƣ Cộng hòa Pháp thì đƣơng sự còn có nghĩa vụ với nhau nhƣ nghĩa vụ phải gửi các
tài liệu chứng cứ của mình cho phía bên kia nhƣng PLTTDS Việt Nam lại không quy định
các đƣơng sự có nghĩa vụ gì với nhau mà chỉ quy định đƣơng sự có nghĩa vụ đối với Tòa án
trong việc giải quyết VADS. Do đó, có thể nói rằng nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS
Việt Nam là nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc, với Tòa án và trong một số trƣờng hợp là đối với

Viện kiểm sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Tòa án là chủ thể đặc biệt duy nhất đƣợc thực hiện quyền lực của Nhà nƣớc để giải
quyết VADS. Để thực hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết VADS, Tòa án có
quyền yêu cầu đƣơng sự và những ngƣời TGTT khác phải thực hiện NVTT. Các đƣơng sự
có những nghĩa vụ chung mà bất cứ một đƣơng sự nào khi đến Tòa án cũng phải thực hiện
mặc dù không nhận đƣợc bất cứ một văn bản tố tụng tố tụng nào của Tòa án nhƣ nghĩa vụ
tôn trọng Tòa án, nghĩa vụ chấp hành nội quy phiên tòa. Có những nghĩa vụ mà đƣơng sự
phải thực hiện theo văn bản tố tụng của Tòa án nhƣ giấy triệu tập, thông báo, quyết định,
bản án... buộc các đƣơng sự phải thi hành nhƣ nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa
án, nghĩa vụ chấp hành các thông báo, quyết định của Tòa án... Có những nghĩa vụ đƣơng
sự vừa có thể tự thực hiện vừa có thể phải thực hiện theo yêu cầu của Tòa án nhƣ nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Mỗi một
VADS khác nhau lại có quá trình tiến hành tố tụng khác nhau nhƣ thủ tục giải quyết vụ án,


9
thủ tục giải quyết việc. Trong thủ tục giải quyết vụ án có thủ tục áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời, thủ tục hòa giải công nhận sự thỏa thuận, thủ tục đƣa vụ án ra xét xử. Trong
thủ tục giải quyết VADS thì có các thủ tục giải quyết các yêu cầu khác nhau, mỗi yêu cầu
lại có một thủ tục riêng. Nhƣ vậy, ở mỗi một VADS áp dụng thủ tục gì thì đƣơng sự sẽ phải
thực hiện nghĩa vụ theo quy định của thủ tục đó.
Tòa án với tƣ cách là cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tạo điều kiện để
cho các đƣơng sự thực hiện đƣợc đầy đủ các nghĩa vụ của mình. Các đƣơng sự thực hiện
các NVTT của mình một cách có thiện chí và đúng theo quy định của pháp luật thì sẽ bảo
đảm cho việc giải quyết VADS đƣợc nhanh chóng và đúng đắn. Trƣờng hợp đƣơng sự
chống đối, không hợp tác, không chấp hành các văn bản tố tụng của Tòa án, không đến Tòa
án theo giấy triệu tập... sẽ gây cản trở cho hoạt động tố tụng của vụ án đó, làm cho vụ án bị
quá hạn luật định hoặc nếu xét xử đƣợc thì có thể không thực sự đúng sự thật khách quan vì
chỉ xét xử theo tài liệu, chứng cứ của một bên cung cấp.
- Nghĩa vụ tố tụng của đương sự mang tính bắt buộc và phải chịu chế tài nếu không thực hiện

NVTT của đƣơng sự là do PLTTDS quy định, bắt buộc các đƣơng sự phải thực hiện
khi khởi kiện và tham gia vào quá trình giải quyết VADS. Các đƣơng sự đều phải thực hiện
những NVTT bình đẳng nhƣ nhau, không phân biệt tƣ cách TGTT. Cho dù đƣơng sự là
nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì đều có NVTT chung phải
thực hiện nhƣ nhau nhƣ đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ, đều phải tôn trọng Tòa án và chấp hành các văn bản tố tụng của
Tòa án.... Nhƣng khi giải quyết từng yêu cầu cụ thể của đƣơng sự và dựa vào từng kết quả
giải quyết yêu cầu đó mà các đƣơng sự lại có NVTT khác nhau nhƣ yêu cầu đƣợc chấp
nhận thì nguyên đơn không phải chịu án phí, còn bị đơn phải chịu án phí.... Chế tài áp dụng
đối với các đƣơng sự khi không thực hiện NVTT là khác nhau, phụ thuộc vào tƣ cách
TGTT của đƣơng sự đó nhƣ Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà nguyên đơn không
có mặt thì VADS sẽ đƣợc đình chỉ, còn bị đơn vắng mặt thì vụ án vẫn đƣợc đƣa ra xét xử
vắng mặt bị đơn...
- Nghĩa vụ tố tụng của đương sự có mối liên hệ mật thiết với nghĩa vụ dân sự của đương sự
và quyền tố tụng của đương sự
NVTT của đƣơng sự có mối liên hệ mật thiết với nghĩa vụ dân sự (NVDS) của
đƣơng sự. Chỉ có ngƣời có quyền dân sự và NVDS có tranh chấp tại Tòa án thì ngƣời đó
mới trở thành đƣơng sự và có NVTT. Chủ thể của NVDS là chủ thể của quan hệ pháp luật
nội dung (quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại). Khi chủ thể của


