Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của pháp luật phá sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.3 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

----------

TRẦN THỊ NGỌC

PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM
Chuyên ngành
: Pháp luật kinh tế
Mã số chuyên ngành : 60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Nguyễn Đức Minh

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Những nội dung
nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Trần Thị Ngọc



LỜI CÁM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, và gửi lời cảm ơn chân thành tới
PGS.TS Nguyễn Đức Minh; các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè đã động
viên, tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn

Trần Thị Ngọc


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỤC HỒI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH
TRẠNG PHÁ SẢN

7

1.1.

7

Khái niệm phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản


1.1.1. Khái niệm phục hồi doanh nghiệp

7

1.1.2. Khái niệm phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

8

1.2.

Đặc điểm pháp lý của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản

10

1.3.

Phân biệt phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản với tái cấu trúc doanh nghiệp và tổ chức lại
doanh nghiệp

16

1.3.1. Phân biệt phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản với tái cấu trúc doanh nghiệp

16

1.3.2. Phân biệt phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản với tổ chức lại doanh nghiệp


18

1.4.

Thủ tục phục hồi đối với một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
công và doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực đặc thù

21

1.5.

Lý do, mục đích của phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

24

Tiểu kết chương 1

26

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH
TRẠNG PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM

28

2.1.

28


Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng


phá sản
2.2.

Chủ thể thực hiện thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản

33

2.2.1. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

33

2.2.2. Chủ nợ và hội nghị chủ nợ

35

2.2.3. Tòa án

38

2.3.

Giai đoạn nộp đơn và ra quyết định mở thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

40


2.3.1. Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

40

2.3.2. Thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi

42

2.4.

Giai đoạn giải quyết yêu cầu mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản

46

2.4.1. Chủ thể xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp

46

2.4.2. Nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

48

2.4.3. Thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

50


2.5.

53

Giai đoạn thực hiện phương án phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản

2.5.1. Thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

53

2.5.2. Sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

54

2.5.3. Giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

55

2.6.

58

Đình chỉ thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

2.6.1. Các trường hợp đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

58


2.6.2. Hệ quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi

59

Tiểu kết chương 2

61


Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG
PHÁ SẢN

63

3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

63

3.2.

Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản

64

3.3.


Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật

66

Tiểu kết chương 3

75

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phá sản là một hiện tượng thường gặp trong nền kinh tế thị trường. Trong
kinh doanh, không thể nào tránh khỏi việc có doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém
hiệu quả và bị đào thải khỏi thương trường bằng con đường phá sản. Để cứu vãn
các doanh nghiệp trong trường hợp này, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán hiện nay là một xu thế trong mục tiêu lập pháp của luật
phá sản hiện đại. Luật Phá sản Việt Nam ban hành ngày 15 tháng 6 năm 2004, có
hiệu lực từ 15 tháng 10 năm 2004 có nhiều nội dung tiến bộ so với Luật Phá sản
doanh nghiệp 1993, trong đó đã đưa ra các quy định về việc áp dụng thủ tục phục
hồi, một biện pháp nhằm phòng ngừa phá sản, cứu vãn doanh nghiệp thoát khỏi tình
trạng khó khăn về tài chính, điều hòa các quan hệ lợi ích giữa chủ nợ, con nợ và góp

phần ổn định xã hội. Tuy vậy, sau gần 10 năm thực hiện các quy định tiến bộ này
của Luật Phá sản 2004 hầu như không được áp dụng [24]. Có thể thấy, thủ tục phục
hồi không được áp dụng trong thực tiễn là một điều rất đáng tiếc, các doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản mất đi cơ hội cứu lấy mình, xã hội tránh đi những tổn
thất, nhà nước bớt đi gánh nặng về quản lý do hiện tượng phá sản, vỡ nợ, tự rút lui
khỏi thị trường gây ra.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những quy định về thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh trong Luật Phá sản năm 2004 nhằm hoàn thiện hơn nữa thủ tục này, tạo
điều kiện cho thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản có tính khả thi khi áp dụng là điều rất quan trọng và cần thiết. Đây
chính là lý do người viết quyết định chọn đề tài : “ Phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của pháp luật phá
sản Việt Nam”.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
pháp luật phá sản nói chung và pháp luật về phục hồi doanh nghiệp nói riêng. Trong
đó nghiên cứu về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể
kể đến một số công trình sau:
-Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Minh Tiến năm 2003 với đề tài “Thủ tục
phục hồi doanh nghiệp mắc nợ trong Luật Phá sản doanh nghiệp Việt Nam- những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn này đã nghiên cứu và trình bày được các quy
định pháp luật về phục hồi doanh nghiệp mắc nợ của một số nước trên thế giới từ đó
đưa ra các quan điểm, kiến nghị hoàn thiện thủ tục này trong pháp luật phá sản Việt
Nam. Tuy nhiên, do luận văn này được viết trước khi Luật Phá sản năm 2004 có
hiệu lực thi hành nên các số liệu về thực tiễn thi hành pháp luật cùng các kiến nghị
hoàn thiện pháp luật không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay.

-Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Hường năm 2005 với đề tài :
“Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản năm
2004” , luận văn đã nghiên cứu một cách tương đối toàn diện các quy định pháp luật
về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong Luật Phá sản
năm 2004. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ dừng lại ở việc phân tích những quy định
của pháp luật mà chưa xem xét, đánh giá được tính hiệu lực và hiệu quả của Luật
Phá sản năm 2004.
-Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Thảo Huyền năm 2012 với đề tài “ Pháp
luật về phục hồi doanh nghiệp tại Việt Nam- thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, So
với hai luận văn nêu trên, điểm mới của luận văn này là đã trình bày thực trạng
những quy định về phục hồi doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật Việt Nam. Tuy
nhiên, luận văn mới chỉ trình bày một cách khái quát về doanh nghiệp nhà nước và
phục hồi doanh nghiệp nhà nước mà chưa đi sâu vào phân tích, đánh giá những quy
định của pháp luật về phục hồi doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó còn nhiều công trình khoa học nghiên cứu về điều kiện, phạm
vi, trình tự thủ tục giải quyết phá sản trong Luật phá sản nói chung như:


3

-Luận văn thạc sỹ luật học của An Phương Huệ năm 2004 với đề tài “Luật
Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của Cộng hòa Pháp. Những nét tương đồng
và khác biệt”.
-Luận văn tiến sĩ luật học của Trương Hồng Hải năm 2004 với đề tài “Luật
Phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn
thiện”.
- Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của Dương Đăng
Huệ, Nhà xuất bản tư pháp, năm 2005.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí,
các báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản là:

-Bài viết “Tổng quan về pháp luật phá sản các nước trên thế giới – Những
bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện Luật Phá sản 2004” của Dương Đăng Huệ
và Cao Đăng Vinh năm 2009 trong đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học pháp
lý -Bộ Tư pháp.
-Bài viết “Tìm hiểu các quy định của Luật Phá sản năm 2004 về thủ tục phục
hồi, thủ tục thanh lý, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và một số kiến
nghị” của Bùi Thị Dung Huyền năm 2010, trong chuyên đề khoa học xét xử của
Viện khoa học xét xử- Tòa án nhân dân tối cao.
-Bài viết “Một số ý kiến về thủ tục phá sản của Luật Phá sản hiện hành và
kiến nghị hoàn thiện” của Trần Thị Tâm, Đặng Thu Hà năm 2013, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 4.
-Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản năm 2004 của Tòa án nhân dân tối
cao năm 2013…
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp cụ thể được vận dụng để giải quyết các vấn đề trong luận
văn là phương pháp phân tích tổng hợp các quy định trong các văn bản pháp luật
của Việt Nam về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, phương


4

pháp quy nạp, diễn giải… Bên cạnh đó, luận văn đã sử dụng phương pháp so sánh,
đối chiếu để nghiên cứu, đánh giá mô hình pháp luật phá sản của Việt Nam với Luật
Phá sản các nước trên thế giới, từ đó tìm tòi và học hỏi các kinh nghiệm lập pháp
tiến bộ, phù hợp. Đồng thời phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong luận văn
để làm nổi bật sự khác biệt giữa thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản với tự phục hồi doanh nghiệp, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục
phục hồi doanh nghiệp.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về thủ tục
phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản từ đó chỉ ra những bất cập, hạn
chế và đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định
pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, đảm bảo
được quyền lợi của chủ nợ, con nợ và người lao động một cách toàn diện nhất.
Với mục đích đó, đề tài có những nhiệm vụ sau:
-

Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào

tình trạng phá sản.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của Luật Phá sản hiện hành và

các văn bản hướng dẫn thi hành, từ đó chỉ rõ những điểm tiến bộ cũng như những
hạn chế trong quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản.
-

Đề xuất một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của Luật Phá sản về

phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và phân tích
thực trạng pháp luật Việt Nam về những vấn đề pháp lý có liên quan đến phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.



