Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nghiên cứu so sánh các mô hình cơ quan bảo hiến trên thế giới, xây dựng luận cứ khoa học cho việc thiết lập cơ quan bảo hiến ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.88 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI BÁCH THÀNH

NGHIÊN CỨU SO SÁNH CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO HIẾN
TRÊN THÉ GIỚI, XÂY DỰNG LUẬN CỨ KHOA HỌC
CHO VIỆC THIẾT LẬP CƠ QUAN BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số

: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. THÁI VĨNH THẮNG

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của GS. TS. Thái Vĩnh Thắng. Mọi tham khảo dùng trong luận văn đều


được trích dẫn rõ ràng và trung thực.
Tác giả

Bùi Bách Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..............................................................................2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................. 4
3.1. Mục tiêu.................................................................................................................4
3.2. Nhiệm vụ ...............................................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài ........................................................................5
5. Bố cục của đề tài........................................................................................................5

CHƢƠNG I: VI PHẠM HIẾN PHÁP VÀ NHU CẦU BẢO HIẾN TRONG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN ......................................................................... 6
1. Khái niệm vi phạm Hiến pháp và các loại vi phạm Hiến pháp ........................... 6
1.1. Khái niệm vi phạm Hiến pháp ............................................................................6
1.2. Các loại hình vi phạm Hiến pháp .......................................................................7
2. Xây dựng nhà nước pháp quyền và nhu cầu bảo hiến ..........................................7
2.1. Khái quát về Nhà nước pháp quyền ...................................................................7
2.2. Vị trí, vai trò của Hiến pháp và nhu cầu bảo hiến trong Nhà nước pháp quyền
..............................................................................................................................................11

CHƢƠNG II: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA
CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI ................... 21
1. Khái quát về các mô hình bảo vệ Hiến pháp cơ bản trên thế giới .....................21
2. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp và sự khác nhau của các mô hình ở một số nước tiêu

biểu trên thế giới ................................................................................................................23
2.1. Mô hình bảo hiến của Pháp ........................................................................ 23
2.2. Mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ .................................................................... 32
2.3. Mô hình bảo hiến của Cộng hòa Liên bang Đức ........................................ 36
3. Nhận xét về điểm tương đồng và khác biệt trong các mô hình cơ quan bảo hiến
..............................................................................................................................................41

3.1. Những điểm khác biệt trong các mô hình cơ quan bảo hiến ...................... 41


3.2. Điểm tương đồng trong các mô hình cơ quan bảo hiến .............................. 45

CHƢƠNG III: NHU CẦU THÀNH LẬP VÀ ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH CƠ
QUAN BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM .............................................................. 48
1. Sự cần thiết xây dựng cơ quan bảo hiến và thực trạng bảo hiến ở Việt Nam . 48
1.1. Sự cần thiết xây dựng cơ quan bảo hiến ..................................................... 48
1.2. Thực trạng bảo hiến ở Việt Nam ................................................................ 52
2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện cơ chế bảo vệ hiến pháp để từng
bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ........................................... 58
3. Những nguyên tắc xây dựng cơ quan bảo hiến ............................................... 60
4. Giải pháp và đề xuất xây dựng mô hình bảo hiến ở Việt Nam ....................... 66

KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ................................................... 74


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý, là đạo luật cơ bản của mỗi quốc
gia, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị xã hội. Nó quy định
việc tổ chức nhà nước, chức năng, thẩm quyền các cơ quan nhà nước ở trung
ương, địa phương và quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc
đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tất cả các chủ thể tôn
trọng và nghiêm chỉnh chấp hành luôn là vấn đề quan trọng.
Điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề tôn trọng và bảo vệ hiến pháp, bảo đảm
tính tối cao của Hiến pháp đã được đề cập và triển khai.
Việc xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã được đặt ra trong văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các
cơ quan công quyền” và “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến
pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục yêu cầu “xây dựng từng bước hoàn thiện cơ
chế, kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết
định của các cơ quan công quyền”. Với mục tiêu như vậy, có thể thấy rằng, yêu
cầu bảo hiến đã trở thành một yêu cầu cấp bách trong đời sống pháp lý. Hiến
pháp 2013 đã chú trọng hơn đến quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên,
để bảo vệ các quyền nói trên ở nước ta vẫn còn một số khó khăn. Việc phân định
thẩm quyền giữa các thiết chế nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, giữa các cơ quan nhà nước ở Trung
ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương chưa thật r ràng, nên còn có sự


2

đ n đẩy trách nhiệm khi giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền con người,

quyền công dân.
Những năm qua, việc bảo hiến ở nước ta được thực hiện thông qua sự
giám sát tối cao của Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ chế
thẩm định, kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế thanh ra và giải
quyết khiếu nại, tố cáo từ công dân. Theo mô hình này, chỉ có Quốc hội mới có
quyền kiểm tra các văn bản pháp luật do mình thông qua. Như vậy, Quốc hội có
chức năng kép, vừa có thẩm quyền ban hành luật, vừa kiểm tra tính hợp hiến của
đạo luật do mình ban hành. Với những chức năng, nhiệm vụ như vậy, e rằng
Quốc hội sẽ không khách quan. Để bảo đảm cho Hiến pháp được tuân thủ,
chống lại những hành vi vi phạm mà ta thường gọi là vi hiến, nhiều nước trên
thế giới đã lập ra cơ quan chuyên biệt có trách nhiệm và thẩm quyền thích đáng
để bảo vệ hiến pháp (như tòa án hiến pháp, hội đồng bảo hiến hoặc giao thẩm
quyền này cho tòa án các cấp).
Thời gian qua, tình hình nghiên cứu các mô hình và bài học nước ngoài về
thể chế bảo hiến trên các diễn đàn hoạch định chính sách và hàn lâm ở Việt Nam
trở nên sôi nổi, bởi vì quyết định lựa chọn một trong các mô hình đã là khó,
song làm thế nào để mô hình được chọn đó sống, hoạt động hiệu quả trong bối
cảnh kinh tế, chính trị và văn hóa Việt Nam mới là điều khó gấp bội. Đề tài này
nghiên cứu về các mô hình bảo hiến trên thế giới, từ đó rút ra một số kinh
nghiệm, để xây dựng mô hình cơ quan bảo hiến ph hợp ở Việt Nam.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam
cũng như nước ngoài liên quan đến mô hình bảo hiến. Có thể liệt kê một số công
trình khoa học rất công phu đã được xuất bản thành sách hoặc được đăng trên
các tạp chí uy tín như:


3

- PGS.TS Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Tài phán Hiến pháp – Một số vấn

đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, 2011.
- GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS V Khánh Vinh (Chủ biên), Giám sát
và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb
Công an nhân dân, 2003.
- GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Tài
phán Hiến pháp và vấn đề xây dựng mô hình tài phán Hiến pháp ở Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, 2007.
- GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại
học quốc gia, 2005.
- TS Nguyễn Sỹ Dũng (Chủ biên), Quyền giám sát của Quốc hội – Nội
dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.
- Đặng Văn Chiến (Chủ biên), Cơ chế bảo hiến, Nhà xuất bản Tư pháp
xuất bản năm 2005.
- B i Ngọc Sơn, Bảo hiến ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2006.
- PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Mô hình tài phán Hiến pháp ở Cộng hòa
Liên bang Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11, 2004.
- PGS. TS Thái Vĩnh Thắng, Mô hình cơ quan bảo hiến ở các nước trên
thế giới, Tạp chí Luật học, số 5, 2004.
- GS. TSKH Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán Hiến
pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10, 2006.
- GS.TS Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, 2011.
Ngoài những công trình nghiên cứu được liệt kê ở trên, còn rất nhiều các
công trình nghiên cứu khoa học khác, các nhà khoa học tập trung tìm hiểu,
nghiên cứu các vấn đề lý luận xung quanh các cơ chế bảo hiến ở nước ta, đồng


4


thời xem xét chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ chế bảo vệ Hiến pháp qua
các thời kỳ, và đặt trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Kết
quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã thể hiện sinh động và hiện thực về thực
trạng tổ chức và hoạt động của cơ chế nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp,
những bất cập, hạn chế cũng như những luận giải và đề xuất khắc phục những
nhược điểm đó nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ chế nhà nước bảo
hiến, từ đó đẩy mạnh, tăng cường hơn nữa vai trò của các cơ quan này đối với
vấn đề bảo hiến, góp phần tôn vinh Hiến pháp ở nước ta. Đây chính là nguồn
nhận thức cơ bản và quan trọng, là những kiến thức, cơ sở lý luận để học viên
tham khảo, vận dụng, học hỏi để thực hiện đề tài luận văn của mình.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
Đề tài phân tích khái niệm vi phạm hiến pháp, các loại vi phạm hiến pháp
và làm r nhu cầu bức thiết về việc thiết lập mô hình bảo hiến dựa trên đòi hỏi
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời đề tài phân tích mô hình
bảo hiến của một số quốc gia trên thế giới để từ đó so sánh, đúc rút những kinh
nghiệm cho việc thiết lập mô hình cơ quan bảo hiến ở Việt Nam trong tương lai.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên đây, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích các vấn đề lý luận về vi hiến và nhu cầu bảo hiến trong nhà
nước pháp quyền.
- Phân tích các mô hình cơ quan bảo hiến trên thế giới, tìm ra các điểm
tương đồng và khác biệt trong các mô hình trên.
- Phân tích nhu cầu bảo hiến ở Việt Nam và đề xuất mô hình bảo hiến ph
hợp với điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam.


5

4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, tư duy
logic và phương pháp mô hình hóa.
5. Bố cục của đề tài
Nội dung đề tài được chia làm 3 chương, cụ thể:
- Chương I: Vi phạm Hiến pháp và nhu cầu bảo hiến trong nhà nước
pháp quyền.
- Chương II: Những điểm tương đồng và khác biệt của các mô hình cơ
quan bảo hiến trên thế giới.
- Chương III: Nhu cầu thành lập và đề xuất mô hình cơ quan bảo hiến ở
Việt Nam.


6

CHƢƠNG I: VI PHẠM HIẾN PHÁP VÀ NHU CẦU BẢO HIẾN
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1. Khái niệm vi phạm Hiến pháp và các loại vi phạm Hiến pháp
1.1. Khái niệm vi phạm Hiến pháp
Thuật ngữ “Hiến pháp” có nguồn gốc La tinh là “Constitutio“, có nghĩa là
“xác định”, “quy định”. Từ Cách mạng tư sản cho đến ngày nay, Hiến pháp với
ý nghĩa là một đạo luật cơ bản do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban
hành, xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Mọi cá nhân, cơ quan và
tổ chức phải có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp.
Quá trình soạn thảo rồi ban hành Hiến pháp, bất kỳ nhà nước nào cũng
muốn Hiến pháp của mình được tuân thủ, tôn trọng. Vì vậy, nhà nước luôn phải
đấu tranh, phòng ngừa và chống lại những hành vi vi phạm Hiến pháp. Có như

thế, Hiến pháp mới được tôn trọng và được bảo đảm thực hiện. Nhưng chủ thể
của quyền lực nhà nước là con người luôn có khuynh hướng lạm dụng quyền
lực. Nên, việc các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước có hành vi vi phạm,
xâm phạm tới quan hệ xã hội được Hiến pháp bảo vệ cũng là điều dễ hiểu.
Có thể đưa ra khái niệm vi hiến (vi phạm Hiến pháp) như sau: Vi phạm
Hiến pháp là hành vi trái Hiến pháp, có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được Hiến pháp bảo vệ.
Qua khái niệm này, chúng ta có thể xác định dấu hiệu vi phạm Hiến pháp,
đó là:
- Về hành vi:
Hành vi vi phạm Hiến pháp là những hành vi (có thể là hành động hoặc
không hành động) xâm phạm đến các quan hệ xã hội được Hiến pháp bảo vệ.
- Về chủ thể thực hiện hành vi vi phạm Hiến pháp:


7

Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm Hiến pháp có thể là cá nhân, cơ quan,
tổ chức được Nhà nước trao quyền, do Hiến pháp xác định.
- Về khách thể vi phạm Hiến pháp: Đó là các quan hệ xã hội được quy
phạm Hiến pháp điều chỉnh.
1.2. Các loại hình vi phạm Hiến pháp
- Hành vi vi hiến:
Là hành vi của chủ thể thực hiện trái với các quy định của Hiến pháp hoặc
không ph hợp với Hiến pháp. Những hành vi này có thể là hành vi của cơ quan
ban hành văn bản pháp luật không ph hợp hoặc trái với Hiến pháp; hành vi của
cá nhân, tổ chức, cơ quan vi phạm thẩm quyền mà Hiến pháp trao cho hoặc đó
có thể là những hành vi của bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào nhân danh Nhà
nước xâm phạm đến việc thực hiện quyền và tự do của con người và công dân.
- Hành vi không hành động là vi hiến:

Là hành vi không thực hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp
quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Hiến pháp trao thẩm quyền, nếu
không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời những thẩm quyền đó thì sẽ bị
coi là vi phạm Hiến pháp không hành động. [1]
2. Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và nhu cầu bảo hiến
2.1. Khái quát về Nhà nƣớc pháp quyền
Khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên ở Đức năm 1813 trong các tác phẩm
nghiên cứu về nhà nước của Robert Fon Mohn và Karl Teodor Valker, những
người được coi là các lý luận gia kinh điển về nhà nước pháp quyền. Khái niệm
này được dịch sang tiếng Pháp là “Etat de droit”, tiếng anh là “Rule of Law” và
tiếng Nga là “Pravavoe Goxudarstvo”. Từ khi ra đời đến nay, c ng với sự xuất
hiện ngày càng nhiều những tác phẩm nghiên cứu về nhà nước pháp quyền, nội
hàm của khái niệm này đã có những cách hiểu khác nhau t y theo phương pháp
1 Xem: GS.TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2012). Những vấn đề về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Nxb
Dân trí, Hà Nội.


8

tiếp cận, văn hóa chính trị, lập trường chính trị của các tác giả. Tư tưởng về Nhà
nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã hình thành
ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm cả các nhà tư tưởng cổ đại như
Xoocrat (469-399 TCN), Arixtot (384-322 TCN), Xixeron (106-43 TCN).
Những tư tưởng này đã được phát triển bởi John Locke (1632 – 1704),
Montesquieu (1698 – 1755), Rutxo (1712- 1778), I. Kant (1724 – 1804), Hê
ghen (1770 – 1831)… C ng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật
học, nhà tư tưởng vĩ đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà
nước pháp quyền như Thomas Jepheson (1743 – 1826 – tác giả của Tuyên ngôn
độc lập Mỹ năm 1776), Tomat Pên (1737 – 1809), Giôn Adam (1735 – 1826)…
Ở nước ta, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ lâu. Để tiến

tới xây dựng được một khái niệm phản ánh được bản chất của Nhà nước pháp
quyền, ngoài việc nhận thức có phê phán các quan niệm trên thế giới, giới khoa
học Việt Nam cần nghiên cứu thật sâu sắc về vấn đề này. Hiện nay, với sự phát
triển của các phương tiện thông tin, chúng ta dễ dàng phát hiện thuật ngữ “Nhà
nước pháp quyền” xuất hiện thường xuyên. Trong tiếng Anh, thuật ngữ này có
tên là “Rule of Law” (tạm dịch: Sự ngự trị của pháp luật). Ngày nay, khi nói tới
Nhà nước pháp quyền trước hết là nói đến sức mạnh của pháp luật trong đời
sống xã hội và chính trị với tư cách là ý chí của nhân dân và có giá trị phổ biến.
Có thể thấy các khía cạnh của Nhà nước pháp quyền: Một là, pháp lý hình thức,
tức là sự thống trị của pháp luật, sự ràng buộc bởi pháp luật đối với nhà nước và
tất cả các thành viên trong xã hội; hai là, nội dung pháp lý, tức là bản thân pháp
luật phải bảo đảm yêu cầu khách quan thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương xây dựng nhà nước
pháp quyền với nội dung cơ bản là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Đồng thời Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…” Nhà nước quản lý xã


