Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thừa kế quyền sử dụng đất thực tiễn giải quyết các vụ án về thừa kế quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân huyện đông anh, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ NGỌC SƠN

THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN VỀ THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHÙNG TRUNG TẬP

HÀ NỘI - 2014







1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong những năm vừa qua, thực tế đặt ra cho Việt Nam yêu cầu cấp thiết
phải xây dựng và hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã
hội cũ và mới phát sinh trong thực tế đời sống, trong đó có quan hệ thừa kế nói
chung và Thừa kế quyền sử dụng đất (TKQSDĐ) nói riêng. Thực tế cho thấy ở
bất kỳ một xã hội nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế
định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân.
Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống
của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội.
Các chế định về quyền thừa kế được quy định trong Bộ luật dân sự(BLDS)
hiện hành tương đối đầy đủ, nhưng cũng chưa thể dự liệu được hết tất cả những
trường hợp phát sinh trong thực tế đời sống. Việt Nam trong những năm trở lại
đây, dân số ngày một tăng nhanh và chính sự tăng nhanh về mặt dân số đang trở
thành một rào cản, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Với thực
trạng dân số tăng nhanh mà diện tích đất lại có hạn chính là thực tế khách quan
làm cho giá trị của đất đai ngày càng tăng lên. Giá đất được đẩy lên rất cao,
nhiều nhà từ nông dân nghèo bỗng chốc trở lên giàu có vì bán đất nơi có dự án
đường xá, cầu cống, quy hoạch của nhà nước đi qua, khiến cho lòng tham của
con người vì đồng tiền, sự giàu có, ăn sung mặc sướng được đẩy lên cao, vì thế
mà không ít những tranh chấp liên quan đến đất đai, trong đó có tranh chấp về
TKQSDĐ xảy ra rất nhiều, trở nên phổ biến và phức tạp, nhiều vụ việc liên quan
đến tranh chấp TKQSDĐ khiếu kiện, kéo dài từ năm này qua năm khác do chưa
được giải quyết hoặc giải quyết chưa thỏa đáng. Do vậy, pháp luật về thừa kế nói
riêng và những quy định pháp luật khác liên quan đến đến TKQSDĐ nên cần có
sự đồng bộ và thống nhất. Việc xác định rõ di sản thừa kế nói chung và
TKQSDĐ nói riêng là yếu tố quan trọng trong việc giải quyết các án kiện về thừa
kế vẫn còn nhiều vẫn đề gây tranh cãi cả về mặt pháp lý và lý luận áp dụng.
Trong những năm gần đây, tại huyện Đông Anh - Thành phố Hà Nội, tình
trạng tranh chấp đất đai diễn ra ngày một nhiều, chủ yếu là những tranh chấp liên



2
quan đến TKQSDĐ đai mà cha ông để lại và Tòa án nhân dân (TAND) huyện
Đông Anh đã giải quyết các vụ án tranh chấp đó như thế nào để hợp lòng dân và
đúng pháp luật. Ngoài ra, thông qua việc xét xử của TAND huyện Đông Anh ta
thấy được những hạn chế và bất cập khi áp dụng pháp luật để giải quyết các
tranh chấp về thừa kế nói chung và TKQSDĐ nói riêng trong thực tế của một
huyện. Vì vậy, học viên mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu thực hiện luận văn
thạc sĩ luật học: “Thừa kế quyền sử dụng đất và thực tiễn giải quyết các vụ án
về Thừa kế quyền sử dụng đất tại Toà án Nhân dân huyện Đông Anh, thành
phố Hà Nội”, để qua đó coi như là một tổng kết việc thực hiện pháp luật thừa kế
trong việc giải quyết tranh chấp về TKQSDĐ trong thời gian qua của huyện
Đông Anh có những nét đặc thù và là kinh nghiệm đúc rút ra trong quá trình xét
xử thực tế. Việc nghiên cứu, phân tích, nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tế áp
dụng những quy định của pháp luật để giải quyết những tranh chấp về TKQSDĐ
ở tại huyện Đông Anh có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận và thực
tiễn. Vì lý do trên, học viên đã chọn đề tài này để nghiên cứu, thực hiện luận văn
cao học luật là bảo đảm tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
2. Tình hình nghiên cứu để tài
Về thừa kế nói chung và TKQSDĐ nói riêng đã có nhiều công trình ở các
mức độ khác nhau, nghiên cứu, thực hiện. Nhưng TKQSDĐ tại một số tỉnh,
thành, quận, huyện tính đến nay ở nước ta còn rất khiêm tốn. Nghiên cứu về
TKQSDĐ tại một thành phố có Luận văn cao học của Lê Khắc Hạnh nghiên cứu
về thừa kế đối với hai loại tài sản là thừa kế nhà ở và Quyền sử dụng đất (QSDĐ)
tại Thành phố Hải Phòng. Cho đến thời điểm hiện nay ở nước ta chưa có một
công trình khoa học nào dưới mức độ sách chuyên khảo, luận án Tiến sĩ, luận
văn Cao học, khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật như: Chế độ hôn sản và thừa kế
trong luật Việt Nam của TS. Nguyễn Mạnh Bách (Nxb, Tp. Hồ Chí Minh, 1993);
Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam của TS. Nguyễn Ngọc
Điện (Nxb. Trẻ, 1999); Thừa kế theo pháp luật của Công dân Việt Nam từ năm
1945 đến nay của TS. Phùng Trung Tập (Nxb. Tư Pháp, 2004); Luật thừa kế Việt