5

6. Những đóng góp mới của luận văn
Với mong muốn đóng góp những giải pháp của mình vào quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật phá sản, luận văn đã đưa ra được những điểm mới sau:
-

Luận văn đưa ra khái niệm về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá

sản dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá các khái niệm phục hồi của các tác giả trong
và ngoài nước dưới nhiều góc độ khác nhau. Đồng thời chỉ ra những đặc điểm pháp
lý của thủ tục này trên cơ sở so sánh phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với tái cấu trúc doanh nghiệp và tổ chức lại
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, luận văn cũng đã
trình bày thủ tục phục hồi đối với một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công và
doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực đặc thù.
-

Luận văn đã phân tích, đánh giá toàn bộ các quy định của pháp luật về phục

hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, từ đó chỉ ra
một số quy định còn hạn chế, bất cập trong các văn bản pháp luật hiện hành của
nước ta.
-

Luận văn đã nêu và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục phục

hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên,

do số vụ phá sản trên thực tế được Tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi là
rất ít nên các số liệu nêu ra trong nội dung luận văn còn hạn chế.
-

Luận văn đề ra một số yêu cầu, định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện các quy

định pháp luật về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản. Đồng thời đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật về thủ tục này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương sau:
Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.


6

Chương 2: Thực trạng pháp luật về phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
1.1 Khái niệm phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình

trạng phá sản
1.1.1 Khái niệm phục hồi doanh nghiệp
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu
quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Trên thế
giới, pháp luật phá sản được xây dựng theo hai xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ
nhất có mục tiêu là “hướng vào người mắc nợ”- tức là tập trung vào việc cứu các
công ty thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo đảm việc làm cho người lao
động thông qua việc tổ chức lại công ty. Xu hướng thứ hai có mục tiêu “hướng vào
chủ nợ”[16, tr.68]. Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu ngày nay, pháp luật phá sản
thế giới có xu hướng kết hợp cả hai mục tiêu này, tức là pháp luật về phá sản không
những bảo vệ lợi ích của chủ nợ mà quyền lợi của con nợ cũng được bảo vệ một
cách tối ưu. Vì thế, hiện nay nhiều nước đang tiến hành cải cách pháp luật về phá
sản theo hướng khi tiến hành xử lý phá sản doanh nghiệp, mục đích cần đạt được
không phải là tiến tới thanh lý doanh nghiệp mà còn qui định một trình tự thủ tục
nhằm cứu vãn chúng.
Phục hồi theo từ điển Tiếng Việt của nhà xuất bản Đà Nẵng 2003 được hiểu là
khôi phục cái đã mất đi. Cũng theo từ điển này, khôi phục được hiểu là làm cho có lại
được hay trở lại được như cũ sau một thời gian bị sút kém.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2 thì phục hồi hay hồi phục đều được
hiểu là “thiết lập lại cân bằng” về một điều gì đó [25, tr.362].
Tuy nhiên, cả hai định nghĩa trên chỉ là định nghĩa trong ngôn ngữ phổ thông
mà không phải là định nghĩa trên phương diện pháp lý của khái niệm phục hồi.
Dưới góc độ kinh tế học, “phục hồi doanh nghiệp” được hiểu là giải pháp
phù hợp nhất để đưa doanh nghiệp vượt qua tình trạng khó khăn. Phục hồi doanh
nghiệp được xem xét ở hai góc độ. Thứ nhất, từ góc độ từng doanh nghiệp, phục hồi
là quá trình chuyển hóa trạng thái từ trì trệ, thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh trở


8


lại quy mô bình thường và ổn định như trước suy giảm. Thứ hai, từ góc độ cả khu
vực doanh nghiệp, nghĩa là tất cả doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề, quy mô và
thành phần, phục hồi thể hiện ở sự xuất hiện các doanh nghiệp mới để đảm bảo tính
nguyên vẹn của số lượng doanh nghiệp như trước hoặc gia tăng số lượng. Việc phục
hồi, do đó, chịu tác động của các yếu tố nội tại doanh nghiệp cũng như tác động của
môi trường kinh doanh [18].
Như vậy, phục hồi doanh nghiệp thông thường là sự chuyển hóa từ tình trạng
làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả trở lại trạng thái hoạt động sản xuất kinh doanh bình
thường, ổn định như trước khi suy giảm. Phục hồi doanh nghiệp thông thường được
đặt ra khi doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, do doanh nghiệp chủ động thực hiện để
thoát khỏi tình trạng khó khăn.

1.1.2 Khái niệm phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Để hiểu khái niệm “phục hồi” trong pháp luật về phá sản chúng ta sẽ xem xét
nó trên phương diện pháp lý gắn với một giai đoạn trong thủ tục phá sản là phục hồi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Cho đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống văn bản về pháp luật phá sản
Việt Nam chưa xây dựng khái niệm pháp lý về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản. Song, trong một số công trình khoa học của các tác giả trong và
ngoài nước đã đưa ra một vài cách hiểu khác nhau về khái niệm “phục hồi”.
Theo tác giả Ngô Cường, “phục hồi là đem lại cho con nợ đang trong tình
trạng khó khăn những điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh chứ không phải là
thanh toán con nợ đó” [9, tr.3].
Với cách hiểu này, tác giả đồng thời chỉ ra ba dấu hiệu đặc trưng của việc
phục hồi doanh nghiệp mắc nợ, đó là:
-

Đối tượng áp dụng của phục hồi là những con nợ nằm trong tình trạng
khó khăn về tài chính;


-

Trong tiến trình phục hồi không có sự thanh lý tài sản của con nợ;

-

Mục đích của việc phục hồi là nhằm tạo điều kiện cho con nợ được
tiếp tục hoạt động kinh doanh.