10
quan hệ pháp luật nội dung khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp và đƣợc Tòa án
thụ lý giải quyết thì họ trở thành đƣơng sự - chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS và họ có
NVTT. Việc thực hiện NVTT của đƣơng sự góp phần bảo đảm cho việc bảo vệ quyền và
lợi ích về dân sự của mình.
Khi TGTT tại Tòa án, cùng với việc đƣợc hƣởng các quyền tố tụng, đƣơng sự cũng
phải thực hiện các NVTT. Đặc trƣng cơ bản của quan hệ pháp luật TTDS là các đƣơng sự
có quyền bình đẳng về quyền và NVTT. Mọi quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự đều có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Thông thƣờng, quyền tố tụng có trƣớc, NVTT có sau. Ví dụ nhƣ:

nguyên đơn có quyền khởi kiện khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm nên
khi khởi kiện nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh rằng quyền và lợi ích của nguyên
đơn bị xâm phạm. Bị đơn là ngƣời bị nguyên đơn khởi kiện nhƣng cũng có quyền tố tụng
trƣớc là quyền đƣợc Tòa án thông báo về việc bị khởi kiện rồi mới phải thực hiện NVTT là
phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của ngƣời khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có (Điều 56, 58, 59, 175 BLTTDS 2004). Việc đƣơng sự
không thực hiện NVTT ảnh hƣởng đến chính đƣơng sự đó và những chủ thể khác. Đối với
bản thân họ sẽ phải chịu chế tài nhƣ bị phạt tiền, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của đƣơng
sự .... Đối với Cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng thì gây khó khăn cho
việc giải quyết vụ án, cản trở quá trình tìm ra công lý của quan Tòa. Đối với các đƣơng sự
khác thì gây mất thời gian, chi phí đi lại hoăc gây khó khăn trong quá trình chứng minh của
ngƣời đó. Trong khi đó, đƣơng sự không thực hiện quyền của mình thì không phải chịu gì
cả. Trên thực tế, quyền tố tụng là vấn đề các đƣơng sự quan tâm hơn là NVTT và nếu có
quan tâm thì đƣơng sự bên này chỉ quan tâm đến NVTT của đƣơng sự bên kia. Cơ quan
tiến hành tố tụng hay ngƣời tiến hành tố tụng thì quan tâm đến việc chấp hành NVTT của
các đƣơng sự, còn các đƣơng sự chỉ quan tâm đến quyền của mình khi TGTT. Bên cạnh đó,
có một số nghĩa vụ của đƣơng sự cũng là quyền của đƣơng sự khi tham gia TTDS nhƣ
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Về nguyên tắc, để bảo đảm việc giải quyết VADS đƣợc khách quan, đúng pháp luật
thì các đƣơng sự phải bình đẳng với nhau về nghĩa vụ TTDS. NVTT của các đƣơng sự là
bình đẳng giữa nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không phân
biệt cá nhân hay cơ quan, tổ chức, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngƣỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng
không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu.
NVDS của đƣơng sự do các bên thỏa thuận, pháp luật quy định hoặc theo phán quyết
của Tòa án. Còn NVTT của đƣơng sự là do pháp luật TTDS quy định. Khi đƣơng sự có
điều kiện thực hiện đầy đủ các NVTT cũng chính là lúc họ có điều kiện nhất trong việc bảo
vệ các quyền và nghĩa vụ dân sự.



11
- Nghĩa vụ tố tụng của đương sự có thể được thực hiện thông qua người đại diện và có thể
được chuyển giao cho người khác
Vấn đề này phụ thuộc vào NVDS, bởi chỉ có những NVDS đƣợc chuyển giao cho
ngƣời khác (nhƣ NVDS về tài sản) thì NVTT của ngƣời đó mới đƣợc chuyển giao. Trong
quá trình Tòa án giải quyết VADS, đƣơng sự có thể trực tiếp hoặc thông qua ngƣời đại diện
hợp pháp tham gia vào bất kỳ giai đoạn nào của quá trình này để thực hiện các NVTT.
Ngƣời đại diện của đƣơng sự là ngƣời TGTT thay mặt đƣơng sự thực hiện quyền và NVTT
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự trƣớc Tòa án. Ngƣời đại diện có thể là
đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Ngƣời đại diện theo pháp luật có đầy
đủ tất cả các NVTT của đƣơng sự, trừ quyền hòa giải trong vụ án ly hôn, còn ngƣời đại
diện theo ủy quyền chỉ phải thực hiện NVTT trong phạm vi đƣợc ủy quyền.
Trong quá trình Tòa án đang giải quyết VADS có thể có một trong các đƣơng sự là
cá nhân chết hoặc đƣơng sự là cơ quan tổ chức đang TGTT phải chấm dứt hoạt động, bị
giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì NVTT của đƣơng
sự sẽ đƣợc chuyển giao cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa NVDS về tài sản.
Trƣờng hợp NVDS của họ không đƣợc kế thừa thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ việc
giải quyết VADS.
Từ khái quát và đặc điểm của nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS nhƣ trên, có thể
đƣa ra khái niệm cụ thể hơn về NVTT của đƣơng sự nhƣ sau:
Nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự (gọi tắt là NVTT của đương sự) là việc
bắt buộc đương sự phải thực hiện đối với Nhà nước, với cơ quan tiến hành tố tụng dân sự,
với đương sự và với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, nếu không thực hiện thì sẽ bị áp dụng
chế tài theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể
tham gia tố tụng và bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng,
chính xác, công minh, đúng pháp luật.
1.2. Cơ sở quy định nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
Việc pháp luật quy định đúng, đầy đủ và hợp lý NVTT của đƣơng sự trong TTDS là
một bảo đảm cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn VADS. Vì vậy, việc làm rõ
đƣợc các cơ sở quy định NVTT của đƣơng sự là vô cùng cần thiết trong việc đánh giá các

