Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.69 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LA ĐĂNG QUANG

QUÁ TRÌNH CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học nêu trong luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

La Đăng Quang



MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH CHỨNG MINH TRONG

6

GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

6

1.2. Chủ thể có trách nhiệm chứng minh và đối tượng chứng minh

8

1.3. Nguồn chứng cứ

10

1.4. Nội dung và ý nghĩa của quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ

12

án hình sự

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

22

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ QUÁ

23

TRÌNH CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nội dung quá trình chứng

23

minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
2.2. Quy định khác liên quan đến quá trình chứng minh trong giai đoạn điều

31

tra vụ án hình sự
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

52

Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

53

CỦA QUÁ TRÌNH CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Thực tiễn thi hành những quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003


53

về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình chứng minh

61

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

68

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT


Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


TNHS

Trách nhiệm hình sự

TP

Thẩm phán

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao



DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU, ĐỒ THỊ

Bảng 3.1 Tình hình giải quyết án sơ thẩm của Tòa án giai đoạn 2009-2013.
Bảng 3.2 Số vụ án, bị can CQĐT,VKS đình chỉ từ năm 2009 đến 2013.
Bảng 3.3 Tình hình TA sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung cho VKS từ năm 2009
đến năm 2013.
Biểu đồ số 3.1. Số bị cáo TA sơ thẩm tuyên không phạm tội từ năm 2009 đến 2013.
Biểu đồ số 3.2. Số vụ án VKS trả hồ sơ cho CQĐT yêu cầu điều tra bổ sung từ năm
2009 đến năm 2013.


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, công tác tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước quan
tâm chỉ đạo. Đặc biệt đối với lĩnh vực tố tụng hình sự Đảng và Nhà nước đã có những
chủ trương cải cách, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Điều đó được thể hiện qua
việc ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 06 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Với mục tiêu đề ra
“Xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công
lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao”[1] là hoàn toàn phù hợp với thể chế của nhà nước ta, một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và phù hợp với xu thế phát triển của đất
nước.
Việc đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp bằng những định hướng được đề cập
tại các Nghị quyết nói trên cùng với sự chỉ đạo quyết liệt từ phía những cơ quan tư pháp

đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong hoạt động tố tụng, chất lượng hoạt động tư
pháp được nâng lên đáng kể, góp phần đẩy lùi tội phạm, giữ vững trật tự an toàn xã hội,
tạo điều kiện cho đất nước phát triển kinh tế, hội nhập thế giới. Tuy nhiên, qua thực tiễn
thực hiện hoạt động nghiệp vụ, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Chính
sách pháp luật nói chung cũng như chính sách pháp luật hình sự nói riêng, pháp luật về tố
tụng hình sự còn tồn tại bất cập; Trình độ nghiệp vụ cũng như bản lĩnh chính trị của một
bộ phận cán bộ tư pháp còn yếu; Vẫn còn xảy ra tình trạng oan sai trong hoạt động tố
tụng; Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc
hậu…
Để thực hiện có hiệu quả công tác cải cách tư pháp theo chỉ đạo của Đảng cũng
như đáp ứng yêu cầu thực tiễn của nhà nước ta – nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng phải nâng cao chất lượng hoạt động
nghiệp vụ, giải quyết các vụ án được đúng đắn, khách quan, đúng người, đúng tội, không
làm oan người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm. Để làm được điều đó, đòi hỏi trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố
tụng phải nhận thức đúng và đầy đủ lý luận về chứng cứ cũng như chứng minh trong tố
tụng hình sự và vận dụng một cách khoa học, linh hoạt để đạt được hiệu quả thiết thực
trong công tác phòng, chống tội phạm. Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự đóng
vai trò quyết định trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Quá trình này được


2

các chủ thể chứng minh thực hiện trong các giai đoạn của hoạt động tố tụng, bao gồm
khởi tố điều tra, truy tố, xét xử.
Ở giai đoạn điều tra, “hoạt động điều tra có vai trò quan trọng trong việc làm sáng
tỏ sự thật của vụ án xảy ra, tạo cơ sở vững chắc cho việc truy tố và xét xử vụ án hình sự
được công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm” [18, tr.8]. Trong khi đó, “thực tế là một số lượng khá lớn các hành
vi tố tụng được thực hiện ở giai đoạn điều tra. Như vậy, “gánh nặng” trách nhiệm chứng

minh tội phạm ở mức độ không nhỏ được pháp luật giao cho các Cơ quan điều tra”[30,
tr.200]. Quá trình chứng minh trong giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc giải quyết vụ án, bảo đảm cơ sở cho các hoạt động tố tụng ở các giai đoạn sau được
khách quan, chính xác, quyết định tính đúng đắn trong phán quyết, quyết định của cơ
quan tố tụng trong việc giải quyết vụ án.
Mặt khác, cùng với xu thế hội nhập hiện nay, kinh tế và xã hội không ngừng phát
triển kéo theo sự gia tăng mạnh mẽ của tội phạm không chỉ về số lượng mà cả về loại
hình tội phạm cũng hết sức đa dạng với sự xuất hiện của nhiều loại tội phạm mới như: tội
phạm công nghệ cao, tội phạm kinh tế, tội phạm môi trường, tội phạm mang tính quốc
tế… với thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt và chuyên nghiệp hơn, gây khó
khăn cho công tác điều tra. Trong khi trên thực tế quá trình tố tụng cho thấy vẫn còn để
xảy ra nhiều trường hợp có sai sót trong quá trình giải quyết vụ án, làm oan người vô tội,
bỏ lọt tội phạm; Tòa án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, thậm
chí có trường hợp phải hủy án để điều tra lại; Trình độ cũng như ý thức của người tiến
hành tố tụng còn chưa cao; Vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận cũng như quy định
của pháp luật về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để vận dụng
vào thực tiễn tố tụng còn ít được quan tâm nghiên cứu.
Do đó cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực
tiễn về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chính vì những lý do nói trên, tác giả đã chọn đề tài “Quá trình chứng minh trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về quá trình
chứng minh trong tố tụng hình sự ở những mức độ và phạm vi khác nhau.
Nội dung cơ bản của quá trình chứng minh được đề cập đến trong một số giáo
trình, tài liệu chuyên ngành như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2011; Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam của trường Học viện cảnh sát năm 2005; Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2004;