9

Khái niệm “phục hồi” của tác giả Ngô Cường đã giúp chúng ta hình dung ra
bản chất của phục hồi. Tuy nhiên khái niệm này vẫn chưa chỉ ra được những dấu
hiệu pháp lý cơ bản của phục hồi doanh nghiệp như: chưa nêu ra được đối tượng áp
dụng phục hồi là những doanh nghiệp nào, chưa phân biệt được thủ tục phục hồi
doanh nghiệp với tự phục hồi doanh nghiệp.
Cũng với mục đích xây dựng khái niệm phục hồi doanh nghiệp, giáo sư luật
học Gérard Cornu, trường Đại học tổng hợp Monpeillier trong cuốn Từ điển luật
học của mình do Nhà xuất bản Association Henri Capitant xuất bản năm 2000 đã
định nghĩa: “phục hồi doanh nghiệp mắc nợ trên phương diện pháp lý là một thủ tục
được mở cho mọi doanh nghiệp của luật tư nằm trong tình trạng ngừng thanh toán
các khoản nợ nhằm cho phép cứu vãn doanh nghiệp, duy trì hoạt động của các
doanh nghiệp và việc làm cũng như hoàn trả được các khoản nợ” [10].
Như vậy, với định nghĩa này, giáo sư Gérard Cornu cũng đã chỉ ra cho
chúng ta thấy được ba đặc trưng của việc phục hồi doanh nghiệp là:
-

Phục hồi doanh nghiệp là một thủ tục luật định;


-

Đối tượng áp dụng là những doanh nghiệp ngừng thanh toán các
khoản nợ đến hạn;

-

Mục đích của việc phục hồi là cứu vãn, duy trì hoạt động của doanh
nghiệp và hoàn trả các khoản nợ.

Qua hai định nghĩa nói trên, có thể thấy, khi đưa ra khái niệm phục hồi
doanh nghiệp mắc nợ các nhà khoa học đã dựa vào ba yếu tố là: coi phục hồi là một
thủ tục do pháp luật quy định; hết hạn thanh toán nợ; mục đích phục hồi. Tuy nhiên
cũng như khái niệm phục hồi của tác giả Ngô Cường, khái niệm phục hồi nêu trên
chưa chỉ ra được đặc trưng pháp lý của phục hồi là một thủ tục do tòa án tiến hành.
Ngoài ra, cả hai định nghĩa nói trên đều chưa nói đến trường hợp phá sản đối với
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công hoặc hoạt động trong lĩnh vực đặc thù, cũng
như phá sản cá nhân như cho thấy trong quy định của một số nước trên thế giới.
Như vậy, từ những điểm tương đồng trong nghiên cứu của các học giả trên
cũng như quy định của pháp luật phá sản, “phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản” được thể hiện thông qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng là:


10

Thứ nhất, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một thủ tục
luật định do tòa án tiến hành;
Thứ hai, đối tượng áp dụng của phục hồi là những con nợ nằm trong tình
trạng khó khăn về tài chính hay những doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn;

Thứ ba, trong tiến trình phục hồi không có sự thanh lý tài sản của con nợ;
Thứ tư, mục đích của việc phục hồi là nhằm cứu vãn, duy trì hoạt động của
doanh nghiệp và hoàn trả nợ cho các chủ nợ.
Từ những phân tích nêu trên và căn cứ vào quy định của pháp luật phá sản
Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
như sau:
Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục do tòa án có
thẩm quyền áp dụng trong thời hạn nhất định dưới sự giám sát của hội nghị chủ nợ,
sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản và sự đồng ý của hội nghị chủ nợ, nhằm
giúp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ sau khi áp dụng các biện pháp cần
thiết phục hồi được hoạt động kinh doanh, thanh toán được các khoản nợ đến hạn.
Hết thời hạn phục hồi, nếu doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ không thực
hiện, thực hiện không đúng hoặc đã thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh do hội nghị chủ nợ thông qua và được tòa án công nhận nhưng vẫn không
thanh toán được nợ thì tòa án mở thủ tục thanh lý tài sản.