quy định của PLTTDS hiện hành về NVTT của đƣơng sự. Qua việc nghiên cứu cho thấy,
PLTTDS hiện hành quy định về NVTT của đƣơng sự dựa trên những cơ sở sau:
1.2.1. Cơ sở lý luận:
Khi các chủ thể của các QHPLDS thực hiện việc yêu cầu Tòa án giải quyết tranh
chấp, giải quyết yêu cầu và đƣợc Tòa án thụ lý thì các chủ thể của QHPLDS đƣợc Tòa án
giải quyết trở thành đƣơng sự trong TTDS. Lúc này, đƣơng sự không chỉ dừng lại ở việc có


12
đƣợc các quyền và NVDS mà còn đƣợc PLTTDS quy định cho các chủ thể này các quyền
và NVTT khi TGTT trong việc giải quyết VADS. Các quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng
sự có mối liên hệ mật thiết với các quyền và NVDS của đƣơng sự, trong đó, quyền và
NVDS của đƣơng sự và nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết VADS của Tòa án là nền tảng để
ghi nhận các quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự. Đồng thời việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự là bảo đảm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích về dân sự. Vì
vậy, xét về mặt lý luận việc ghi nhận nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự phải dựa trên cơ sở, phù
hợp với quyền và NVDS, cụ thể đƣợc thể hiện nhƣ sau:
- Khi TGTT tại Tòa án để giải quyết VADS, đƣơng sự có quyền về dân sự phải có
NVTT là chứng minh rằng họ là chủ thể có quyền, lợi ích về dân sự đang có tranh chấp.
Đồng thời họ có nghĩa vụ chứng minh đƣơng sự kia là ngƣời có nghĩa vụ về dân sự.
- Các chủ thể trong QHDS bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý, tức là bình đẳng
trong việc hƣởng quyền và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ, cũng nhƣ chịu trách
nhiệm trong các QHDS mà mình tham gia. Vì vậy, việc ghi nhận các NVTT của đƣơng sự
cũng phải dựa trên cơ sở bảo đảm các đƣơng sự bình đẳng với nhau về NVTT. Sự bình
đẳng về NVTT của đƣơng sự trong TTDS không đồng nghĩa với việc các đƣơng sự đều có
nghĩa vụ giống nhau mà đƣợc hiểu là ngoài những NVTT giống nhau của đƣơng sự thì mỗi
đƣơng sự TGTT với tƣ cách khác nhau sẽ có những NVTT khác nhau. Xét một cách tổng
thể thì các đƣơng sự TGTT với tƣ cách khác nhau nhƣng bình đẳng với nhau về điều kiện
để TGTT, điều kiện thực hiện NVTT.
- Việc quy định NVTT của đƣơng sự phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa giữa việc

ghi nhận NVTT của đƣơng sự với nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết VADS của Tòa án và
Viện kiểm sát cũng nhƣ quyền và NVTT của các chủ thể tố tụng khác nhƣ ngƣời làm
chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch .... đúng với vai trò của mỗi chủ thể này trong
TTDS. Bởi vì, cùng với việc quy định quyền của đƣơng sự thì đồng thời phải xác định
nghĩa vụ của các chủ thể khác trong việc bảo đảm quyền của đƣơng sự và ngƣợc lại, khi các
chủ thể trong TTDS có các quyền tố tụng thì đồng thời xác định NVTT của chủ thể khác
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VADS đƣợc nhanh chóng và đúng đắn. Trong mối quan
hệ trung tâm giữa Tòa án với đƣơng sự, việc ghi nhận các NVTT của đƣơng sự phải bảo
đảm sự tôn trọng của đƣơng sự đối với Tòa án, không gây khó khăn và cản trở Tòa án thực
hiện quyền lực Nhà nƣớc, bảo đảm cho Tòa án giải quyết VADS một cách kịp thời và đúng
đắn nhƣng Tòa án cũng phải có nghĩa vụ bảo đảm cho đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và


13
NVTT của mình.
Bổ sung hay mở rộng quyền của đƣơng sự phải đi đôi với việc xác định NVTT của
đƣơng sự đó khi TGTT. Đồng thời, quy định các quyền hạn của Tòa án đối với đƣơng sự để
Tòa án có cơ sở tiến hành giải quyết và áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời những hành vi
vi phạm NVTT của đƣơng sự nhằm thực hiện đƣợc mục đích của TTDS là bảo đảm việc
giải quyết VADS đƣợc nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng pháp luật
1.2.2. Cơ sở thực tiễn:
Thực tế hiện nay, các tranh chấp dân sự tại Tòa án ngày càng nhiều [xem Phụ lục 1],
phong phú, đa dạng và phức tạp đòi hỏi Tòa án phải giải quyết nhanh chóng, đúng đắn và
xử lý các hành vi vi phạm theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Nhƣng, do
nhiều nguyên nhân khác nhau đã dẫn đến thời hạn theo quy định để giải quyết một VADS
bị kéo dài, ảnh hƣởng đến tiến độ giài quyết VADS của Tòa án, gây mất công sức đi lại và
tiền của đƣơng sự, mất thời gian của đƣơng sự và của Tòa án.
Một trong những nguyên nhân đó là do trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật của
đƣơng sự còn rất hạn chế dẫn đến ý thức chấp hành pháp luật kém nên đã xảy ra tình trạng
đƣơng sự không thực hiện NVTT, có hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án. Trƣớc thực