3

Ngoài ra một số sách chuyên khảo, tạp chí cũng đề cập đến vấn đề chứng minh
trong tố tụng hình sự Việt Nam như: Sách “Chứng cứ trong Tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Cừ (Nxb Tư pháp, năm 2005); Sách “Chế định chứng cứ trong
Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp (Nxb Chính trị quốc gia, năm
2004); “Đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự” của tác giả Bùi Kiên Điện (Tạp chí
Luật học, số 06/1997); “Quá trình chứng minh theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 20003” của TS. Trần Quang Tiệp (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước
và pháp luật, số 7/2004); “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ trong tố tụng hình sự” của PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn (Tạp chí Luật học, số
07/2008); “Hoàn thiện chế định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự” của
TS. Mai Thế Bày (Tạp chí kiểm sát số chuyên ngành 18-20/2008); Hoàn thiện các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động chứng minh của tác giả Nguyễn
Văn Huyên (Tạp chí Nghề luật, Học viện tư pháp số 04/2012);
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về chứng cứ và chứng minh như: Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của trường Đại học Luật Hà Nội (Chủ nhiệm đề tài: Th.S.
Bùi Kiên Điện, năm 2003); Luận văn thạc sĩ “Quá trình chứng minh trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Thanh Hòe năm 1997; Luận án tiến sĩ luật học
“Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Đỗ Văn Đương năm 2000; Luận án tiến sĩ luật học “Quá trình chứng
minh trong vụ án hình sự ở nước ta” của tác giả Nguyễn Văn Du năm 2006; Khóa luận
tốt nghiệp “Quá trình chứng minh trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Diệu Ngân năm 2011; Luận văn thạc sĩ luật học “Hoạt động chứng minh trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả Mạc Thị Duyên năm 2012; Luận văn thạc sĩ
luật học “Chứng minh trong tố tụng hình sự” của tác giả Vũ Văn Anh năm 2013.
Các công trình trên đây đã đề cập một cách khái quát, toàn bộ những vấn đề cơ
bản về chứng cứ và chứng minh trong các giai đoạn tố tụng của quá trình giải quyết vụ án

hoặc nghiên cứu về một hoặc một số vấn đề cụ thể của hoạt động chứng minh. Các tác
giả đã đưa ra được những kiến nghị hoàn thiện có giá trị để hoạt động chứng minh trong
tố tụng hình sự ngày càng đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên vẫn chưa có công trình nào tập
trung nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về quá trình chứng minh trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. Vì vậy việc nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, có hệ
thống về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của PLTTHS về quá trình chứng minh trong
giai đoạn điều tra là hết sức cần thiết.


4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ một cách cơ bản và toàn diện
những vấn đề lý luận, phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, kết hợp với
đánh giá tình hình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta và
thông qua so sánh với một số quy định về vấn đề này của BLTTHS Liên Bang Nga và
Trung Quốc, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần làm tăng hiệu quả áp
dụng pháp luật trong thực tiễn, nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là
các giải pháp hoàn thiện pháp luật có liên quan đến quá trình chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nói trên, tác giả đặt ra
những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
+ Nghiên cứu làm rõ những quy định về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự của luật TTHS Việt Nam và so sánh với một số quy định về vấn đề này của
BLTTHS Liên Bang Nga và Trung Quốc.
+ Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về quá trình chứng minh trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự cũng như hoạt động của các cơ quan THTT hình sự trong quá trình
chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
+ Chỉ ra những bất cập trong quy định của pháp luật TTHS, những hạn chế, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan THTT liên quan đến quá trình chứng
minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là những vấn đề lý luận, các quy định của luật tố
tụng hình sự hiện hành và thực trạng hoạt động của các cơ quan THTT hình sự liên quan
đến quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Do thời gian và khuôn khổ có hạn, luận văn tập trung
nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan trực tiếp đến quá trình
chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam từ
năm 2009 đến nay. Ngoài nghiên cứu quy định của luật TTHS Việt Nam, luận văn còn
nghiên cứu một số quy định của BLTTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và BLTTHS
Liên Bang Nga về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để so sánh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về nhận thức.


5

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh. Dựa trên những quy phạm pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo, các
bài viết nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trước đó có liên quan đến quá trình
chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, kết hợp với khảo sát thực tiễn có liên
quan đến vấn đề này, để từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Góp phần bổ sung và hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận chung về quá trình chứng
minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

- Chỉ ra những bất cập của luật TTHS Việt Nam về quá trình chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự; những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan THTT
hình sự liên quan đến quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; chỉ ra
nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
quy định của luật TTHS Việt Nam về chứng minh và nâng cao chất lượng điều tra vụ án
hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn bao gồm
03 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự
- Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quá trình chứng
minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
- Chương 3: Thực tiễn thi hành và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của quá
trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.


6

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH CHỨNG MINH TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Như chúng ta đã biết, tội phạm là một hiện tượng xã hội phức tạp, xảy ra trong quá
khứ; người phạm tội luôn tìm cách che giấu hành vi mà mình đã thực hiện nhằm trốn
tránh sự trừng phạt của pháp luật. Trong khi đó các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng lại không được chứng kiến toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội, để giải quyết
vụ án hình sự họ phải trải qua một quá trình nhận thức về sự việc phạm tội đã xảy ra.
Việc nhận thức về vụ án hình sự là việc phản ánh một cách khách quan toàn bộ những
diễn biến về vụ án hình sự. Hay nói cách khác đó là một quá trình tái hiện lại chính xác,
toàn cảnh “bức tranh” về vụ việc phạm tội đã xảy ra. Quá trình này đòi hỏi phải tuân theo

trình tự tố tụng luật định để tái hiện lại sự việc phạm tội một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ, tạo cơ sở cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn. Theo đó, những người tiến
hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp khác nhau mà pháp luật cho phép theo một trình
tự thủ tục nhất định để thu thập, kiểm tra, đánh giá các thông tin mà sự việc phạm tội để
lại trong thế giới khách quan dưới hai hình thức phản ánh trong môi trường vật chất và cả
bên trong ý thức của con người. Quá trình chứng minh tội phạm phải tuân thủ những quy
luật chung của quá trình nhận thức mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra, đó là “từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” [19, Tr.266]
đó là con đường nhận thức hiện thực khách quan.
Quá trình chứng minh tội phạm trong giai đoạn điều tra là một giai đoạn quan
trọng không thể thiếu của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự. Quá trình chứng
minh tội phạm ở giai đoạn điều tra cũng được hiểu là quá trình nhận thức về sự kiện
phạm tội đã xảy ra trong quá khứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thông qua việc
thu thập, kiểm tra, đánh giá các thông tin mà sự việc phạm tội để lại trong thế giới vật
chất và cả trong ý thức của người biết về sự việc phạm tội. Quá trình này diễn ra theo một
trình tự được BLTTHS quy định giúp Cơ quan điều tra “xác định có hay không có hành
vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết
cho việc giải quyết đúng đắn vụ án” [32].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt giải thích “quá trình” là “trình tự, các bước diễn biến
và phát triển” [42, tr.1358], “chứng minh” có nghĩa là: “Làm cho thấy rõ là có thật, là
đúng bằng lý lẽ, cứ liệu” hoặc “Dùng lý luận để khẳng định sự đúng hoặc không đúng
của một mệnh đề dựa vào những định lý, định nghĩa, tiền đề đã biết” [42, tr.415]. Như
vậy hiểu theo nghĩa thông thường, quá trình chứng minh là trình tự nhận thức, tư duy và
thực tiễn của con người dựa trên những cứ liệu, tiền đề đã biết để khẳng định hoặc phủ
định một sự việc, hiện tượng nào đó.