Nam của TS. Phùng Trung Tập(Nxb. Hà nội, 2009); Thừa kế theo di chúc trong
quy định của BLDS Việt Nam. Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Văn Tuyết;


3
Pháp luật thừa kế của Việt Nam – Những vẫn đề lý luận và thực tiễn của TS.
Nguyễn Minh Tuấn (Nxb. Lao động - Xã hội, 2009) và một số công trình khác
được công bố trong các tạp chí chuyên ngành như Tạp trí TAND, Tạp trí Luật
học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật nghiên cứu về
TKQSDĐ nói chung trong phạm vi của một quận, huyện.
Nhận thức được rõ vấn đề này học viên là người trực tiếp tham gia công
tác lĩnh vực có liên quan đến quản lí đất đai do vậy càng thấu hiểu vấn đề phức
tạp của việc nghiên cứu TKQSDĐ trên địa bàn một quận, huyện. Những khó
khăn, phức tạp khi nghiên cứu về vấn đề TKQSDĐ tại Việt Nam tính đến thời
điểm này do hệ thống thống kê chưa thật đầy đủ. Hơn nữa vấn đề điều tra xã hội
học hầu như chưa có. Vì vậy, học viên phải dầy công đến các cơ quan chức năng
tại huyện Đông Anh như Phòng Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân,
Tòa án để tập hợp số liệu để thực hiện đề tài luận văn cao học Luật.
Luận văn Cao học Luật của học viên nghiên cứu về TKQSDĐ tại huyện
Đông Anh, Thành phố Hà Nội là luận văn đầu tiên nghiên cứu về vấn đề phức
tạp khi giá trị QSDĐ tại một huyện của Thành phố Hà Nội có nhiều biến động
phức tạp. Với tình hình nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài “Thừa kế Quyền
sử dụng đất và thực tiễn giải quyết các vụ án về thừa kế quyền sử dụng đất tại
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” là một công trình nghiên cứu độc lập, lần
đầu tiên được nghiên cứu và không có sự trung lặp với bất kỳ một công trình
khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu đề tài: Dựa trên những cơ sở lý luận về thừa kế nói
chung để qua đó nghiên cứu thực trạng áp dụng luật thực định để giải quyết
những tranh chấp về TKQSDĐ tại huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội, qua đó

chỉ ra những vụ việc chia di sản thừa kế liên quan đến QSDĐ còn tồn tại nhiều
sai sót, chưa thỏa đáng đồng thời cũng chỉ ra những bất cập, thiếu sót của luật
thực định để kiến nghị và nêu biện pháp hoàn thiện pháp luật quy định về di sản
thừa kế là QSDĐ.