tế đó, đòi hỏi PLTTDS phải quy đinh rõ ràng NVTT của đƣơng sự nhƣ phải quy định rõ đâu là
quyền, đâu là nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự khi TGTT tại Tòa án, để họ dễ nhận biết và thực
hiện, đồng thời phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc và kịp thời những hành vi vi phạm NVTT
của đƣơng sự đã gây cản trở cho hoạt động tố tụng của Tòa án.
Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan làm cho quá trình giải
quyết VADS có sai lầm dẫn đến án bị hủy đi hủy lại nhiều lần, gây mất lòng tin của đƣơng
sự, dẫn đến sự chống đối của họ đối với quá trình hoạt động tố tụng của Tòa án trong việc
giải quyết VADS. Sai lầm này do những ngƣời tiến hành tố tụng đã chịu sự tác động, chi
phối từ nhiều phía, có thể từ cơ quan, tổ chức hữu quan ở địa phƣơng, từ cơ quan quản lý
cấp trên, từ những ngƣời thân thích hoặc quen biết họ hoặc do hạn chế về chuyên môn, thái
độ sách nhiễu, thiếu tinh thần trách nhiệm làm cho đƣơng sự không tin vào phán quyết của
Tòa án nên đã có hành vi không thực hiện NVTT của mình, cản trở hoạt động tố tụng của
Tòa án.
Việc nhà nƣớc quy định các NVTT của đƣơng sự nhằm đảm bảo điều kiện thuận lợi
để cho các bên đƣơng sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về nội dung của mình; tạo
điều kiện thuận lợi cho các bên đƣơng sự thực hiện quyền TTDS của mình; giúp cho việc


14
giải quyết VADS đƣợc nhanh chóng và đúng đắn. Việc các đƣơng sự thực hiện NVTT nhƣ
thế nào sẽ có ý nghĩa nhất định đối với quá trình giải quyết VADS. Do vậy, trong quá trình
tố tụng các đƣơng sự phải thực hiện NVTT của mình một cách có thiện chí và đúng theo
quy định của pháp luật.
1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.3.1. Tính thống nhất, đồng bộ, phù hợp của pháp luật về nghĩa vụ của đương sự trong
tố tụng dân sự
Nghĩa vụ của đƣơng sự và việc bảo đảm nghĩa vụ của đƣơng sự là hai mặt không thể
tách rời nhau. PLTTDS nếu chỉ dừng lại ở việc quy định đầy đủ nghĩa vụ của đƣơng sự thì
vẫn chƣa đủ mà cẩn phải có các quy định bảo đảm cho việc đƣơng sự thực hiện tốt nghĩa vụ
của mình khi TGTT tại Tòa án. Bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS

là trách nhiệm thuộc về Tòa án và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
Về cơ bản PLTTDS hiện hành đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ của đƣơng sự nhƣ quy định các biện pháp bảo đảm cần thiết nhƣ cảnh cáo, phạt
tiền ngƣời vi phạm, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của đƣơng sự... Tuy nhiên, vẫn còn
thiếu những quy định cụ thể nhằm bảo đảm sự trợ giúp của cá nhân, cơ quan, tổ chức để
đƣơng sự có thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Đồng thời, còn thiếu những quy định cụ thể
để xử lý các hành vi vi phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự nhƣ thủ tục, thẩm
quyền xử phạt, mức tiền phạt hành vi vi phạm nghĩa vụ. Thực tế đó chứng tỏ PLTTDS hiện
hành cần nhanh chóng hoàn thiện, đồng bộ với luật nội dung, bảo đảm tính nghiêm minh,
công bằng, dân chủ và pháp chế, từ đó có những quy định cụ thể, thống nhất để bảo đảm
việc thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự nhất là bảo đảm việc bị đơn và ngƣời có nghĩa vụ liên
quan đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Cần có sự thống nhất về nhận
thức cũng nhƣ bổ sung quy định của PLTTDS về việc đƣơng sự không thực hiện NVTT thì
sẽ không đƣợc hƣởng quyền tố tụng. Cần thiết có thể bổ sung quy định các chế tài nghiêm
khắc hơn nữa đối với việc đƣơng sự không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và không
tôn trọng Tòa án nhƣ phạt tiền nặng hơn hoặc có thể bị áp dụng biện pháp dẫn giải đƣơng
sự đó đến Tòa án hoặc không đƣợc hƣởng một số quyền tố tụng...
Để bảo đảm cho việc áp dụng chế tài đối với đƣơng sự không thực hiện NVTT đạt
hiệu quả, cần thiết phải ban hành trình tự, thủ tục, biện pháp áp dụng và thi hành chế tài đó
có tính khả thi nhất. Tránh việc Tòa án ban hành quyết định áp dụng các chế tài mà
PLTTDS quy định nhƣng không thể thực thi trên thực tế. Ví dụ nhƣ: Tòa án quyết định