1.2 Đặc điểm pháp lý của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản
Thứ nhất, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục được
điều hành bởi tòa án.
Thực tiễn đã hình thành những thủ tục giải quyết tình trạng làm ăn thua lỗ đa
dạng và hiệu quả, thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo của thị trường và khi cần thiết thì
có sự điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước. Trên thế giới, người ta phân biệt hai thủ
tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ, bao gồm thủ tục chính thức và thủ tục không
chính thức [29, tr.86]. Theo đó, thủ tục phục hồi không chính thức là thủ tục giải


11

quyết tình trạng phá sản không có sự can thiệp của tòa án mà dựa trên sự thỏa thuận

tự nguyện giữa người mắc nợ và chủ nợ để tìm ra những giải pháp khắc phục tình
trạng mất khả năng thanh toán như: cơ cấu lại sản phẩm, chủ nợ sẽ đầu tư thêm
hoặc kêu gọi đối tác của chủ nợ đầu tư, thay đổi người quản lý… Trong khoa học
pháp lý cũng như thực tiễn tố tụng dân sự ở nước ta quá trình này thường được gọi
là thủ tục tiền tố tụng. Thủ tục phục hồi chính thức là những thủ tục giải quyết tình
trạng phá sản được điều chỉnh bằng pháp luật và thông qua tòa án.
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với tư cách là một
chế định trong Luật Phá sản do Nhà nước ban hành là một thủ tục chính thức. Pháp
luật của tất cả các quốc gia đều giống nhau khi quy định tòa án có thẩm quyền ra
quyết định áp dụng thủ tục phục hồi cũng như các quyết định khác có liên quan đến
thủ tục phục hồi và đảm bảo các quyết định đó được thực hiện trên thực tế.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi quốc gia mà thẩm quyền điều
hành của tòa án đối với thủ tục phục hồi doanh nghiệp được quy định không giống
nhau.
Theo mô hình tố tụng phổ biến trong Luật Phá sản là việc phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được quy định thành thủ tục tố tụng tương đối
độc lập, tòa án là chủ thể có thẩm quyền quyết định việc có áp dụng hay không áp
dụng thủ tục phục hồi đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Theo đó sau
khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi, tòa án sẽ xem xét những giấy tờ kế
toán và các tài liệu khác do doanh nghiệp cung cấp để đánh giá khả năng phục hồi
của doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp có cơ may phục hồi hoặc thuộc
đối tượng phải phục hồi thì tòa án sẽ ra quyết định chấp nhận áp dụng thủ tục phục
hồi đối với doanh nghiệp. Như vậy, hội nghị chủ nợ chỉ có vai trò quyết định chấp
nhận hoặc không chấp nhận phương án phục hồi do chủ doanh nghiệp hoặc các chủ
thể khác xây dựng được đưa ra xem xét tại hội nghị chủ nợ. Còn theo quy định của
pháp luật Việt Nam, việc phục hồi doanh nghiệp được thiết kế như là một phần thủ
tục trong trình tự giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, việc quyết định có áp dụng
hay không áp dụng thủ tục phục hồi không thuộc thẩm quyền của tòa án mà thuộc



12

thẩm quyền của hội nghị chủ nợ [17, tr.34]. Cụ thể là, thẩm phán phụ trách tiến
hành thủ tục phá sản chỉ được ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh sau khi hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với
các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ
nợ và yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh [19, Điều 68].
Để khắc phục tình trạng một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, pháp luật phá sản
của Nhật Bản còn quy định một thủ tục phục hồi lại công ty được giải quyết ngoài
tòa án đó là thủ tục sắp xếp lại công ty. Đặc điểm căn bản của thủ tục này là phương
án sắp xếp lại công ty cần phải được hội nghị chủ nợ thông qua, doanh nghiệp mắc
nợ sẽ gặp từng chủ nợ để thỏa thuận việc sắp xếp lại công ty (hoãn nợ, mức trả nợ,
cách thức trả nợ, bỏ bớt lĩnh vực kinh doanh không có lãi…). Trong thủ tục này,
pháp luật có quy định cho phép sự can thiệp cần thiết của toà án đối với những chủ
nợ có bảo đảm nếu muốn bán tài sản thế chấp thì toà án sẽ ra lệnh ngăn chặn. Tuy
nhiên, sự can thiệp của toà án là rất hạn chế [20].
Thứ hai, đối tượng áp dụng của thủ tục phục hồi là các doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Mất khả năng thanh toán nợ được hiểu là “tình trạng mà một người hoặc một
doanh nghiệp không còn đủ tiền trong quỹ để thanh toán các khoản nợ bị đòi” [22,
tr.11].
Trong pháp luật phá sản của nhiều quốc gia trên thế giới có hai tiêu chí để
xác định tình trạng mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp.
Một là, dựa trên cán cân thanh toán giữa tài sản có và tài sản nợ của doanh
nghiệp. Theo tiêu chí này, một doanh nghiệp sẽ bị coi là mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản khi tổng giá trị tài sản có của doanh
nghiệp thấp hơn tổng giá trị tài sản nợ. Chẳng hạn như Luật Phá sản của Nhật bản
quy định tình trạng mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp có nghĩa là doanh
nghiệp hoàn toàn không có khả năng trả nợ.