7

Trong khoa học pháp lý về tố tụng hình sự hiện hành, có rất nhiều học giả quan

tâm nghiên cứu về vấn đề quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, về khái niệm quá
trình chứng minh còn có nhiều quan điểm khác nhau:
+ Quá trình chứng minh vụ án hình sự là “quá trình xác định sự thật khách quan
của vụ án” [34, tr.210].
+ Quan điểm thứ hai: “Quá trình chứng minh là quá trình nhận thức các sự kiện,
các tình tiết của vụ án hình sự” [35, tr.330].
+ Quan điểm thứ ba: “Quá trình chứng minh là quá trình nhận thức các sự kiện,
các tình tiết của vụ án hình sự thông qua các chứng cứ” [13, tr.164].
Có thể thấy rằng ở quan điểm thứ nhất, quan điểm thứ hai và thứ ba xây dựng khái
niệm về quá trình chứng minh một cách khái quát, chưa đề cập đến các yếu tố về chủ thể
chứng minh, đối tượng chứng minh. Quan điểm thứ ba chi tiết hơn quan điểm thứ hai, đó
là đã thể hiện quá trình chứng minh là một quá trình nhận thức, chỉ ra được phương tiện
để tiến hành hoạt động chứng minh là các chứng cứ.
+ Quan điểm thứ tư: “Quá trình chứng minh là quá trình nhận thức, được tạo bởi
các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng
thực hiện phù hợp với những quy định của BLTTHS, phục vụ cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án” [28, tr.139].
+ Quan điểm thứ năm: “Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là quá trình
tư duy và thực tiễn của những người có thẩm quyền chứng minh dựa trên cơ sở các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự để thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin tư liệu
cần thiết nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,
đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự” [27, tr.18, 19].
Quan điểm thứ tư và thứ năm đầy đủ hơn, đã thể hiện được chủ thể tiến hành hoạt
động nhận thức trong quá trình chứng minh cũng như cơ sở của việc tiến hành hoạt động
chứng minh và mục đích của quá trình chứng minh.
Chúng tôi cho rằng khái niệm quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự phải thể
hiện được đây là một quá trình nhận thức thế giới khách quan, chỉ ra được đầy đủ các yếu
tố về chủ thể chứng minh, đối tượng chứng minh, phương tiện chứng minh, cơ sở pháp lý
để tiến hành hoạt động chứng minh cũng như mục đích của quá trình chứng minh. Từ đó
có thể xây dựng khái niệm quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự như sau: Quá trình

chứng minh trong tố tụng hình sự là quá trình tư duy và thực tiễn của chủ thể có trách
nhiệm chứng minh dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự, được
tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự.


8

Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự chính là một quá trình nhận thức thế
giới khách quan, được tạo bởi quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử để từ đó làm rõ sự thật khách quan của vụ
án. Mỗi giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ, chủ thể, hành vi tố tụng cũng như văn bản tố tụng
khác nhau do đó quá trình chứng minh ở mỗi giai đoạn này có những đặc trưng riêng.
Giai đoạn điều tra là giai đoạn mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự, đây là giai
đoạn mà “trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình
sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc
giải quyết vụ án” [32, tr.263]. Do đó quá trình chứng minh tội phạm trong giai đoạn này
có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của các giai đoạn tố tụng tiếp theo
(truy tố và xét xử). Giai đoạn này bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình và kết
thúc khi Cơ quan điều tra ra bản Kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố hoặc ra
quyết định đình chỉ vụ án. Ở giai đoạn tiền khởi tố, cơ quan điều tra có thể đã tiến hành
một số hoạt động điều tra ban đầu để thu thập đồ vật, tin tức, tài liệu về sự kiện phạm tội
xảy ra như khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai ban đầu, khám xét… để từ đó đánh giá,
xác định đó có phải là sự kiện phạm tội hay không để ra quyết định khởi tố vụ án. Khi đã
có quyết định khởi tố vụ án, cơ quan điều tra phải tiến hành liên tục các hoạt động điều
tra để thu thập chứng cứ chứng minh sự kiện phạm tội. Vậy quá trình chứng minh trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự cũng có thể bắt đầu từ trước khi có quyết định khởi tố vụ
án hình sự.
Qua những phân tích ở trên, có thể rút ra khái niệm về quá trình chứng minh trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau: Quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự là quá trình tư duy và thực tiễn của chủ thể có trách nhiệm chứng minh
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự, được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, đảm bảo cho việc giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Quá trình chứng minh ở giai đoạn điều tra được đúng hướng, có chất lượng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát và Tòa án trong việc giải quyết vụ án ở những giai
đoạn tố tụng sau này.
1.2. Chủ thể có trách nhiệm chứng minh và đối tượng chứng minh
- Chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự:
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định chủ thể chứng minh trong TTHS
gồm có cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng
bao gồm CQĐT, VKS, TA, ngoài ra còn có các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra gồm: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh


9

sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, các cơ quan khác của Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người tiến hành tố tụng bao
gồm: Thủ trưởng CQĐT, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; Viện trưởng VKS, Phó
Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký Tòa án; Cán bộ làm công tác điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra.
Như vậy chủ thể chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự bao gồm cơ
quan THTT là CQĐT, VKS và một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra và người tiến hành tố tụng tương ứng thuộc các cơ quan này là ĐTV, KSV
và cán bộ làm công tác điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.

Những chủ thể tham gia vào hoạt động TTHS như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người giám
định, người phiên dịch. Đây không phải là chủ thể chứng minh bởi họ có thể là chủ thể có
quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh, hoặc chỉ tham gia chứng minh những
tình tiết liên quan đến việc bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự, một số không có mục đích trực tiếp nhằm chứng minh các tình tiết liên quan
đến vụ án mà chỉ tham gia tố tụng khi được cơ quan THTT yêu cầu.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm của tác giả Vũ Văn Anh khi cho rằng: “Nghĩa
vụ chứng minh trong TTHS là trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT và một số
chủ thể khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong những trường
hợp do luật định được nhà nước trao thẩm quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng
chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội và người phạm tội trước pháp luật.” [11, tr.
21]. Có thể thấy rằng khác với mô hình pháp luật tranh tụng, trách nhiệm chứng minh tội
phạm trong hệ thống pháp luật Việt Nam thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng mà đại
diện chính là các chủ thể tiến hành tố tụng. Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trách
nhiệm chứng minh thuộc về các chủ thể chứng minh ở giai đoạn này. Chứng minh tội
phạm là một quá trình phức tạp, do đó đòi hỏi các chủ thể có trách nhiệm chứng minh
phải nắm vững kiến thức về pháp luật, tinh thông về các hoạt động nghiệp vụ, có những
tri thức khoa học phù hợp để điều tra, xác minh các đồ vật, tài liệu cũng như tình tiết vụ
án được khách quan, toàn diện và đầy đủ.
- Đối tượng chứng minh
Trong tất cả các vụ án hình sự chúng ta chỉ cần xác định, làm rõ những vấn đề
nhất định đã được ấn định trước và làm rõ ở mức độ cần thiết nào đó là đã có thể đưa ra
được quyết định đúng đắn. Những vấn đề cần xác định đó chính là đối tượng chứng minh