15
phạt tiền đƣơng sự nhƣng Cơ quan thi hành án dân sự không thể thu tiền của đƣơng sự
đƣợc do họ không chịu nộp tiền hoặc không có tiền để nộp hoặc chi phí để Cơ quan thi
hành án phải bỏ ra để cƣỡng chế thi hành lớn hơn số tiền có thể thu đƣợc. Vậy giải pháp
trong vấn đề này nhƣ thế nào cần có sự sửa đổi, bổ sung PLTTDS một cách toàn diện và
đồng bộ mới tạo điều kiện để bảo đảm cho việc thực hiện tốt NVTT của đƣơng sự.
1.3.2. Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự

Việc thực hiện tốt NVTT của đƣơng sự nhất là bảo đảm sự có mặt của bị đơn và
ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn sẽ quyết định quá trình giải
quyết VADS nhanh hay chậm, có hiệu quả hay không. Thực tế, trong quá trình giải quyết
VADS có nhiều trƣờng hợp bị đơn hoặc ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về
phía bị đơn đã không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, cố tình trốn tránh, làm cho
vụ án bị kéo dài, gây khó khăn cho việc Tòa án giải quyết vụ án. Có trƣờng hợp đƣơng sự
không những cố tình trốn tránh, từ chối khai báo, mà còn thách thức cán bộ Tòa án, khi cán
bộ Tòa án trực tiếp đến nhà đƣơng sự để lấy lời khai, xem xét, định giá... Còn về phía
nguyên đơn thì nhiều trƣờng hợp chƣa thực sự tích cực trong việc thu thập chứng cứ mà có
tƣ tƣởng ỷ lại cho Tòa án. Nguyên nhân của sự việc đó có thể do ý thức chấp hành pháp
luật của đƣơng sự không tốt hoặc do đƣơng sự không có lòng tin đối với việc giải quyết
VADS của Tòa án. Do đó, có thể nói rằng ý thức chấp hành pháp luật của đƣơng sự là một
trong những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện tốt NVTT của đƣơng sự.
Ý thức chấp hành pháp luật của đƣơng sự còn bị ảnh hƣởng bởi sự tƣ vấn mang tính
chất cố tình gây khó khăn cho hoạt động tố tụng của Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của đƣơng sự đó về dân sự của một số luật sƣ, luật gia với mục đích bảo vệ thân chủ của
mình đến cùng, bất chấp việc tƣ vấn đó có thể gây khó khăn, cản trở cho hoạt động tố tụng
của Tòa án.
1.3.3. Trách nhiệm của Tòa án
Tòa án là cơ quan thực hiện quyền lực của Nhà nƣớc trong việc xét xử, giải quyết
VADS, là cơ quan tiến hành tố tụng và là chủ thể có quyền áp dụng các thủ tục và biện pháp
tố tụng đối với đƣơng sự. Do đó, trách nhiệm của Tòa án cũng rất quan trọng trong việc thực
hiện quyền của mình đối với NVTT của đƣơng sự. Tòa án thực hiện quyền của mình một
cách khách quan, vô tƣ, công minh và bình đẳng đối với tất cả các đƣơng sự, không phân biệt
đƣơng sự đó là nguyên đơn, bị đơn hay ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là cá nhân


16
hay cơ quan, tổ chức thì sẽ tạo điều kiện cho đƣơng sự thực hiện đƣợc NVTT của mình một
cách tốt nhất và tạo đƣợc lòng tin của đƣơng sự vào việc giải quyết VADS.

Khi thực hiện quyền của Tòa án trong việc yêu cầu đƣơng sự thực hiện NVTT nhƣ
triệu tập đƣơng sự đến Tòa án, thì Tòa án cũng cần phải có cách áp dụng một cách linh hoạt
và khoa học nhƣ: Việc triệu tập đƣơng sự trực tiếp hay gián tiếp qua bƣu điện, qua chính
quyền địa phƣơng thì phải đảm bảo giấy đó đến tay đƣơng sự trƣớc đó ít nhất từ một đến
hai ngày để họ còn sắp xếp công việc ở cơ quan và gia đình thì mới có thể có mặt đúng giờ
theo giấy triệu tập của Tòa án đƣợc. Hoặc đƣơng sự đã thông báo trƣớc với Tòa án là họ
bận công việc vào buổi sáng thì Tòa án cần triệu tập họ vào buổi chiều. Khi đã triệu tập
đƣợc đƣơng sự đến Tòa án thì cần tận dụng hết thời gian đƣơng sự có mặt ở Tòa án để thực
hiện các thủ tục tố tụng, tránh việc chỉ triệu tập lên để giao tài liệu, chứng cứ hoặc nhận văn
bản tố tụng của Tòa án rồi lại để họ về sẽ khiến cho đƣơng sự không coi việc có mặt là
quan trọng. Ngoài ra, cán bộ Tòa án cũng cần phải nâng cao trách nhiệm trình độ, năng lực
chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp, thái độ tiếp đƣơng sự thì mới tạo đƣợc niềm tin cho
đƣơng sự vào việc giải quyết VADS, từ đó họ sẽ thực hiện tốt NVTT của mình.
1.4. Quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới về nghĩa vụ của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự
PLTTDS của các nƣớc trên thế giới quy định về nghĩa vụ của đƣơng sự đều có
những điểm tƣơng đồng và cũng có những điểm khác biệt nhất định. Tìm hiểu các quy định
về nghĩa vụ của đƣơng sự trong pháp luật một số nƣớc điển hình cho mỗi hệ thống pháp
luật là điều cần thiết để tham khảo góp phần vào việc hoàn thiện PLTTDS Việt Nam về
nghĩa vụ của đƣơng sự.
BLTTDS của nước Cộng hòa Pháp đã quy định đƣơng sự có một số nghĩa vụ tố tụng
nhƣ: nghĩa vụ viện dẫn, giải thích và chứng minh các tình tiết cụ thể làm căn cứ cho các
yêu cầu của mình (Điều 6, 8, 9); có nghĩa vụ giúp thẩm phán thực hiện các biện pháp thẩm
cứu và phải chịu mọi hậu quả trong trƣờng hợp không giúp đỡ hoặc từ chối giúp đỡ; nếu
một bên đƣơng sự đang nắm giữ một yếu tố cấu thành chứng cứ, thì theo yêu cầu của bên
kia, thẩm phán có thể ra lệnh cho họ cung cấp yêu tố cấu thành chứng cứ đó, trong trƣờng
hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để cƣỡng chế (Điều 11); có nghĩa vụ cung
cấp những văn bản giải thích pháp luật cần thiết để giải quyết vụ tranh chấp theo yêu cầu
của Thẩm phán (Điều 13); phải thông báo cho nhau, trong một thời gian hợp lý, những tình
tiết làm căn cứ cho những yêu cầu của mình, những chứng cứ đã xuất trình và căn cứ pháp