4
b) Phạm vi nghiên cứu đề tài: Tập trung nghiên cứu quy định của pháp
luật hiện hành về thừa kế, qua đó phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hiện
hành để giải quyết những tranh chấp về TKQSDĐ của TAND huyện Đông Anh.
Tìm hiểu các cơ sở, các yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc xây dựng các quy
định của pháp luật quy định về TKQSDĐ. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp QSDĐ của Tòa án
huyện Đông Anh thông qua việc xét xử thực tế diễn ra tại huyên Đông Anh, TP.
Hà Nội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận, việc trình bày đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư
nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập. Nội dung của đề tài
được nêu và phân tích dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các
văn bản hướng dẫn, các tài liệu hướng dẫn, tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật.
Về phương pháp nghiên cứu, Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra còn sử
dụng một số phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch
sử, phương pháp logíc, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp...
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thừa kế, TKQSDĐ theo
quy định của pháp luật hiện hành.
- Phân tích thực trạng giải quyết những tranh chấp TKQSDĐ ở tại TAND

huyện Đông Anh trong một số năm trở lại đây, để qua đó nhận xét hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật qui định về TKQSDĐ
- Thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp về
TKQSDĐ tại huyện Đông Anh, chỉ ra những bất cập của một số quy định của
pháp luật về TKQSDĐ, để nêu ra phướng hướng hoàn thiện pháp luật thừa kế
phù hợp với thực tế xét xử.


5
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thừa kế quyền sử dụng đất
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
nhân dân huyện Đông Anh
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện những quy định về thừa kế
quyền sử dụng đất.


6
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế
1.1.1. Khái niệm thừa kế
Khi con người bắt đầu công cuộc cải tạo tự nhiên để tạo ra những vật
phẩm phục vụ cho cuộc sống của mình cũng là lúc những quan hệ xã hội dần
được hình thành. Con người là chủ thể trong xã hội, con người không thể tồn tại
và phát triển nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói cách khác, con
người không thể sống khi không có tài sản để thỏa mãn nhu cầu thiết yếu trong
cuộc sống của họ. Nếu tư liệu tiêu dùng là phương tiện sinh hoạt, tư liệu sản xuất

là phương diện để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh thì tài sản nói
chung là phương tiện để con người sống và làm việc. Cùng với thời gian, khi
kinh nghiệm hiểu biết của con người ngày càng phát triển, của cải có dư thừa, thì
vấn đề đặt ra là những của cải đó không chỉ nhằm thỏa mãn cho các nhu cầu cá
nhân, tức thời, mà cần phải duy trì và bảo tồn của cải cho các thế hệ mai sau. Khi
sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thoả mãn cho nhu cầu của
mình, khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người còn sống. Quá
trình dịch chuyển tài sản từ thế hệ này sang thế hệ khác được gọi là thừa kế. Trên
cơ sở đó, quan hệ thừa kế ra đời như một tất yếu của xã hội.
Chế định về thừa kế ra đời với vai trò là một trong những phương tiện
pháp lý cần thiết để bảo toàn và gia tăng tích lũy của xã hội. Việc coi thừa kế là
một căn cứ xác lập quyền sở hữu sẽ kích thích lòng say mê lao động, nhu cầu
phát triển tài sản của mình bằng sức lao động và khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân.
Nếu nhìn nhận một cách khái quát nhất, có thể hiểu “Thừa kế là việc dịch
chuyển tài sản của người chết cho người còn sống”[30, Tr 198]. Về mặt ngữ
nghĩa thì thừa kế là sự tiếp nối, thừa hưởng một cách kế tục giữa con người với
con người trong quá trình dịch chuyển di sản từ người chết cho người sống.
Quan hệ này chỉ phát sinh khi có sự kiện một người qua đời và người đó phải có
di sản để lại.