9

hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nguyên tắc thống nhất quyền lực và có
sự phân công, phối hợp, phân cấp r ràng giữa các cơ quan thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong “Từ điển xã hội học” do Nguyễn Khắc
Viện chủ biên, “nhà nước pháp quyền” được định nghĩa là “loại nhà nước được
xây dựng trên cơ sở dân chủ, đối lập với nhà nước chuyên chế toàn trị, độc tài”.
Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được xác định trong luật học nước Đức vào
đầu thế kỷ 19 và sau đó được sử dụng ngày càng rộng rãi, đặc biệt trong trào lưu
dân chủ hóa có tính phổ biến hiện nay…Nhà nước pháp quyền không chỉ có
nghĩa là Nhà nước cai trị bằng luật pháp. Nhiều nhà nước độc tài, chuyên chế

trong lịch sử cũng cai trị bằng pháp luật. Với nhà nước pháp quyền, điều kiện
đầu tiên của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm các quyền và tự do của công dân
bằng những quy định pháp luật rành mạch, không ai được vi phạm. Điều đó bao
hàm hai mặt có liên quan chặt chẽ với nhau: pháp luật bảo đảm các quyền và tự
do của công dân không trừ một ai, tất cả đều phải tuân thủ pháp luật. Nhà nước
pháp quyền, theo đó được xây dựng theo những nguyên tắc dân chủ. Các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, đều được bầu cử một cách tự do với sự tham gia
trực tiếp của các công dân. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp phải được tổ chức như thế nào để mỗi nhánh quyền lực có
tính độc lập nhất định. Tất cả những người được cử vào các cơ quan quyền lực
nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân. Nhà nước pháp quyền
là loại hình nhà nước có nhiều khả năng nhất trong việc chống lại các xu hướng
độc quyền về quyền lực và xu hướng quan liêu hóa bộ máy quyền lực.
Hiện nay, hầu hết quan điểm của các học giả đều thừa nhận những đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là:


10

- Một là, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà quyền lực của nó bị giới
hạn, hạn chế bởi pháp luật, trong đó quan trọng nhất là Hiến pháp hay nói cách
khác pháp luật có vị trí tối thượng trong nhà nước pháp quyền.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ
hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp
của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi
chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng
nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công
bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
- Hai là, quyền lực của nhà nước được phân định rạch ròi nhằm tránh xảy
ra tình trạng lạm quyền.

Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa
dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có
điểm chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một
cơ quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời,
việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế
kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ
máy nhà nước.
- Ba là, nhà nước pháp quyền quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật.
Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, ph hợp với hiện thực
khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật phản ánh đường lối, chính sách
và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng
kiểm soát hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội,
cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của chế độ dân chủ. Nhà nước
pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều
chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ


11

luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của
các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã
hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công
dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Bốn là, nhà nước pháp quyền tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của con
người.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình

theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước
được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô
hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với
cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được
làm tất cả trừ những điều luật cấm.
2.2. Vị trí, vai trò của Hiến pháp và nhu cầu bảo hiến trong Nhà nƣớc
pháp quyền
a) Vị trí, vai trò của Hiến pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền
Như phần trên đã điểm qua sơ lược về những đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền, một trong những đặc trưng của nhà nước pháp quyền chính là sự
thượng tôn pháp luật. Mọi hành động của chính quyền đều phải được thực hiện
trong khuôn khổ, giới hạn nhất định. Ở đây, không có sự vượt quá giới hạn đó,
nếu đi quá giới hạn sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, quyền lực bị tha hóa. Hiến
pháp và Nhà nước pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu một quốc
gia mà nơi đó, chính quyền được tự do hành động theo ý chí chủ quan của mình
mà không có một cơ chế nào kiểm soát quyền lực, họ không phải là đối tượng
chịu sự kiểm soát của bất kỳ hệ thống pháp luật nào, tức là, ý chí của họ đứng


12

trên pháp luật. Những quốc gia như vậy không thể gọi là nhà nước pháp quyền.
Họ d ng luật pháp như công cụ để quản lý người dân, còn chính bản thân họ lởn
vởn ngoài vòng luật pháp, họ d ng quyền lực để cai trị dân chúng. Nếu sự lạm
dụng quyền lực một cách thái quá, không kiểm soát nổi, vô hình chung quyền và
tự do của công dân đã bị chà đạp. Khi có quyền lực trong tay, con người dễ dàng
sử dụng nó để phục vụ lợi ích cá nhân của mình, khiến người khác phải phục
t ng, đạt được mục tiêu kinh tế, danh vọng,…Trong xã hội phong kiến, quyền
lực được tập trung thống nhất trong tay hoàng đế (vua) được thần dân tôn s ng
với cái tên gọi “Thiên tử” (tức con Trời). Ông vua này có quyền lực rất lớn, lớn

đến mức chỉ cần ra lệnh tước đoạt tính mạng của người khác thì mệnh lệnh đó
lập tức được thi hành (chế độ thần quyền). Khi đã tước đoạt sinh mệnh của
người khác, ai dám lên tiếng phản đối? Cơ chế nào cho phép kiểm soát, hạn chế
quyền lực của vua? Sự lạm quyền đó dẫn tới rủi ro vô c ng lớn cho xã hội. Nếu
được cho phép có quyền hạn tối thượng, một chính quyền có thể làm bất kỳ điều
gì họ muốn mà không chịu trách nhiệm trước người dân. Một chính quyền như
thế sớm muộn cũng sẽ trở nên một chính quyền áp bức. Khi quyền lực không bị
kiềm chế và kiểm soát, người đức hạnh cũng có khuynh hướng trở nên bạo
ngược.
Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của người dân, không thể để chính quyền có
thể tự do làm bất cứ điều gì họ muốn. Thay vào đó, chính quyền phải bị ràng
buộc bởi những nguyên tắc pháp lý bền vững. Những nguyên tắc này, bên cạnh
những ràng buộc khác, là nhằm bảo vệ quyền cá nhân, định ra những cuộc bầu
cử định kỳ, tự do, công bằng, và giới hạn những gì những người thắng cử có thể
làm với những người thất cử. Những quốc gia có chính quyền như thế được gọi
là những quốc gia pháp quyền (rule of law): luật pháp, chứ không phải chính
quyền, mới là thực thể có quyền lực cuối c ng. Ngày nay hầu như mọi người
đều tin rằng pháp quyền là yếu tố quan trọng cho một chính quyền hợp thức.