luật đã viện dẫn, nhằm bảo đảm cho mỗi bên đƣơng sự có thể tự tổ chức việc bảo vệ quyền
lợi của mình (Điều 15); có nghĩa vụ tôn trọng Tòa án (Điều 24); bên đƣơng sự đƣa ra một


17
giấy tờ, tài liệu nào đó làm căn cứ có nghĩa vụ phải trao đổi giấy tờ, tài liệu đó cho các bên
khác trong cùng vụ kiện (Điều 132); các bên đƣơng sự phải có mặt trƣớc Tòa, trƣớc thẩm
phán hoặc trƣớc Hội đồng xét xử (HĐXX) theo yêu cầu của Thẩm phán chịu trách nhiệm
thẩm cứu vụ kiện và của HĐXX (Điều 184, 185); các bên đƣơng sự phải tự mình trả lời
những câu hỏi đặt ra cho họ mà không đƣợc đọc một bản trả lời sẵn nào (Điều 191);
Về hậu quả pháp lý đối với việc đƣơng sự không thực hiện nghĩa vụ, BLTTDS Pháp
quy định: đƣơng sự bên kia nhận đƣợc tài liệu, giấy tờ phải hoàn lại cho đƣơng sự bên này,
nếu không hoàn lại có thể bị phạt tiền và cƣỡng chế (Điều 136); khi Thẩm phán yêu cầu
bên nào phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định mà bên đó không nộp đúng hạn hoặc
không chịu nộp hoặc từ chối nộp thì vụ kiện không đƣợc tiếp tục (Điều 269, 271); đƣơng sự
có thể bị phạt tiền từ 100 đến 1.000 Phờ-răng, bồi thƣờng thiệt hại nếu yêu cầu thay đổi
Thẩm phán không đƣợc chấp nhận (Điều 353); nếu không có lý do chính đáng mà nguyên
đơn không ra trƣớc Tòa , bị đơn có thể yêu cầu cứ xét xử tranh chấp coi nhƣ có mặt cả hai
bên. Thẩm phán cũng có thể mặc nhiên tuyên bố việc nguyên đơn triệu tập bị đơn ta Tòa là
vô hiệu (Điều 468); nếu sau khi đã đến phiên tòa, một trong các đƣơng sự không chịu thực
hiện các hành vi tố tụng trong thời hạn yêu cầu, Thẩm phán sẽ xử nhƣ có tranh trụng giữa
hai bên trên cơ sở những tài liệu hiện có; nếu không đƣơng sự nào thực hiện các hành vi tố
tụng trong thời hạn yêu cầu, thẩm phán có thể mặc nhiên xóa sổ thụ lý vụ kiện và các bên
không có quyền kháng cáo quyết định này (Điều 468, 469); bị đơn vắng mặt có thể đƣợc
triệu tập lại theo yêu cầu của nguyên đơn hoặc theo quyết định của thẩm phán, nếu giấy
triệu tập lần trƣớc không đến tay họ (Điều 471); nếu bị đơn không ra Tòa, việc kiện vẫn có
thể đƣợc xét xử và quyết định về nội dung. Khi có nhiều bị đơn đƣợc triệu tập về cùng một
việc, nếu một ngƣời không đến, việc xét xử coi nhƣ có mặt tất cả các bị đơn nếu quyết định
còn đƣợc kháng cáo (Điều 472); bên thua kiện phải chịu án phí, trừ khi Tòa án có quyết
định ghi rõ đầy đủ căn cứ buộc bên kia phải chịu toàn bộ hoặc một phần án phí (Điều 696);

giấy triệu tập gửi bị đơn có giá trị nhƣ giấy gọi ra Tòa và ghi rõ nếu bị đơn vắng mặt tại
phiên tòa, Tòa chỉ dựa trên các tài liệu do nguyên đơn cung cấp và có thể ra quyết định bất
lợi cho bị đơn (Điều 847-2)
BLTTDS Liên bang Nga năm 2003 quy định: Các bên có NVTT nhƣ nhau (Điều 38);
ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có NVTT nhƣ nguyên đơn (Điều 42); ngƣời có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập có NVTT nhƣ các bên (Điều 43);
trong trƣờng hợp một bên không thể TGTT (công dân chết, thay đổi pháp nhân do giải thể,
chấm dứt; chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ và những trƣờng hợp thay thế
khác), thì bên đó đƣợc thay thế bằng ngƣời kế thừa NVTT. Việc thay thế đƣợc tiến hành ở
bất cứ giai đoạn nào của tố tụng (Điều 44); trong trƣờng hợp đƣơng sự không thực hiện
NVTT thì phải chịu hậu quả pháp lý do PLTTDS quy định (Điều 34, 35); mỗi bên có nghĩa