10

trong các vụ án hình sự và việc làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh đó ở

mức độ nào là cần và đủ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án chính là giới hạn của việc
chứng minh.
Trong khoa học tố tụng hình sự Việt Nam, đối tượng chứng minh được hiểu là
toàn bộ những tình tiết cần phải chứng minh để làm rõ nội dung và bản chất vụ án xảy ra.
Tổng hợp các tình tiết đó tạo cơ sở cho việc xác định tội phạm và cá thể hóa trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội. Hay nói cách khác “đối tượng chứng minh là toàn bộ
những tình tiết thực tế của một vụ án hình sự, phản ánh những vấn đề thuộc về nội dung
của vụ án đó cũng như những vấn đề thuộc về điều kiện để đảm bảo chính xác nội dung
ấy” [25, tr.119]. Hiểu theo nghĩa này thì “đối tượng chứng minh gồm các tình tiết thực tế
cần phải xác định để giải quyết những vấn đề bắt buộc phải làm sáng tỏ trong tất cả các
vụ án hình sự nói chung cũng như cả những vấn đề chỉ nảy sinh hoặc có thể nảy sinh
trong quá trình giải quyết các vụ án cụ thể nào đó.” [25, tr.119]
Việc làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh đó ở mức độ nào là cần và
đủ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án đòi hỏi chủ thể có trách nhiệm chứng minh phải
xác định được phạm vi chứng minh, đó chính là giới hạn chứng minh. “Thông thường,
giới hạn chứng minh được hiểu là ranh giới của việc thu thập và nghiên cứu những tình
tiết có ý nghĩa đối với vụ án. Việc xác định giới hạn chứng minh chính là xác định ranh
giới của việc thu thập và nghiên cứu các tình tiết đó ở mức độ đủ để bảo đảm cho việc
giải quyết vụ án theo đúng yêu cầu của pháp luật” [15, tr.16].
1.3. Nguồn chứng cứ
Phương tiện chứng minh trong quá trình chứng minh là các chứng cứ, đó là tất cả
những gì thuộc về thế giới khách quan mà con người có thể tri giác được có giá trị chứng
minh tội phạm, được rút ra từ những nguồn chứng cứ do pháp luật quy định [27, tr.17].
Khái niệm nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu, thông tin quan trọng
để từ đó có thể rút ra được chứng cứ có giá trị xác định sự thật khách quan của vụ án.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin thì “không có hình thức nào tồn tại thuần
túy không chứa đựng nội dung, ngược lại cũng không có nội dung nào lại không tồn tại
trong một hình thức xác định” [12, tr. 245] . Do đó, việc làm rõ khái niệm chứng cứ và
nguồn chứng cứ, cũng như làm sáng tỏ các loại nguồn chứng cứ có ý nghĩa lý luận-thực
tiễn quan trọng để giải quyết vụ án hình sự được khách quan, chính xác và đúng pháp

luật. Chứng cứ trong quá trình chứng minh được xác định bằng những nguồn sau:
Thứ nhất: Vật chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng trong vụ án hình sự.
Thông qua vật chứng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể rút ra
được những chứng cứ để chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội cũng
như các tình tiết khác của vụ án. Về phương diện lý luận, vật chứng là những vật được


11

thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định, có chứa đựng thông tin có ý
nghĩa đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Vật chứng ghi nhận chính xác những sự kiện
thực tế của vụ án nên có giá trị chứng minh rất lớn trong quá trình chứng minh vụ án hình
sự. Vật chứng bao gồm: vật được sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội như súng,
dao, gậy…; vật mang dấu vết của tội phạm như chiếc áo của nạn nhân bị đâm thủng, dính
máu trong vụ án giết người, chiếc xe môtô bị hư hỏng trong vụ tai nạn giao thông…; vật
là đối tượng bị tội phạm tác động đến như tiền, tài sản trong vụ án cướp, trộm cắp tài sản;
vật khác có giá trị chứng minh tội phạm (không thuộc các trường hợp trên) như lông, tóc,
tinh dịch trong vụ án hiếp dâm… Vật chứng được thu thập bằng hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng. Ở giai đoạn điều tra, vật chứng được thu thập thông qua các hoạt động
khám xét, bắt quả tang, khám nghiệm hiện trường… hoặc có thể do bị can, cá nhân, tổ
chức cung cấp. Trong quá trình chứng minh, các cơ quan tiến hành tố tụng có trách
nhiệm bảo quản, giữ gìn tính nguyên vẹn của chứng cứ để đảm bảo giá trị chứng minh.
Thứ hai: Lời khai là một nguồn chứng cứ rất quan trọng, cơ quan tiến hành tố tụng
sử dụng kiến thức nghiệp vụ để lấy lời khai của những người có liên quan đến vụ án với
tư cách là người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Nếu vật chứng là một vật cụ thể được xác định, mang tính vật chất và nó phản ánh khách
quan về vụ án, do đó không thể có một vật nào khác thay thế cho nó, thì lời khai của các
đối tượng nêu trên lại được hình thành từ tư duy, ý thức của con người [41, tr.46]. Lời
khai thể hiện sự nhận thức, tri giác của người liên quan đến vụ án hình sự, nó bị chi phối

bởi các yếu tố như trạng thái tâm lý, lợi ích hay bị tác động bởi những yếu tố bên ngoài
do đó sẽ thiếu đi yếu tố khách quan. Bởi vậy trong quá trình lấy lời khai đòi hỏi chủ thể
tiến hành phải linh hoạt và có chiến thuật cụ thể để khai thác được những thông tin đúng
với thực tế, phục vụ cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, đạt kết quả.
Thứ ba: Kết luận giám định là kết luận về ý kiến chuyên môn của chuyên gia
(giám định viên) đối với một vấn đề, sự kiện hay vật chứng nào đó được cơ quan tiến
hành tố tụng trưng cầu. Kết luận giám định là chứng cứ quan trọng mà cơ quan tiến hành
tố tụng dựa vào đó để đưa ra đánh giá, kết luận về một nội dung (hoặc vấn đề) nào đó
trong một vụ án hình sự. Bản kết luận giám định chính là đánh giá khoa học bằng văn bản
của người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực được cơ quan tố tụng trưng cầu giám
định. Đây là nguồn chứng cứ quan trọng có giá trị chứng minh cao do loại chứng cứ này
được dựa trên cơ sở của các kiến thức và thành tựu khoa học.
Thứ tư: Biên bản hoạt động tố tụng là những văn bản ghi nhận quá trình hoạt động
tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Những hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng đều phải lập thành văn bản và biên bản tố tụng chính là nơi