13

Nhiều quốc gia pháp trị muốn trở thành pháp quyền. Trong quá trình
chuyển đổi, họ phải tìm cách thiết lập và bảo vệ các nguyên tắc pháp lý bền
vững nhằm hạn chế quyền hạn của chính quyền. Nếu người dân không thực sự
coi trọng nguyên tắc pháp quyền, thì pháp quyền đó sẽ không phát triển. Vì vậy,
để bảo vệ nền pháp quyền, đầu tiên có thể tính đến yếu tố văn hóa: một xã hội
coi trọng pháp quyền là điều kiện cần để tạo nền tảng cho một nhà nước pháp
quyền. Tuy nhiên, yếu tố văn hóa không đủ, vì chính quyền không phải lúc nào
cũng tôn trọng ý chí của nhân dân. Vì vậy, các nguyên tắc pháp quyền trong một

hiến pháp được viết ra và tồn tại lâu dài là cần thiết. Pháp quyền được bảo vệ
hữu hiệu nhất bởi một bản hiến pháp khó thay đổi.
Mối liên hệ giữa Nhà nước pháp quyền và Hiến pháp rất chặt chẽ. Hiến
pháp bảo vệ pháp quyền bằng nhiều cách:
- Thứ nhất, bởi vì hiến pháp được soạn thảo với những điều khoản cụ thể
và bất kỳ ai quan tâm cũng có thể nắm bắt ngay nội dung của pháp quyền, cũng
như những quy tắc pháp lý nhằm bảo vệ người dân mà pháp quyền đòi hỏi chính
quyền phải tôn trọng. Điều đó cũng có nghĩa là giới hạn quyền lực của các quan
chức chính quyền cũng được đề ra cụ thể. Nếu họ không tôn trọng những giới
hạn đó, các quan chức khác và công dân sẽ có cơ sở pháp lý, vốn đã được viết ra
một cách r ràng, để áp dụng nhằm bảo vệ hiến pháp và kiểm soát những quan
chức vi phạm.
- Thứ hai, xét theo một góc độ lý tưởng, việc toàn dân tham gia làm ra
hiến pháp giúp họ trực tiếp xây dựng và xác lập các “pháp quyền” cho đất nước.
Khi đó, thành quả lập hiến đại chúng sẽ bảo vệ nền pháp quyền hữu hiệu hơn
nhiều so với một bản hiến pháp áp đặt bởi các cơ quan quyền lực. Bởi vì, khi
quần chúng tham gia thiết lập nền pháp quyền cho chính quốc gia của họ, họ sẽ
có cơ hội đề ra những nguyên tắc pháp quyền đáp ứng được nhu cầu và hoàn
cảnh cụ thể của họ. Qua đó giúp các cơ quan quyền lực được giới hạn bởi những


14

nguyên tắc pháp quyền ph hợp để vận hành tốt hơn, và sinh hoạt chính trị của
đất nước cũng sẽ lành mạnh hơn. Chính trị lành mạnh hơn sẽ tạo ra những điều
kiện sống tốt hơn: kinh tế phát triển hơn, trường học và y tế tốt hơn, bảo vệ môi
trường hiệu quả hơn, v.v… Nói một cách khác, hiến pháp được toàn dân thông
qua sẽ góp phần cải thiện cuộc sống của mỗi người dân. Kết quả là người dân sẽ
thấy gắn bó và muốn bảo vệ hiến pháp: nếu hiến pháp đã được làm ra để bảo vệ
người dân, người dân cũng sẽ muốn bảo vệ nó.

- Thứ ba, một bản hiến pháp tốt sẽ phân chia quyền lực cho nhiều cơ quan
nhà nước khác nhau, do đó sẽ rất khó cho một cá nhân hoặc một cơ quan nhà
nước thâu tóm hết tất cả quyền lực. Kết quả là, nếu một cá nhân hoặc cơ quan
nhà nước tìm cách vi phạm hiến pháp, những cá nhân hoặc cơ quan nhà nước
khác có thể ngăn chặn các vi phạm đó. Ví dụ r ràng nhất là một cơ chế bảo vệ
hiến pháp, d đó là một tòa án hoặc một cơ quan bảo hiến nào khác, sẽ xem xét
kỹ lưỡng văn bản và hành động của các quan chức để xác định xem họ có hành
xử ph hợp với hiến pháp hay không. Tất nhiên, cơ quan bảo hiến không phải là
định chế duy nhất có thể bảo vệ pháp quyền. Nếu một quan chức, ở bất kể cương
vị nào, hành xử một cách vi hiến, các thành phần khác của hệ thống chính trị có
thể có khả năng kiểm soát và ngăn chặn quan chức đó - các thành phần khác ở
đây có thể là cơ quan lập pháp, các cơ quan hành chính, chính quyền địa
phương, công dân, hoặc thậm chí là thành viên nội các. Như vậy, một bản Hiến
pháp tốt không chỉ xác định các nguyên tắc pháp quyền, nó còn cần đặt ra một
cơ cấu chính quyền để bảo vệ các nguyên tắc pháp quyền đó.
- Thứ tư, một bản hiến pháp tốt phải là một bản Hiến pháp khó sửa đổi và
không cần phải sửa đổi thường xuyên. Tốt nhất là những sửa đổi Hiến pháp phải
được nhân dân phúc quyết phê chuẩn. Sửa đổi Hiến pháp chỉ có thể được thông
qua bởi đa số hoặc thậm chí siêu đa số phiếu thuận. Điều quan trọng nhất là
chính quyền không được phép tự sửa đổi Hiến pháp. Khi bản Hiến pháp được