18
vụ phải chứng minh những tình tiết làm cơ sở cho những yêu cầu của mình hay sự phản đối
yêu cầu của bên kia (Điều 56); nếu ngƣời đƣợc tống đạt từ chối tiếp nhận giấy gọi hoặc
giấy báo của Tòa án thì ngƣời đƣợc tống đạt coi nhƣ đã đƣợc thông báo về thời gian và địa
điểm xét xử vụ án hoặc thơi gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng (Điều 117);
những ngƣời TGTT và những ngƣời có mặt tại phòng xử án có nghĩa vụ tuân thủ trật tự
phiên tòa (Điều 158). Ngƣời vi phạm bị chủ tọa phiên tòa cảnh cáo. Nếu vi phạm trật tự
phiên tòa lần thứ hai thì bị đuổi khỏi phòng xử án một thời gian hoặc trong toàn bộ thời
gian xét xử hoặc bị phạt tiền với mức dƣới 10 lần lƣơng tối thiểu. Trƣờng hợp hành vi của
ngƣời vi phạm trật tự phiên tòa có dấu hiệu tội phạm, Thẩm phán chuyển cho Kiểm sát viên
khởi tố về hình sự (Điều 159); đƣơng sự đã đƣợc triệu tập nhƣng vắng mặt một trong những
ngƣời TGTT mà không đƣợc thông báo thì tạm hoãn phiên toà (Khoản 2 Điều 167); Tòa án
có quyền xét xử vụ án trong trƣờng hợp vắng mặt một trong những ngƣời TGTT đã đƣợc
thông báo về thời gian và địa điểm mở phiên toà, nếu ngƣời đó không đƣa ra lý do vắng
mặt hoặc Tòa án cho rằng lý do vắng mặt là không chính đáng. Tòa án có quyền xét xử vụ
án với sự vắng mặt của bị đơn đã đƣợc thông báo về thời gian và địa điểm mở phiên toà,
nếu bị đơn không thông báo cho Tòa án lý do vắng mặt chính đáng của mình và không yêu

cầu Tòa án xét xử vụ án với sự vắng mặt của bị đơn.
BLTTDS Trung Quốc quy định các đƣơng sự có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập,
nguyên đơn có giấy gọi nhƣng không có lý do chính đáng mà không ra toà, có thể xử vắng
mặt, các đƣơng sự có nghĩa vụ tuân thủ kỷ luật phiên tòa, hay đƣơng sự có trách nhiệm đƣa
ra chứng cứ về những chủ trƣơng của mình nêu ra (Điều 64).
Theo pháp luật TTDS của Anh thì đƣơng đƣơng sự không thanh toán đầy đủ án phí
sẽ bị phạt tiền [21, tr.105]. Khi nhận đƣợc giấy triệu tập của Tòa án, bị đơn phải trình diện
trƣớc Tòa hoặc ít nhất phải phúc đáp Tòa án trong thời hạn 14 ngày. Bị đơn không trình
diện hoặc không nộp bản tự bào chữa thì quyết định triệu tập đƣơng sự đƣơng nhiên có hiệu
lực nhƣ một quyết định xét xử vắng mặt và có hiệu lực thi hành. Khi bị đơn phản đối đơn
kiện thì luật sƣ tƣ vấn của nguyên đơn phải nộp bản giải trình nội dung đơn khởi kiện trong
thời hạn 14 ngày (có thể gia hạn nếu đƣợc sự đồng ý của bị đơn). Trong thời hạn 14 ngày
tiếp theo, luật sự tƣ vấn của bị đơn phải đáp lại bằng một văn bản tự bào chữa và các yêu
cầu phản tố nếu có. Tại phiên xét xử, luật sƣ biện hộ của các bên thay mặt cho các bên trình
bày các tình tiết của vụ án (tr.170-172).
Phần nhiều các đƣơng sự trong Pháp luật TTDS Mỹ cũng trao quyền cho đại diện là
các luật sƣ để thực hiện NVTT. Các đƣơng sự đều bình đẳng trƣớc pháp luật, không phân
biệt địa vị xã hội, cơ quan nhà nƣớc với doanh nghiệp tƣ nhân. Khi khởi kiện, nguyên đơn
phải thực hiện việc “phát lệnh khởi kiện” cho bị đơn bằng cách gửi bản sao của đơn khởi
kiện và giấy triệu tập thông qua một cảnh sát trƣởng, một viên thừa phát lại hoặc gửi qua


19
đƣờng bƣu điện ... tùy theo quy tắc của Tòa án thụ lý vụ kiện. Bị đơn khi nhận đƣợc trát của
Tòa án có nghĩa vụ phải nộp một “tờ biện minh” để trả lời cho đơn khởi kiện của nguyên
đơn. Các đƣơng sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ để chứng minh cho các yêu cầu của
mình; đƣơng sự thua kiện có nghĩa vụ phải chịu án phí; đƣơng sự kháng cáo phải nộp tiền
dự phí kháng cáo. Một trong những thủ tục tố tụng bắt buộc đối với đƣơng sự là các đƣơng
sự phải tuyên thệ rằng việc trình bày của họ là ngay tình. Nếu đƣơng sự gian trá, Tòa án có
thể trừng phạt đƣơng sự đã cố tình tạo ra sự gian trá đó.