12

ghi lại những hoạt động tố tụng đó. Những tình tiết được ghi trong biên bản tố tụng (biên
bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản khám xét, biên bản
thực nghiệm điều tra…) được coi là chứng cứ nếu được tiến hành theo đúng quy định của
pháp luật, thông tin đầy đủ về mặt nội dung, đúng theo hình thức, thể thức quy định.
1.4. Nội dung và ý nghĩa của quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
1.4.1. Nội dung quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự với vai trò là hoạt
động tư duy và thực tiễn của chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong giai đoạn điều tra,
đó là một dạng của quá trình nhận thức nên nó không chỉ tuân thủ các quy luật khách
quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức mà còn phải tuân thủ chặt chẽ các

quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Với tư cách là một hoạt động nhận thức, quá trình chứng minh có những đặc điểm
chung của lý luận phản ánh của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Đó là quá trình phản ánh gián
tiếp, Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán nhận thức sự kiện phạm tội đã xảy ra trong
quá khứ thông qua các loại dấu vết mà sự kiện này để lại. Các dấu vết đó được thu thập,
kiểm tra theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trở thành phương tiện để các chủ thể
chứng minh làm rõ sự kiện phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và trên cơ sở đó
đưa ra những quyết định, kết luận phù hợp.
Trong lý luận và thực tiễn tố tụng hình sự, quá trình chứng minh trong tố tụng
hình sự nói chung cũng như trong giai đoạn điều tra nói riêng, có nhiều cách phân chia
quá trình này thành các giai đoạn khác nhau: Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì “quá trình chứng minh gồm các giai đoạn thu thập
chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ”[32, tr. 185]. Còn theo giáo trình Luật
tố tụng hình sự Việt Nam của Học viện cảnh sát nhân dân thì: “Quá trình chứng minh có
thể chia ra làm các bước sau đây: Thu thập chứng cứ, bảo quản chứng cứ, kiểm tra chứng
cứ, đánh giá chứng cứ” [22, tr. 162]. Hoặc cho rằng “có thể chia quá trình chứng minh
VAHS thành các bước sau: Thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ” [11, tr.
21]. Như vậy có thể thấy rằng có nhiều cách phân chia quá trình chứng minh trong tố
tụng hình sự, mà xét về bản chất thì quá trình chứng minh chính là quá trình nhận thức về
sự thật khách quan của vụ án hình sự thông qua các chứng cứ, quá trình này được diễn ra
liên tục, đan xen trong các hoạt động TTHS. Tác giả cho rằng có thể có nhiều cách phân
chia quá trình chứng minh thành các giai đoạn khác nhau nhưng việc phân chia như vậy
không làm khác đi bản chất của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự mà nó chỉ là sự
chia nhỏ hoặc tập hợp lại các hoạt động chứng minh trong quá trình chứng minh vụ án
hình sự. Tác giả đồng ý với quan điểm nêu trong giáo trình Luật tố tụng hình sự của


13

Trường Đại học Luật Hà Nội, theo đó có thể phân chia quá trình chứng minh gồm các

giai đoạn: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ. Như vậy chứng
minh trong giai đoạn điều tra gồm các hoạt động sau:
- Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên của quá trình chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự. Hoạt động này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ quá
trình chứng minh tội phạm bởi kết quả thu được từ hoạt động thu thập chứng cứ ở giai
đoạn điều tra có ánh hưởng rất lớn đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự thì quá trình thu thập chứng cứ được hiểu là quá trình thu
thập nguồn chứng cứ hoặc thu thập ngay chính chứng cứ. Số lượng cũng như chất lượng
các chứng cứ thu thập được sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc cũng có thể gây khó khăn cho
quá trình điều tra, rộng hơn là gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong công
tác xác định sự thật khách quan của vụ án.
Về khái niệm thu thập chứng cứ, tác giả nhất trí với quan điểm của PGS.TS Hoàng
Thị Minh Sơn khi cho rằng “Thu thập chứng cứ là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp và phương pháp theo quy định của pháp luật để phát hiện, ghi nhận, thu giữ
và bảo quản các thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án phục vụ cho việc giải
quyết vụ án” [29, tr. 65]. Xét về nội dung, giai đoạn thu thập chứng cứ bao gồm các hoạt
động phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ.
Chỉ những người có thẩm quyền do BLTTHS quy định mới có quyền thu thập
chứng cứ. Điều tra viên, kiểm sát viên và những người có thẩm quyền của cơ quan được
giao thực hiện một số hoạt động điều tra điều tra có quyền tiến hành hoạt động thu thập
chứng cứ ở giai đoạn điều tra. Ngoài ra những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức
hoặc bất cứ cá nhân nào cũng đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề
liên quan đến vụ án. Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của
người bị tạm giữ, bị can nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác.
Quá trình chứng minh vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải
thực hiện các giai đoạn thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Đối với giai đoạn điều tra,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng như Điều tra viên và kiểm sát viên phải đặc biệt
quan tâm và tập trung nhiều hơn tới việc thu thập chứng cứ, bởi không thu thập được đầy

đủ các chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội hoặc xác định sự thật khách quan của
vụ án sẽ dẫn đến trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc dẫn đến phải đình chỉ
vụ án, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Trên thực tế, các chứng cứ và nguồn chứng
cứ có nhiều đặc điểm khác nhau về hình thức phản ánh (hình dạng, khối lượng, kích


14

thước…) cũng như không gian tồn tại, do đó đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng phải áp
dụng biện pháp thu thập phù hợp để đảm bảo được giá trị chứng minh của chứng cứ.
Để góp phần tái hiện lại bức tranh toàn cảnh về sự việc phạm tội, các chủ thể
chứng minh trong giai đoạn điều tra phải tiến hành thu thập các thông tin, sự kiện tồn tại
trong thế giới vật chất cũng như trong ý thức của người biết về sự kiện phạm tội. Hoạt
động đầu tiên trong giai đoạn thu thập chứng cứ chính là hoạt động phát hiện chứng cứ,
đây là hoạt động khởi đầu trong quá trình chứng minh.
Phát hiện chứng cứ là hoạt động tìm ra những sự vật, hiện tượng, dấu vết, tài liệu,
con người đang lưu giữ những thông tin về vụ án, hay nói cách khác đây chính là hoạt
động tìm ra nguồn chứng cứ. Để phát hiện chứng cứ trong thế giới vật chất cũng như
trong ý thức con người, cần phải sử dụng những các phương tiện, biện pháp và phương
pháp phù hợp với quy luật hình thành và đặc điểm của chứng cứ cũng như loại chứng cứ
cần phát hiện, phù hợp với quy luật che giấu vật chứng của đối tượng để phát hiện nơi mà
chứng cứ có thể tồn tại. Đối với những vật chứng, dấu vết tồn tại trong thế giới vật chất
thì để phát hiện cần phải sử dụng phương pháp thích hợp như tiến hành các hoạt động
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, thực nghiệm điều tra, xem xét
dấu vết trên thân thể, trưng cầu giám định... Còn đối với những chứng cứ tồn tại dưới
dạng phi vật thể (chứng cứ tồn tại trong ý thức của con người) được phát hiện thông qua
các biện pháp điều tra cụ thể áp dụng đối với từng đối tượng tham gia tố tụng như hỏi
cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, tiến hành đối chất, nhận dạng…
Ngoài ra chủ thể chứng minh còn có thể phát hiện chứng cứ thông qua việc yêu cầu cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp tài liệu, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ nội