15

bảo vệ bằng cách này, nền pháp quyền sẽ bền vững, vì một hiến pháp tốt chính
là hiện thân của pháp quyền.
b) Nhu cầu bảo vệ hiến pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền
Ở các nước trên thế giới, không có một khái niệm thống nhất về cơ chế
bảo vệ hiến pháp. Thuật ngữ Bảo hiến (hay còn được gọi là bảo vệ hiến pháp
hoặc tài phán hiến pháp-constitutional review/judicial review), theo định nghĩa

của một số từ điển pháp luật phổ biến, có thể hiểu là thẩm quyền của các tòa án
của một quốc gia được xem xét và đánh giá tính hợp hiến của các đạo luật hoặc
quyết định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thuật ngữ này được
sử dụng theo các cách hiểu khác nhau t y vào hoàn cảnh chính trị và cơ cấu tổ
chức nhà nước. Xét về ý nghĩa thì “bảo vệ hiến pháp” được hiểu là kiểm soát
tính hợp hiến của các đạo luật (tức là xem xét những đạo luật được đưa ra có
ph hợp với hiến pháp hay không). Theo cách hiểu này, “bảo vệ hiến pháp” chỉ
nhắm vào các văn bản do quốc hội thông qua. Tuy nhiên, cách hiểu “bảo vệ hiến
pháp” chỉ là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật là hiểu theo nghĩa hẹp.
Thực tiễn của chế độ bảo vệ hiến pháp ở các nước cho thấy, các chế định bảo vệ
hiến pháp được sinh ra không chỉ đơn thuần là kiểm soát tính hợp hiến của hành
vi lập pháp. Tòa án hiến pháp hoặc Hội đồng Hiến pháp, Tòa án tối cao ở một số
quốc gia trên thế giới được coi là công cụ kiểm soát quyền lực đắc lực để bảo vệ
hiến pháp. Bên cạnh việc kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật mà Nghị viện
ban hành, tòa án hiến pháp còn thực hiện nhiều chức năng khác như: giải quyết
tranh chấp giữa trung ương và địa phương, giữa lập pháp và hành pháp, giữa liên
bang với bang, và kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của tổng thống cũng
như các quan chức trong bộ máy hành pháp. Ở nghĩa rộng hơn, bảo vệ hiến pháp
được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các văn bản pháp luật và hành vi của
những thiết chế nhà nước được quy định trong Hiến pháp.


16

Trong một xã hội pháp quyền, nguyên tắc pháp quyền cơ bản là quyền lực
của chính quyền phải chịu ràng buộc trong khuôn khổ các nguyên tắc pháp lý
bền vững, được bảo vệ bởi một bản hiến pháp khó thay đổi. Muốn pháp quyền
trở thành hiện thực, cần phải có một cơ quan đảm bảo tính độc lập cao để có thể
đưa ra những phán quyết/quyết định khách quan nhất.
Nội dung cơ bản của tư tưởng pháp quyền là đề cao quyền lực của nhân

dân, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, tinh thần thượng tôn Hiến pháp và
pháp luật, đặt các thiết chế quyền lực trong sự ràng buộc của Hiến pháp và pháp
luật, có các cơ chế phối hợp, kiểm soát, chế ước lẫn nhau. Nhà nước pháp quyền
khác với nhà nước khác ở chỗ: Nhà nước pháp quyền tạo lập và duy trì dân chủ.
Về góc độ pháp lý, Hiến pháp là bản khế ước xã hội ghi nhận sự ủy quyền của
nhân dân cho bên nhận ủy quyền là cơ quan nhà nước, là cơ sở pháp lý cao nhất
và đầy đủ nhất bảo đảm sự ủy quyền đó. Hiến pháp có khả năng kết nối các lợi
ích chung, tạo nên một trật tự xã hội nhất định. Ngoài ra, về thực tiễn, sự bền
vững của trật tự hiến định là nền tảng vận hành một xã hội ổn định. Chủ nghĩa
Hiến pháp là sự nhận thức về vai trò của Hiến pháp và sự tác động tích cực của
nó đến đời sống chính trị và đời sống xã hội. Trong Nhà nước pháp quyền, chủ
nghĩa hiến pháp được coi là yếu tố đầu tiên, có giá trị hết sức quan trọng. Vì
vậy, bảo hiến là bảo vệ những lợi ích, trật tự cơ bản nhất của nhà nước, cá nhân
và của mỗi giai cấp, tầng lớp. Và bảo vệ hiến pháp chính là bảo vệ chủ quyền
nhân dân. Nhà nước pháp quyền đặt quyền con người là trung tâm, từ đó đặt ra
yêu cầu về trách nhiệm của Nhà nước với việc bảo đảm các quyền con người,
đòi hỏi, Nhà nước phải có một vòng tròn nhất định xung quanh mình, cần phải
tự hạn chế, ràng buộc quyền lực nhà nước trước yêu cầu bảo vệ quyền con
người. Hiến pháp là một khế ước xã hội, vì vậy, quyền con người được thể hiện
trong Hiến pháp là đầy đủ, toàn diện và có giá trị pháp lý cao nhất so với những