13

Hai là, dựa trên tiêu chí ngừng thanh toán nợ đến hạn. Như ở Rumani, được
xem là mất khả năng thanh toán nợ khi doanh nghiệp ngừng thanh toán các khoản
nợ đến hạn, bị đòi hỏi, bằng những khoản tiền sẵn có của mình (Điều 1 Luật Phá
sản Rumanie). Có ba điều kiện để xác định việc ngừng thanh toán các khoản nợ đến
hạn là:
+ Có khoản nợ thực sự đến hạn đối với doanh nghiệp mắc nợ. Ví dụ ở
Anh, khoản nợ đến hạn tối thiểu để áp dụng thủ tục phá sản phải là 50
bảng Anh [22, tr.11].
+ Có yêu cầu đòi nợ của chủ nợ đối với doanh nghiệp mắc nợ. Yêu cầu
này phải rõ ràng và có căn cứ.
+ Có sự xác nhận không thể trả nợ ngay của doanh nghiệp mắc nợ.
Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 3 Luật Phá sản năm 2004, doanh nghiệp
bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi “doanh nghiệp không có khả năng thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”.
Quy định này về cơ bản đã nêu được tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản khi không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn,
tiêu chí này cũng phù hợp với quy định của Luật Phá sản của một số nước trên thế
giới.
Theo đó, “không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn” được
coi là lâm vào tình trạng phá sản được hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2005/NQHĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản như sau:
“ 2. Về quy định tại Điều 3 của Luật Phá sản
2.1. Doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi có
đầy đủ các điều kiện sau đây:
a. Có các khoản nợ đến hạn.



14

Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo
đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác nhận,
có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp;
b. Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán, nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không
có khả năng thanh toán.
Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng
minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh
toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác
xã...” .
Thứ ba, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải có khả năng phục hồi.
Khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là lúc doanh nghiệp
lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, để đưa doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng
đó, thủ tục phục hồi có vai trò hết sức quan trọng. Song trên thực tế không phải
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nào cũng được áp dụng thủ tục phục hồi.
Pháp luật về phá sản của hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đều
tạo cơ hội tối đa cho con nợ thực hiện việc tổ chức lại, phục hồi hoạt động kinh
doanh. Tuy nhiên, đối với những con nợ chắc chắn không còn khả năng phục hồi thì
pháp luật tạo điều kiện thuận lợi để việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản
được thực hiện trong thời gian sớm nhất.
Một số quốc gia như Tây Ba Nha, Bỉ quan niệm rằng một doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn chỉ được áp dụng những quy định về phục hồi nếu
tổng toàn bộ giá trị tài sản có của doanh nghiệp mắc nợ lớn hơn tổng số tài sản nợ
của doanh nghiệp mắc nợ, không kể doanh nghiệp mắc nợ là loại hình doanh nghiệp
nào, có vị trí, vai trò ra sao.
Ngược lại, pháp luật về phá sản của Pháp, Nhật Bản lại quan niệm thủ tục
phục hồi chỉ áp dụng cho những doanh nghiệp mắc nợ còn khả năng phục hồi và
cần thiết phải phục hồi vì tầm quan trọng của doanh nghiệp mắc nợ, nguồn nhân lực

lao động trong doanh nghiệp… Do đó, những doanh nghiệp có hoạt động sản xuất
kinh doanh liên quan đến các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tiền tệ… hoặc việc


15

thanh lý doanh nghiệp làm nhiều người lao động bị thất nghiệp là những doanh
nghiệp được áp dụng thủ tục phục hồi [22, tr.29].
Đánh giá khả năng phục hồi của doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến
việc áp dụng hoặc không áp dụng thủ tục phục hồi, trên thực tế đó là công việc hết
sức khó khăn của thẩm phán. Để đánh giá chính xác thực trạng tài chính, tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi sự hiểu biết, nhạy cảm cũng như sự
công tâm của các thẩm phán đồng thời đòi hỏi sự trung thực của các doanh nghiệp
khi cung cấp những tài liệu kế toán như báo cáo tài chính, bản cân đối tài sản… bởi
điều đó quyết dịnh đến sự sống còn của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ tư, không có sự phân chia tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh với thủ tục thanh lý tài sản. Trong thủ tục thanh lý tài sản , sau khi có quyết
định thanh lý doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền sẽ tiến hành phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ
tương ứng với phần quyền tài sản của họ. Trong khi đó, đối với thủ tục phục hồi, nếu
như phương án phục hồi được chấp thuận thì sẽ không có sự phân chia tài sản còn lại
của doanh nghiệp.
Thứ năm, thủ tục phục hồi chỉ được áp dụng khi có sự đồng ý của hội nghị
chủ nợ.
Việc quyết định có áp dụng hay không áp dụng thủ tục phục hồi thuộc thẩm
quyền của hội nghị chủ nợ. Tại hội nghị chủ nợ lần thứ nhất, vấn đề này được đưa ra
thảo luận và quyết định. Trong trường hợp áp dụng thủ tục phục hồi đối với doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì việc chấp nhận phương án phục hồi của hội

nghị chủ nợ sẽ là căn cứ để mở thủ tục phục hồi.
Thứ sáu, hệ quả của việc thực hiện thành công phương án phục hồi là doanh
nghiệp thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và trở về hoạt động
bình thường.
Việc áp dụng thành công thủ tục phục hồi mang lại nhiều ý nghĩa kinh tế, xã
hội quan trọng, nó cứu vãn được một doanh nghiệp, tránh được sự chấm dứt của một