So sánh các quy định của PLTTDS nƣớc ngoài với PLTTDS Việt Nam nhận thấy:
PLTTDS Việt Nam đã tiếp thu và học hỏi cách làm luật TTDS của nƣớc Cộng hòa liên
bang Nga trƣớc đây cả về cách bố cục, cách hành văn và quy định về NVTT của đƣơng sự.
Nhìn sang các nƣớc khác, chúng ta thấy cần phải học hỏi và rút kinh nghiệm quy định của
họ về NVTT mang tính chất thực sự tranh tụng và bảo đảm việc đƣơng sự thực hiện NVTT
một cách tốt nhất. Một số quy định về NVTT của đƣơng sự của các nƣớc đó mà PLTTDS
Việt Nam có thể tiếp thu để sửa đổi, bổ sung nhƣ quy định: đƣơng sự có nghĩa vụ viện dẫn,
giải thích các tình tiết cụ thể làm căn cứ cho các yêu cầu của mình; có nghĩa vụ cung cấp
những văn bản giải thích pháp luật cần thiết để giải quyết vụ tranh chấp; phải thông báo cho
nhau, trong một thời gian hợp lý, những tình tiết làm căn cứ cho những yêu cầu của mình,
những chứng cứ đã xuất trình và căn cứ pháp luật đã viện dẫn, nhằm bảo đảm cho mỗi bên
đƣơng sự có thể tự tổ chức việc bảo vệ quyền lợi của mình; bên đƣơng sự đƣa ra một giấy
tờ, tài liệu nào đó làm căn cứ có nghĩa vụ phải trao đổi giấy tờ, tài liệu đó cho các bên khác
trong cùng vụ kiện. Đƣơng sự bên kia nhận đƣợc tài liệu, giấy tờ phải hoàn lại cho đƣơng
sự bên này, nếu không hoàn lại có thể bị phạt tiền và cƣỡng chế; khi thẩm phán yêu cầu bên
nào phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định mà bên đó không nộp đúng hạn hoặc không
chịu nộp hoặc từ chối nộp thì vụ kiện không đƣợc tiếp tục; đƣơng sự có thể bị phạt tiền, bồi
thƣờng thiệt hại nếu yêu cầu thay đổi thẩm phán không đƣợc chấp nhận; nếu sau khi đã đến
phiên tòa, một trong các đƣơng sự không chịu thực hiện các hành vi tố tụng trong thời hạn
yêu cầu, thẩm phán sẽ xử nhƣ có tranh trụng giữa hai bên trên cơ sở những tài liệu hiện có;
nếu không đƣơng sự nào thực hiện các hành vi tố tụng trong thời hạn yêu cầu, thẩm phán có
thể mặc nhiên xóa sổ thụ lý vụ kiện và các bên không có quyền kháng cáo quyết định này
(BLTTDS của nƣớc Cộng hòa Pháp); nếu ngƣời đƣợc tống đạt từ chối tiếp nhận giấy gọi
hoặc giấy báo của Tòa án thì ngƣời đƣợc tống đạt coi nhƣ đã đƣợc thông báo về thời gian
và địa điểm xét xử vụ án hoặc thơi gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng (BLTTDS
Liên bang Nga).


20
Kết luận Chƣơng 1

Nghĩa vụ của đƣơng sự trong TTDS (gọi tắt là NVTT của đƣơng sự) là việc bắt buộc
đƣơng sự phải thực hiện đối với Nhà nƣớc, với cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, với đƣơng
sự và với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, nếu không thực hiện thì sẽ bị áp dụng chế tài theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể
tham gia và bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự đƣợc nhanh chóng, chính xác,
công minh, đúng pháp luật.
NVTT của đƣơng sự mang tính bắt buộc và chế tài, có mối liên hệ mật thiết với
nhiệm vụ và quá trình giải quyết VADS của Tòa án, với NVDS của đƣơng sự và quyền tố
tụng của đƣơng sự, có thể đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại diện và có thể đƣợc chuyển
giao cho ngƣời khác.
Các quy định của PLTTDS hiện hành về NVTT của đƣơng sự đƣợc xây dựng trên cơ
sở lý luận phù hợp với quyền và NVDS và thực tiễn việc thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự
trong quá trình giải quyết VADS tại Tòa án.
Để bảo đảm cho việc thực hiện NVTT của đƣơng sự thì cần có những quy định pháp
luật định đúng, đầy đủ và hợp lý kết hợp với chế tài nghiêm và có tính khả thi. Ngoài ra, ý
thức chấp hành pháp luật của đƣơng sự và trách nhiệm của Tòa án cũng là một trong những
điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện NVTT của đƣơng sự. Và cần có các quy định về xử
lý các vi phạm NVTT của đƣơng sự và các biện để đƣơng sự có thể thực hiện NVTT của
mình. Đồng thời, cần nâng cao ý thức pháp luật của đƣơng sự trong việc thực hiện NVTT
của mình cũng nhƣ nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện NVTT
đƣơng sự.
Trên cơ sở tham khảo pháp luật một số nƣớc trên thế giới quy định về nghĩa vụ của
đƣơng sự và các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của đƣơng sự, từ đó đánh giá
tính ƣu khuyết của các quy định đó để làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung quy định của
PLTTDSVN về nghĩa vụ của đƣơng sự.


×