17

quy định của các đạo luật, ngoài ra, bản Hiến pháp chính là văn bản hạn chế
quyền lực Nhà nước xâm hại tới các quyền và tự do của con người.
Vì vậy, bảo hiến là bảo vệ quyền con người, là một trong những yêu cầu,
đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp có một vị trí đặc biệt như vậy
trong đời sống chính trị - pháp lý của mọi quốc gia, yêu cầu tất yếu đặt ra là phải
có cơ chế bảo vệ luật cơ bản của quốc gia. Bảo vệ Hiến pháp chính là bảo vệ cơ

sở tồn tại nền dân chủ mà Hiến pháp tạo ra. Yêu cầu này được các nhà soạn thảo
Hiến pháp dự liệu được ngay từ khi lập hiến, phải có cách bảo vệ khi xuất hiện
những hành vi vi phạm Hiến pháp. Bản chất của Nhà nước pháp quyền là quyền
lực phải được kiểm soát bởi pháp luật. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền đã trở
thành đòi hỏi chủ yếu của dân chủ, pháp luật ở vị trí cao nhất, không một ai có
thể đứng lên trên pháp luật. Hiến pháp là một văn bản pháp luật. Vì vậy, theo
nội dung và tinh thần, Hiến pháp cần được thực hiện nghiêm túc, triệt để và trực
tiếp. Do Hiến pháp là văn bản chính trị – pháp lý vì thế, việc bảo đảm tuân thủ
Hiến pháp, bảo vệ Hiến pháp cần xuất phát từ những đặc điểm riêng của loại văn
bản pháp luật này. Từ đó cần đến một cơ chế bảo vệ Hiến pháp độc lập. Ở một
khía cạnh khác, thấy rằng, chủ nghĩa lập hiến là sản phẩm của chế độ dân chủ.
Theo đó, Hiến pháp ra đời trong bối cảnh của khế ước xã hội mà khó có thể
được coi là sản phẩm riêng của một hay nhiều thiết chế nhà nước. Mặc d , trên
thực tế, có những nơi Nghị viện đồng thời là cơ quan vừa lập hiến và vừa lập
pháp nhưng vẫn phải tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp.
Ngoài ra, khi nói dân chủ là biểu hiện của chính trị thì cũng có nghĩa là
một trật tự Hiến pháp luôn mang màu sắc chính trị. Trong một trật tự Hiến
pháp, không thể có một thiết chế nhà nước, chính trị hay xã hội nào lại có thể
tồn tại và hoạt động trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, Hiến pháp có vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng trong xã hội. Nó đứng trên hệ thống bộ máy nhà nước, xã hội (vì


18

nó sinh ra hệ thống này); nó là nền tảng pháp lý và chính trị để tổ chức xã hội
thành Nhà nước, để ghi nhận và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, xác lập
và tổ chức các quan hệ Nhà nước – xã hội – công dân. Như thế, Hiến pháp ra đời
còn là để phân chia và xác định tính giới hạn của các quyền lực chính trị mà
trước hết là quyền lực nhà nước.

Việc quyền lực nhà nước được phân chia thành các đơn vị cấu thành, đi
kèm vị thế độc lập tương đối và trách nhiệm hoạt động tương đối, dẫn đến
việc phân công và phối hợp – có lợi cho việc áp dụng các quy định của Hiến
pháp. Các cơ quan nhà nước mà Hiến pháp lập ra và trao nhiệm vụ có tác dụng
củng cố nền tảng pháp lý của mình. Phân lập quyền lực tạo ra và khuyến khích
sự kiểm tra lẫn nhau. Điều này tuy vậy cũng chỉ là một mong đợi không có bảo
đảm pháp lý trong trường hợp không được đáp ứng, bởi vì không tồn tại cơ quan
nào cao hơn, đó là thiết chế tài phán Hiến pháp.
Như đã trình bày trên đây, các quy định Hiến pháp có tính chính trị –
pháp lý và mức độ trừu tượng rất cao. Để khắc phục tình trạng này việc Nhà
nước phải ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật là nhu cầu thường
xuyên. Bằng cách này, sự hiện diện và vận hành của hệ thống Nhà nước là nhằm
cụ thể hóa tư tưởng Hiến pháp. Tuy nhiên, trên thực tế sự vận hành của các thiết
chế này và đặc biệt là khi thực hiện các quyền cơ bản của công dân không thể
tránh khỏi những xung đột về quyền lực hay có những khoảng trống về quyền
lực mà pháp luật chưa dự liệu hết (lỗ hổng pháp luật). Ở bất kỳ một Nhà nước
nào, các loại quyền lực nhà nước đều được phân chia, phân loại và xác định cho
các cơ quan công quyền. Từ đó, c ng với sự phát triển của các quan hệ xã hội,
xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề cần giải quyết và vì thế xung đột về
quyền lực sẽ xảy ra, trong trường hợp đó, tinh thần Hiến pháp sẽ được giải thích
để làm trọng tài. Bên cạnh đó, trong một chế độ dân chủ, mọi quyền cơ bản của
công dân đều dựa trên nền tảng Hiến pháp.Trong những trường hợp xuất hiện sự


19

mâu thuẫn giữa quyền và tự do của công dân với chính quyền, không thể chỉ dựa
vào hệ thống pháp luật của Quốc hội và Chính phủ để giải quyết vấn đề cơ bản
của Hiến pháp mà phải dựa vào Hiến pháp thông qua việc giải thích Hiến pháp
để tìm kiếm tiêu chí hợp hiến.