16

doanh nghiệp. Áp dụng thành công thủ tục phục hồi có nghĩa là doanh nghiệp mắc nợ
đã thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán, trở lại hoạt động sản xuất kinh
doanh bình thường ổn định.
Như vậy, thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một
thủ tục đặc biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phục hồi được thể hiện qua những
dấu hiệu pháp lý của thủ tục này như đã nêu ở trên. Bên cạnh đó, tính chất đặc thù
của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được nhìn nhận trong
mối quan hệ so sánh với quá trình tự phục hồi của doanh nghiệp khi gặp khó khăn,
thua lỗ mà chưa bị yêu cầu mở thủ tục phá sản.

1.3 Phân biệt phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản với tái cấu trúc doanh nghiệp và tổ chức lại doanh nghiệp
1.3.1 Phân biệt phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản với tái cấu trúc doanh nghiệp
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm tái cấu trúc doanh nghiệp.
Theo luật sư Phạm Thanh Sơn (Văn phòng luật sư Nam Hà Nội) với bài viết trên
báo Đầu tư lý giải vấn đề này như sau:
Tái cấu trúc doanh nghiệp, về bản chất, chính là sự hoán đổi về sở hữu doanh
nghiệp, thay đổi chiến lược kinh doanh, làm mới mình cho phù hợp với xu hướng
phát triển của xã hội, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Vì

vậy, tái cấu trúc doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở những doanh nghiệp đang lâm
vào tình trạng khó khăn, mất thanh khoản, mà đôi khi, chính những doanh nghiệp
đang “ăn nên làm ra” cũng phải tiến hành tái cấu trúc để phát triển và khẳng định
thương hiệu của riêng mình [8].
Như vậy, tái cấu trúc doanh nghiệp được hiểu là quá trình tổ chức, sắp xếp
lại doanh nghiệp nhằm tạo ra “trạng thái” tốt hơn cho doanh nghiệp để thực hiện
những mục tiêu đề ra. Mục tiêu chung của tái cấu trúc là đạt được một “thể trạng tốt
hơn” cho doanh nghiệp để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn dựa trên những
nền tảng về sứ mệnh, tầm nhìn, định hướng chiến lược sẵn có của doanh nghiệp để


17

thích nghi với điều kiện phát triển mới như mở rộng hay thu hẹp quy mô, thay đổi
cơ cấu sở hữu, mặt hàng, tinh giản bộ máy, tăng hoặc giảm số lượng chi nhánh…
Ở Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, sản xuất
kinh doanh phục hồi chậm thì tái cấu trúc doanh nghiệp là nhu cầu cấp thiết và nhận
được sự quan tâm của các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực. Có thể kể đến lộ trình
thực hiện tái cấu trúc các doanh nghiệp bảo hiểm dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài chính.
Trong năm 2013, Bộ Tài chính đã chỉ đạo các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các
giải pháp tái cấu trúc như: đối với một công ty bảo hiểm phi nhân thọ có dấu hiệu
mất khả năng thanh toán, Bộ Tài chính đã chỉ đạo Công ty có phương án tái cấu trúc
lại, theo đó Công ty đã đánh giá lại vốn chủ sở hữu, đồng thời thực hiện phát hành
thêm cổ phiếu, gọi vốn từ nhà đầu tư khác để tăng vốn điều lệ thực có, cơ cấu lại
Hội đồng quản trị, Ban điều hành Công ty, giảm bớt đầu mối chi nhánh. Đến nay,
vốn điều lệ Công ty đã tăng lên, biên khả năng thanh toán đã cải thiện hơn. Có thể
thấy, nhờ tái cấu trúc doanh nghiệp mà thị trường bảo hiểm trong những năm gần
đây vẫn đạt được những tăng trưởng nhất định [1].
Phục hồi và tái cấu trúc đều nhằm đưa doanh nghiệp thoát ra khỏi tình trạng
khó khăn về tài chính, tránh được nguy cơ phá sản hoặc đóng cửa, thu hẹp sản xuất.