dung vụ án, tiếp nhận tài liệu, đồ vật, thông tin liên quan đến vụ án do các cơ quan, tổ
chức, cá nhân chủ động cung cấp. Chứng cứ liên quan đến vụ án thường rất đa dạng và có
giá trị chứng minh khác nhau do đặc điểm hình sự của từng loại tội phạm và hoàn cảnh
cụ thể xảy ra đối với từng vụ án là khác nhau nên quá trình phát hiện chứng cứ đòi hỏi
chủ thể chứng minh phải có trình độ nghiệp vụ và tư duy sâu sắc.
Sau khi phát hiện chứng cứ, chủ thể chứng minh sẽ tiến hành hoạt động ghi nhận
chứng cứ. Đây chính là quá trình mô tả, sao chép, phản ánh lại những đặc tính và dấu
hiệu của các nguồn lưu giữ thông tin về vụ án đã được phát hiện vào trong các nguồn
chứng cứ theo quy định của pháp luật. Quá trình ghi nhận chứng cứ ghi nhận lại nội dung
thông tin đầy đủ nhất về đối tượng cần phản ánh với toàn bộ đặc tính và dấu hiệu của
chứng cứ. Khi ghi nhận chứng cứ, cần mô tả, chuyển tải một cách đầy đủ những đặc điểm
vốn có của nó, không được lồng ghép nhận xét, đánh giá chủ quan của người mô tả bởi
ghi nhận chứng cứ một cách khách quan, đúng quy định của pháp luật là điều kiện để làm
nên giá trị chứng minh của của chứng cứ trong vụ án. Quá trình ghi nhận chứng cứ phải


15

tuân thủ các cách thức, sử dụng các phương tiện phù hợp xuất phát từ đặc điểm của đối
tượng được mô tả như lập biên bản (khám nghiệm hiện trường, khám xét, thực nghiệm
điều tra, lấy lời khai, hỏi cung…) hoặc vẽ sơ đồ hiện trường, hoặc bằng hình thức trực
quan hình ảnh…
Thu giữ chứng cứ là hoạt động được thực hiện đối với những chứng cứ tồn tại
dưới dạng vật chất và cần phải được lưu giữ để bảo đảm được tính nguyên vẹn của thông
tin để phục vụ cho hoạt động kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các phương tiện,
phương pháp thu giữ chứng cứ và nguồn chứng cứ cần dựa trên những đặc điểm riêng
của chính đối tượng cần thu giữ. Việc thu giữ chứng cứ và nguồn chứng cứ không đúng
phương pháp khoa học, không tuân theo thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự quy định có
thể sẽ làm chứng cứ bị hủy hoại, không có giá trị chứng minh. Thu giữ chứng cứ và ghi
nhận chứng cứ là hoạt động quan trọng để thu thập chứng cứ, tuy nhiên hai hoạt động này

khác nhau về bản chất. Điều đó thể hiện ở chỗ nếu ghi nhận chứng cứ là hoạt động mô tả,
sao chép thông tin vào trong các nguồn chứng cứ thì thu giữ chứng cứ lại là việc tách đối
tượng vật chất (nguyên mẫu dấu vết, đồ vật) mang thông tin chứng cứ ra khỏi môi trường
xung quanh như hoạt động tạm giữ đồ vật, tài liệu, in sao dấu vết, đúc khuôn dấu vết…
Quá trình phát hiện, ghi nhận, thu giữ chứng cứ phải gắn liền với quá trình bảo
quản chứng cứ. “Thực chất của việc bảo quản chứng cứ là bảo vệ giá trị chứng minh của
chứng cứ chứ không phải giá trị kinh tế hay giá trị vật chất nào khác của nó” [28, tr. 150].
Bảo quản chứng cứ là hoạt động áp dụng các biện pháp phù hợp để bảo vệ, giữ gìn tính
nguyên trạng của các chứng cứ đã thu thập được để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ
án. Đây chính là hoạt động bảo vệ giá trị chứng minh của chứng cứ trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Việc bảo quản vật chứng phải được tiến hành ngay từ khi vật chứng
được phát hiện, thu giữ cho đến khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý. “Việc
bảo quản các nguồn chứng cứ trong vụ án được thực hiện bằng phương pháp sau: Thứ
nhất, đối với các chứng cứ dưới dạng lời khai, biên bản của các hoạt động điều tra, các tài
liệu khác liên quan đến vụ án được bảo quản theo chế độ bảo quản hồ sơ vụ án; Thứ hai,
đối với các vật chứng của vụ án, cần áp dụng các biện pháp bảo quản phù hợp với đặc
tính của mỗi loại vật chứng và tuân thủ nguyên tắc bảo quản vật chứng…” [28, tr. 150].
Đối với vật chứng, dấu vết, để đảm bảo tính hợp pháp thì mọi vật chứng, dấu vết phải
được niêm phong cẩn thận, ghi rõ ràng tên dấu vết cũng như ngày tháng năm phát hiện,
thu giữ và ghi rõ họ tên, chức vụ của người thu giữ, bảo quản, đồng thời phải đóng dấu
đầy đủ. Phần lớn các vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng của Cơ quan điều tra,
trừ một số trường hợp đặc biệt như chất dễ cháy, chất nổ, chất độc hại, phóng xạ… phải
được chuyển cho cơ quan chuyên trách bảo quản. Quá trình bảo quản chứng cứ phải tuân


16

thủ các biện pháp bảo quản phù hợp với đặc tính của từng loại chứng cứ, không để mất
mát, lẫn lộn, thay đổi cũng như hư hỏng các chứng cứ đã thu thập được.
- Kiểm tra chứng cứ