7
Ngay trong thời kì sơ khai của xã hội loài người đã xuất hiện các vấn đề
về thừa kế. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở hữu cộng
đồng về tư liệu sản xuất và các sản phẩm lao động. Ở thời kỳ này, tài sản mà con
người chiếm hữu được chỉ là những công cụ lao động thô sơ, chỉ là những sản
vật của tự nhiên mà con người thu thập được thông qua săn bắn, hái lượm. Khi
mà thông qua vấn đề sở hữu có thể phân biệt được tài sản trong xã hội thuộc về
tổ chức thị tộc nào, từ đó, cũng xuất hiện quá trình dịch chuyển tài sản của người

đã chết cho những người còn sống khác. Việc dịch chuyển dịch đó tuân theo
những tập tục trong xã hội nguyên thủy lúc bấy giờ. Ở thời kỳ đầu của xã hội
cộng sản nguyên thủy, do điều kiện kinh tế, xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào
địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc, nên việc thừa kế được dựa trên
quan hệ huyết thống và được thực hiện theo chế độ mẫu hệ. Ăngghen viết: “Theo
chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập
tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế nhưng người trong thị
tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn
trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ”[1, Tr 79].
Sự kế thừa tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt ra nền
móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài sản
theo huyết thống. Hiện nay, ở Việt Nam và ở nhiều nước trên thế giới vẫn còn
tồn tại một bộ phận dân cư (tuy rất nhỏ) vẫn duy trì việc thừa kế tài sản theo
huyết thống của người mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, cùng với sự phân công lao động trong
xã hội và gia đình, người đàn ông đã tạo ra nhiều của cải nuôi sống các thành
viên trong thị tộc, bộ lạc đã làm thay đổi quan hệ xã hội. Sự thiết lập địa vị của
người đàn ông trong gia đình và trong từng thị tộc, bộ lạc đã là căn cứ sắp xếp lại
trật tự của thị tộc, bộ lạc. Khi người đàn ông đã chiếm vị trí chủ đạo trong đời
sống xã hội, thì chế độ mẫu hệ đã bị thay thế bằng chế độ phụ hệ. Cũng từ căn cứ
đó, các con trong gia đình có quan hệ huyết thống với người cha, mang họ của
cha theo chế độ phụ hệ và thừa kế tài sản của người cha được xác lập. Như vậy,
tương ứng với từng giai đoạn lịch sử phát triển nhất định là sự phát triển của lực


8
lượng sản xuất, của hình thức gia đình..., của sự thay đổi quan hệ sở hữu và theo
đó việc thừa kế tài sản cũng thay đổi.
Như vậy, từ khi Nhà nước và pháp luật chưa ra đời, thì quan hệ sở hữu và
quan hệ thừa kế đã tồn tại như một yếu tố khách quan. Sự phát triển kinh tế xã

hội làm cho các quan hệ sở hữu thay đổi kéo theo sự thay đổi các quan hệ thừa
kế. Như vậy thừa kế là một quan hệ xã hội tất yếu xuất hiện đồng thời và tồn tại
song song với quan hệ sở hữu trong mọi hình thái kinh tế - xã hội. Nội dung kinh
tế của thừa kế chính là sự phản ánh quá trình chuyển dịch tài sản từ người đã
chết sang cho những người còn sống khác. Trong mỗi chế độ xã hội hai phạm trù
thừa kế và sở hữu gắn bó chặt chẽ với nhau, mỗi một phạm trù là một tiền đề và
cũng chính là hệ quả đối với nhau. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiền để từ đó làm
xuất hiện quan hệ thừa kế, thì quan hệ thừa kế là phương tiện để duy trì, củng cố
và xác định quan hệ sở hữu.
Khi Nhà nước ra đời, cùng với sự phân chia xã hội thành giai cấp và chế
độ tư hữu được hình thành, thì việc chiếm giữ của cải vật chất giữa người với
người được điều chỉnh bằng pháp luật, theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị.
Nếu trước đây thừa kế được thực hiện theo phong tục tập quán, thì khi xã hội có
Nhà nước, các quan hệ hệ thừa kế có sự tác động bằng ý chí của Nhà nước.
Nghĩa là, quan hệ xã hội về thừa kế không còn tồn tại khách quan với ý nghĩa là
một phạm trù kinh tế nữa, mà những quan hệ này bị rằng buộc bởi những quy
phạm pháp luật. Bằng việc ban hành văn bản pháp luật, Nhà nước quy định
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thừa kế; quy định trình tự và
điều kiện dịch chuyển tài sản cũng như quy định phương thức dịch chuyển tài
sản từ người chết sang những người còn sống khác.
Có thể nói Thừa kế là phạm trù pháp luật có tính khả biến. Tính khả biến
được thể hiện bằng các quy phạm pháp luật mà các quy phạm này không những
phụ thuộc vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là
cũng có quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Thừa
kế khi đó không những là phạm trù kinh tế, phạm trù pháp luật, mà còn mang
tính lịch sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các