Tuy nhiên, với bản chất là thay đổi doanh nghiệp một cách toàn diện để
nâng cao tính cạnh tranh, tồn tại và phát triển thì việc tái cấu trúc không giới hạn ở
những doanh nghiệp đang gặp khó khăn, trên bờ vực phá sản mà đôi khi chính
những công ty đang phát triển cũng cần tái cấu trúc để hệ thống vận hành một cách
hiệu quả nhất. Chẳng hạn như quá trình tái cấu trúc của công ty 3M, một trong
những công ty Mỹ lúc đó vẫn đang ăn nên làm ra với hơn 60 nghìn mặt hàng khác
nhau. Năm 2000, công ty 3M đã quyết định thay đổi hẳn cách thức kinh doanh. Đội
ngũ cán bộ quản lý mới, đứng đầu là Tổng giám đốc James Macnerney quyết định
đưa vào áp dụng hàng loạt nguyên tắc mới. Trước khi tái cấu trúc, 3M có tới 40 chi
nhánh và 60 văn phòng đại diện trên toàn cầu, việc cải tiến công việc thường do các
bộ phận, chi nhánh thực hiện đơn lẻ bởi điều kiện không cho phép các chi nhánh
khắp nơi chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Hệ thống phê duyệt phức tạp cùng với quá
trình phê duyệt kéo dài, khiến cho mỗi đề xuất cải tiến sản phẩm đến khi đưa vào


18

thực hiện đã có thể thay đổi hẳn so với ban đầu. Sau quá trình tái cấu trúc, 3M đã
trở thành một tập đoàn dễ quản lý, tuân thủ theo những nguyên tắc chung. Nhờ cuộc
tái cấu trúc khắt khe này, công ty đã tiết kiệm được 400 triệu đôla trong năm 2003.
Việc tiến hành tái cấu trúc đã giúp 3M không chỉ vượt qua giai đoạn suy thoái kinh
tế toàn cầu mà còn củng cố vị thế của mình trên một lọat các thị trường [3].
Sự khác biệt cơ bản giữa phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản so với quá trình tái cấu trúc là: Quá trình tái cấu trúc là
giải pháp tổ chức sản xuất kinh doanh do doanh nghiệp chủ động thực hiện còn
phục hồi hoạt động kinh doanh lại là thủ tục tư pháp.
Theo đó, khi doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, để thoát khỏi tình trạng khó
khăn, chủ doanh nghiệp có thể thực hiện việc tái cấu trúc doanh nghiệp. Quá trình
này hoàn toàn dựa trên ý chí tự nguyện của chủ doanh nghiệp như tự quyết định các
phương án tái cấu trúc, tự thực hiện phương án tái cấu trúc...

Còn phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một giai đoạn trong
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, được tiến hành sau khi tòa
án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp và do tòa án quyết định thủ
tục này. Hoạt động phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nằm dưới sự
giám sát nghiêm ngặt của tòa án cũng như các chủ nợ và doanh nghiệp phải chịu hậu
quả pháp lý tồi tệ trong trường hợp phục hồi không thành công.

1.3.2 Phân biệt phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản với tổ chức lại doanh nghiệp
Tô chức lại doanh nghiệp nhằm khắc phục tình trạng làm ăn kém hiệu quả
của doanh nghiệp, tổ chức lại sao cho phù hợp hơn với mục tiêu doanh nghiệp
hướng tới. Có các loại hình thức tổ chức lại doanh nghiệp là: chia, tách, hợp nhất,
sáp nhập hoặc chuyển đổi doanh nghiệp.
- Chia doanh nghiệp
Chia doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần được chia thành một số công ty cùng loại. Thủ tục chia công ty được thực hiện


19

theo Điều 150, Luật Doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh các công ty mới,
công ty bị chia chấm dứt tồn tại. Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách
nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản
khác của công ty bị chia hoặc có thể thoả thuận với chủ nợ, khách hàng và người
lao động để một trong số các công ty đó thực hiện nghĩa vụ này.
-

Tách doanh nghiệp
Tách doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho công ty trách


nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần được tách bằng cách chuyển một phần tài sản của công ty hiện có (gọi là công
ty bị tách) để thành lập một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty được
tách), chuyển một phần quyền và nghĩa vụ của công ty bị tách sang công ty được
tách mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách. Thủ tục tách công ty được thực
hiện theo Điều 151 Luật Doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị tách
và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa
thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ
trường hợp công ty bị tách, công ty mới thành lập, chủ nợ, khách hàng và người lao
động của công ty bị tách có thoả thuận khác.
-

Hợp nhất doanh nghiệp
Hợp nhất doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các

loại hình công ty, theo đó hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp
nhất) hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất. Thủ tục hợp nhất công ty được
thực hiện theo Điều 152, Luật Doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh, các công
ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại. Công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích
hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và
các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.
-

Sáp nhập doanh nghiệp
Sáp nhập doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các

loại hình công ty, theo đó một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp



×