Những chứng cứ đã thu thập được chỉ có thể trở thành cơ sở cho các kết luận,
quyết định của cơ quan tố tụng khi được kiểm tra một cách khách quan, toàn diện và kỹ
càng. Kiểm tra chứng cứ là giai đoạn tiếp theo của thu thập chứng cứ trong quá trình
chứng minh vụ án hình sự, quá trình này nhằm xác định những thông tin, tài liệu, đồ vật
đã thu thập được có hay không thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan,
tính liên quan và tính hợp pháp. Khi có đầy đủ các đặc điểm nói trên thì chứng cứ mới có
giá trị chứng minh và được sử dụng trong quá trình chứng minh vụ án hình sự. Các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được phép dựa vào những chứng cứ
đã được kiểm tra để từ đó đưa ra những quyết định xử lý vụ án để đảm bảo được tính có
căn cứ và đúng đắn trong quyết định của mình.
Hoạt động kiểm tra chứng cứ bao gồm kiểm tra từng tài liệu, đồ vật và so sánh các
tài liệu, đồ vật có phù hợp với nhau để xác định các thông tin mà tài liệu, đồ vật đó cung
cấp có đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ hay không. Lượng chứng cứ thu thập trong
quá trình tố tụng là rất lớn do đó đòi hỏi quá trình kiểm tra chứng cứ phải thận trọng và tỉ
mỉ, tốn nhiều thời gian, công sức cũng như tiền bạc, phải sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau và cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan khác.
Vậy kiểm tra chứng cứ là hoạt động do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và một số chủ thể được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
thực hiện nhằm xác định tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của nguồn
chứng cứ đã được thu thập.
Kiểm tra chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động do Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra thực hiện nhằm xác định tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp
đối với nguồn chứng cứ đã được thu thập trong giai đoạn điều tra. Theo Giáo trình luật tố
tụng hình sự của Trường đại học Luật Hà Nội thì chứng cứ được kiểm tra bằng các
phương pháp phổ biến sau:
Phân tích từng chứng cứ từ góc độ tính khách quan, tính liên quan cũng như tính
hợp pháp để khẳng định thông tin, tài liệu thu thập được có được sử dụng làm chứng cứ
không;
So sánh, đối chiếu các chứng cứ với nhau để xác định các thuộc tính của chứng cứ

này hay chứng cứ khác. Đặc biệt sử dụng phương pháp này để kiểm tra tính khách quan
của chứng cứ. Thông qua so sánh các chứng cứ với nhau, có thể tìm ra các mâu thuẫn
cũng như tìm ra nguyên nhân của mâu thuẫn đó. Việc so sánh, đối chiếu chỉ được thực


17

hiện khi phân tích riêng rẽ các chứng cứ và tổng hợp chứng cứ lại thành hệ thống các
chứng cứ của vụ án.
Tiến hành các hoạt động điều tra mới để thu thập thêm chứng cứ mới cũng như
loại bỏ các chứng cứ thu thập được. Để kiểm tra tính khách quan trong hỏi cung bị can,
cơ quan điều tra hỏi thêm người làm chứng; thông qua chứng cứ thuật lại, cơ quan điều
tra thu thập chứng cứ gốc v.v… [32, tr.187,188]
Có thể thấy rằng phần lớn chứng cứ và nguồn chứng cứ được thu thập ở giai đoạn
điều tra vụ án hình sự. Do đó việc kiểm tra một cách toàn diện, kỹ lưỡng chứng cứ ở giai
đoạn này đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình chứng minh vụ án hình sự
- Đánh giá chứng cứ
“Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của Điều tra viên, kiểm sát viên,
thẩm phán, hội thẩm nhân dân được tiến hành trên cơ sở của pháp luật, ý thức pháp luật,
niềm tin nội tâm để xác định mức độ tin cậy, giá trị của từng chứng cứ cũng như tổng hợp
chứng cứ có trong vụ án để rút ra kết luận về vụ án” [17, tr.17]. Đánh giá chứng cứ là giai
đoạn phức tạp của quá trình chứng minh vụ án hình sự, được tiến hành bởi chủ thể có
thẩm quyền nhằm phân tích, đánh giá, tổng hợp để làm rõ bản chất của chứng cứ, xác
định giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như toàn bộ chứng cứ đã thu thập được.
Quá trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi lẽ chất lượng giải quyết vụ án phụ thuộc
vào hoạt động đánh giá chứng cứ, các chứng cứ được thu thập, kiểm tra đúng trình tự thủ
tục luật định, phản ánh đúng diễn biến khách quan của sự việc phạm tội đã xảy ra phải
được chủ thể có thẩm quyền đánh giá đúng thì mới đảm bảo được tính đúng đắn của việc
giải quyết vụ án bởi các chủ thể tiến hành tố tụng phải sử dụng kết quả đánh giá chứng cứ
làm cơ sở cho các kết luận cũng như quyết định giải quyết vụ án. Tác giả nhất trí với khái

niệm trên, tuy nhiên quá trình đánh giá chứng cứ ngoài cơ sở là những hiểu biết pháp
luật, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm thì còn đòi hỏi chủ thể đánh giá chứng cứ phải
có những hiểu biết về những tài liệu đã thu thập, đó chính là những tri thức khoa học để
từ đó mới có thể đánh giá một cách chính xác, toàn diện giá trị của chứng cứ cũng như
tổng hợp chứng cứ có trong vụ án. Bởi vậy theo tác giả thì khái niệm đánh giá chứng cứ
nên được bổ sung như sau: “Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của các chủ
thể có trách nhiệm chứng minh, được tiến hành trên cơ sở những tri thức khoa học, hiểu
biết pháp luật, ý thức pháp luật, niềm tin nội tâm để xác định mức độ tin cậy, giá trị của
từng chứng cứ cũng như tổng hợp chứng cứ có trong vụ án để rút ra kết luận về vụ án”
Theo quan điểm của TS. Đỗ Văn Đương thì: “Đánh giá chứng cứ trong điều tra
vụ án hình sự là hoạt động tư duy logic của điều tra viên và những người tham gia điều
tra, được tiến hành trên cơ sở những hiểu biết của mình về những tài liệu đã thu thập
được, dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm


18

để xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như cả hệ thống
chứng cứ trong vụ án, được thực hiện trong suốt quá trình điều tra nhằm làm sáng tỏ
toàn bộ sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.” [18, tr.66]. Tác giả
đồng ý với quan điểm trên bởi đã thể hiện được đầy đủ các yếu tố của quá trình đánh giá
chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên có thể thu gọn lại khái niệm
đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS như sau: “Đánh giá chứng cứ trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động tư duy logic của chủ thể có trách nhiệm
chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên cơ sở những tri thức khoa học,
những quy định của pháp luật, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm để xác định mức độ
tin cậy, giá trị của từng chứng cứ cũng như tổng hợp chứng cứ đã được thu thập, kiểm
tra để từ đó rút ra kết luận về vụ án.”
Quá trình đánh giá chứng cứ chính chính là quá trình nhận thức cái chưa biết, do đó
nó phải tuân theo các quy luật của phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Các chứng cứ không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, do đó xác định
được giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như mối quan hệ giữa các chứng cứ với
nhau có vai trò quan trọng trong việc dần hoàn thiện nhận thức về sự thật khách quan của
vụ án. Quá trình đánh giá chứng cứ xác định giá trị chứng minh của chứng cứ thông qua
khả năng xác lập hoặc phủ nhận một hoặc một số tình tiết của đối tượng chứng minh trong
vụ án hình sự để qua đó làm rõ giá trị chứng minh của chứng cứ cũng như tính đầy đủ của
chứng cứ đã được thu thập. Trong giai đoạn điều tra, đánh giá chứng cứ gắn liền với việc
nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập và kiểm tra chứng cứ.
Ở giai đoạn điều tra, quá trình đánh giá chứng cứ chỉ mang tính sơ bộ, là tiền đề,
tạo điều kiện cho các giai đoạn tố tụng sau này bởi lẽ nó được thực hiện trước giai đoạn
truy tố, xét xử và mục đích chính là nhằm phục vụ cho giai đoạn xét xử. Quá trình đánh
giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra nhằm đưa ra Kết luận điều tra, trong trường hợp Cơ
quan điều tra ra Quyết định đình chỉ điều tra thì hoạt động đánh giá chứng cứ ở giai đoạn
này mới mang tính quyết định. Để đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra, có thể áp
dụng hai phương pháp sau:
Thứ nhất là đánh giá từng chứng cứ: Đây là hoạt động tư duy logic của chủ thể có
trách nhiệm chứng minh trong giai đoạn điều tra nhằm xác định mức độ tin cậy, giá trị
chứng minh của từng chứng cứ đã thu thập được trong giai đoạn điều tra vụ án. Đây
chính là hoạt động nhằm xác định có hay không sự hiện diện những thuộc tính của chứng
cứ trong những tài liệu, đồ vật, thông tin đã thu thập được.
Thứ hai là đánh giá tổng hợp chứng cứ: Đánh giá tổng hợp chứng cứ là hoạt động
không thể thiếu trong quá trình chứng minh. Dựa trên các nguyên tắc về đánh giá chứng
cứ và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá riêng lẻ cùng với những tri thức khoa