Bản chất của Nhà nước pháp quyền là quyền lực nhà nước phải bị kiểm
soát bởi pháp luật. Vì vậy, nhà nước pháp quyền đã trở thành nguyên tắc và đòi
hỏi tất yếu của dân chủ. Có thể khẳng định rằng, Hiến pháp là văn bản chính trị pháp lý xác nhận chủ quyền tối cao của nhân dân, ghi nhận chế độ dân chủ và vị
thế chi phối của nó. Cần phải thấy rằng, dân chủ không phải bắt đầu khi nhân
dân được công nhận là nguồn gốc của quyền lực trên lời nói, mà phải là khi xây
dựng được một hệ thống bảo đảm công dân được tham gia xây dựng và kiểm
soát quyền lực nhà nước. Theo học thuyết nhà nước pháp quyền, Hiến pháp là
bản khế ước, thông qua nó nhân dân ủy quyền cho các cơ quan nhà nước và
Hiến pháp chính là bản thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước và là văn bản quy định
quyền con người, quyền công dân.
Như vậy, Hiến pháp chính là văn bản hạn chế quyền lực nhà nước, đảm
bảo dân chủ và vì vậy, bảo vệ Hiến pháp chính là bảo vệ mục tiêu, nội dung của
nhà nước pháp quyền. Bởi vì, Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó,
Hiến pháp và luật có vị trí tối thượng và quyền lực nhà nước bị hạn chế, phương
tiện hạn chế quyền lực nhà nước là các văn bản quy phạm pháp luật, đứng đầu là
Hiến pháp. Nhu cầu bảo Hiến được đặt ra như một tất yếu khách quan là chỗ
dựa và phân bổ mọi quyền lực chính trị của Nhà nước vì mục tiêu công bằng,
dân chủ và trách nhiệm xã hội. Bởi lẽ, toàn bộ hoạt động của hệ thống nhà nước,
của xã hội và các hành vi pháp lý tích cực của công dân, đặc biệt là hệ thống
thanh tra, giám sát và xét xử, suy cho c ng đều có khả năng và mục tiêu bảo vệ
Hiến pháp.Theo nghĩa đó, bảo vệ Hiến pháp là một chế độ đặc th , độc lập và
chỉ tập trung vào việc bảo vệ Hiến pháp trên các khía cạnh: giám sát tính hợp


20

hiến của các đạo luật và điều ước quốc tế mà quốc gia tham gia ký kết hoặc gia
nhập, giải thích Hiến pháp, giải quyết khiếu kiện về vi phạm Hiến pháp, giải
quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước thuộc các nhánh
quyền lực (theo chiều ngang) hoặc giữa cơ quan Trung ương với chính quyền

địa phương (theo chiều dọc) và xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu cử và
trưng cầu ý dân. Như vậy, Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền là hai yêu tố
không thể tách rời nhau, không thể có cái này mà không có cái kia. Mục đích,
nội dung, yêu cầu của Hiến pháp cũng chính là mục đích, nội dung, yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền. Vì vậy, Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp trở
thành một đòi hỏi không thể tách rời Nhà nước pháp quyền. Nhưng sự hiện diện
của Hiến pháp chỉ là yếu tố cần chứ chưa phải là đủ của một chế độ dân chủ, của
một Nhà nước pháp quyền, nếu như các cơ quan công quyền thực thi quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp vượt quyền, lạm quyền, vi phạm thẩm quyền được
Hiến pháp ghi nhận, ban hành các văn bản hoặc thực hiện các hành vi trái Hiến
pháp có khả năng hoặc thật sự đã xâm hại đến quyền con người, quyền công
dân.
Vì vậy, bảo hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu của nhà nước pháp quyền.
Nếu không bảo hiến hoặc có nhưng không hiệu quả thì sẽ dẫn đến tính hiệu lực
của Hiến pháp bị xâm hại, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không được đảm
bảo và sẽ không có được Nhà nước pháp quyền.


21

CHƢƠNG II: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
CỦA CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI
1. Khái quát về các mô hình bảo vệ Hiến pháp cơ bản trên thế giới
Mỗi nhà nước xuất phát từ điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của
mình mà xây dựng mô hình, hay cơ chế bảo vệ Hiến pháp phù hợp. Theo GS.
TS. Trần Ngọc Đường có thể khái quát thành 3 mô hình cơ bản:
- Thứ nhất là: mô hình bảo hiến theo kiểu Mỹ (mô hình phi tập trung)
Mô hình này có đặc điểm là giao cho Toà án Tư pháp xem xét tính hợp
hiến của các đạo luật. Mô hình này thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể,
dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến

pháp. Mô hình này có ưu điểm là bảo hiến không trừu tượng vì nó liên quan trực
tiếp đến những vụ việc cụ thể nên bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể. Mô hình
này cũng có nhược điểm, giao quyền bảo hiến cho Toà án Tư pháp thì thủ tục tố
tụng rất dài dòng. Hơn nữa, phán quyết chỉ có tính ràng buộc đối với các bên
tham gia tố tụng, tranh tụng vụ việc cụ thể đó, chỉ bảo vệ Hiến pháp từng vụ
việc cụ thể. Mô hình của Mỹ, sở dĩ giao cho Toà án Tư pháp là xuất phát từ hệ
thống pháp luật của các nước theo hệ thống Anh – Mỹ chủ yếu là án lệ. Án lệ
được xem là pháp luật để xét xử.
- Thứ hai là mô hình bảo vệ Hiến pháp của các nước châu Âu (mô hình
tập trung).
Đây là kiểu thành lập cơ quan chuyên trách để thực hiện bảo vệ Hiến
pháp. Mô hình này có cái hay là kết hợp được việc giải quyết các vụ việc cụ thể,
đồng thời giải quyết cả những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua
đề nghị của những người, cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Ví dụ
như Tổng thống có thể đề nghị sửa đổi, bãi bỏ một văn bản nào đó của Nghị
viện trái với Hiến pháp. Nó giải quyết cả ở tầm vĩ mô và cả những vụ việc cụ thể
liên quan đến quyền cơ bản của người dân được yêu cầu phán xét.


×