19

học và kiến thức nghiệp vụ của bản thân, chủ thể đánh giá chứng cứ xác định được giá trị
chứng minh của các chứng cứ cũng như xác định tính đầy đủ của các chứng cứ có trong
vụ án. Nói cách khác, đây chính là quá trình nhận thức của chủ thể đánh giá chứng cứ đối

với các chứng cứ đã được thu thập trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau để rút ra giá trị
chứng minh của chúng. Từ đó Cơ quan điều tra làm rõ được bản chất của vụ án và rút ra
kết luận phù hợp.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, việc đánh giá chứng cứ phải xác định được
từng chứng cứ có đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ hay không để có thể sử dụng vào
việc chứng minh vụ án. Trường hợp không đầy đủ các thuộc tính hoặc có sự nghi ngờ
hoặc không liên quan đến đối tượng chứng minh thì cần phải kiểm tra lại hoặc phải loại
bỏ để tránh tình trạng chứng minh thiếu căn cứ hoặc tràn lan. Khi đánh giá chứng cứ, chủ
thể đánh giá cần chú ý đến tính đặc thù của chứng cứ, không được áp đặt máy móc cách
đánh giá chứng cứ của vụ án này vào việc đánh giá chứng cứ của vụ án khác. Hơn nữa,
trong hoạt động điều tra, chủ thể có trách nhiệm chứng minh cần xuất phát từ thực tế
những dấu vết của tội phạm để lại trong thế giới khách quan để thu thập, kiểm tra và đánh
giá được đầy đủ sự thật khách quan như nó đã phản ánh dựa trên những tri thức cũng như
kinh nghiệm của bản thân. Cần tránh nhận thức cảm tính, áp đặt ý chí chủ quan đối với
các chứng cứ, không xem xét chứng cứ trong mối liên hệ với các chứng cứ khác để tìm
hiểu nguồn gốc cũng như bản chất của sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với hành vi
phạm tội. Điều này dễ dẫn đến việc đánh giá không đúng chứng cứ, xác định không chính
xác sự thật khách quan của vụ án.
Mối quan hệ giữa các hoạt động của quá trình chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự nói chung cũng như trong giai đoạn
điều tra nói riêng, các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ luôn đan xen, kết
hợp với nhau trong mỗi giai đoạn tố tụng, thậm chí trong một hành vi tố tụng cụ thể. Ví
dụ: trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để thu thập chứng cứ thì Điều tra viên tiến hành
thực nghiệm điều tra, hoạt động này ngoài mục đích thu thập chứng cứ thì cũng nhằm
mục đích kiểm tra chứng cứ. Định hướng cho sự cần thiết phải tiến hành hoạt động điều
tra này chính là những chứng cứ đã được thu thập, kiểm tra bằng các hoạt động điều tra
khác mà Cơ quan điều tra đã tiến hành trước đó (như khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, hỏi cung bị can…)
Theo PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn thì “Việc phân chia quá trình chứng minh

thành các giai đoạn cụ thể không phải để khẳng định tính độc lập tuyệt đối của các giai
đoạn đó mà chỉ giúp định hướng những nhiệm vụ cụ thể phải đạt được và phương diện,
biện pháp để đạt được mục đích đó trong hoạt động của mình nhằm hướng đến mục đích


20

cuối cùng của quá trình chứng minh là xác lập chân lý khách quan của vụ án, tạo cơ sở
cho việc giải quyết đúng đắn vụ án” và “kết quả của việc đánh giá chứng cứ là cơ sở để
xác định sự cần thiết phải tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ, kết quả của việc thu
thập chứng cứ được sử dụng như phương tiện kiểm tra chứng cứ và kết quả của hoạt động
này, đến lượt mình lại trở thành cơ sở của việc đánh giá chứng cứ” [28, Tr.161,162]. Tuy
nhiên không nên đồng nhất việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ bởi lẽ đây là
những hoạt động nhận thức luôn nằm trong sự vận động và được tạo bởi các hoạt động có
tính chất khác nhau về chủ thể, phương pháp và mục đích cần phải đạt được. Trong quá
trình tố tụng hình sự hoặc ở một giai đoạn tố tụng cụ thể, có thể áp dụng đan xen các hoạt
động này, còn đối với một chứng cứ cụ thể thì cần phải áp dụng đúng trình tự thu thập,
kiểm tra, đánh giá.
Mục đích của quá trình chứng minh:
Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra
nói riêng do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Việc tìm ra chân lý khách quan của vụ án sẽ đảm
bảo vụ án được giải quyết đúng đắn, không làm oan người vô tội cũng như bỏ lọt tội
phạm. Đồng thời qua đó giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo đảm pháp chế, góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.4.2. Ý nghĩa của quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đóng vai trò quan
trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp tạo lập cơ sở vững chắc
cho hoạt động truy tố, xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Với
vai trò quan trọng như vậy, quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa lớn

về mặt chính trị, ý nghĩa pháp lý và cả ý nghĩa xã hội.
- Ý nghĩa về mặt chính trị
Với vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, quá
trình chứng minh trong giai đoạn điều tra sẽ giúp giải quyết vụ án được đúng người, đúng
tội, không làm oan người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm, tạo nền tảng cho hoạt động
chứng minh ở các giai đoạn tiếp theo của vụ án. Ngược lại quá trình thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ không đầy đủ sẽ dẫn đến sai lầm trong hoạt động tố tụng, làm giảm
niềm tin của quần chúng nhân dân vào các cơ quan tư pháp. Do vậy quá trình chứng minh
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con
người và quyền công dân. Quá trình chứng minh được thực hiện tốt sẽ đáp ứng được yêu
cầu đặt ra của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm và công cuộc cải cách tư pháp.


×