9
chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội theo từng giai đoạn phát triển

nhất định.
Tóm lại, Thừa kế tài sản là phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế-xã
hội nói chung và lịch sử phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, nó xuất hiện và tồn
tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên
cơ sở tư hữu về tài sản (từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến xã hội hiện đại ngày nay)
được thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống (bao
gồm cá nhân, tổ chức) theo các nguyên tắc, trình tự và thủ tục do pháp luật quy
định.[22, Tr 10]
1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế
Khi chế độ tư hữu xuất hiện, cùng với nó xã hội được phân chia thành giai
cấp, Nhà nước và pháp luật ra đời. Nhà nước đã điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo ý chí của giai cấp thống trị, trong đó quan hệ thừa kế không nằm ngoài
phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Như vậy, để phát sinh quan hệ pháp luật thừa
kế, khái niệm quyền thừa kế xuất hiện. Nếu thừa kế là nhóm những quan hệ xã
hội phát sinh ngay cả trong một xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có Nhà
nước và nó mang tính kinh tế - tài sản thì quyền thừa kế chỉ có thể phát sinh
trong một xã hội có Nhà nước và pháp luật.
Quyền thừa kế được hiểu là một bộ phận của chế định thừa kế, do vậy nó
chứa đựng những yếu tố, tính chất, đặc điểm của một chế định pháp luật. Nếu
chế định thừa kế điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thừa kế, thì quyền thừa
kế là chế định pháp luật bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở
hữu của họ trong việc chuyển dịch tài sản để lại sau khi họ chết cho những người
còn sống có quyền hưởng thừa kế theo hình thức nhất định đó là theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Chế định quyền thừa kế không những điều chỉnh phạm vi
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế,
mà còn là phương thức bảo vệ quyền của những người thừa kế hợp pháp khi bị
xâm phạm. Các hình thức dịch chuyển di sản của một người đã chết cho những
người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật là những cơ sở xác lập quyền sở
hữu đối với di sản của người được hưởng thừa kế hợp pháp.



10
Xét trên phương điện khách quan, quyền thừa kế là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh trình tự, điều kiện, hình thức chuyển dịch tài sản,
quyền tài sản của một người đã chế cho những người còn sống, đồng thời bảo vệ
quyền của người để lại tài sản và quyền của người hưởng thừa kế di sản.
Mặc dù theo các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, pháp
luật thừa kế ở nước ta có những quy định khác nhau, nhưng từ năm 1945 đến nay
pháp luật thừa kế ở nước ta đã phản ánh rõ bản chất của nhà nước dân chủ nhân
dân. Các quy định pháp luật thừa kế ở nước ta không những bảo đảm quyền tự
do cá nhân trong việc thể hiện ý chí của mình, mà còn kết hợp hài hòa với những
truyền thống tốt đẹp trong nhân đân được thể hiện trong quan hệ gia đình, trong
dòng tộc và quan niệm về đạo đức mang nội dung mới. Tất cả những đặc điểm
đó được thể hiện tập trung trong BLDS.
Quyền thừa kế là phương diện khách quan còn được thể hiện ở việc pháp
luật bảo đảm cho công dân có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế,
không phân biệt giới tính, già trẻ, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng
lực hành vi dân sự nếu cùng hàng thừa kế thì đều được hưởng kỉ phần ngang
nhau.
Xét theo phương diện chủ quan, quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự
cơ bản của mỗi công dân được pháp luật bảo vệ. Theo phương diện này thì mọi
công dân đều có quyền ngang nhau trong việc để lại tài sản của mình cho những
người thừa kế và đều có quyền như nhau trong việc nhận di sản thừa kế do người
khác để lại. Tuy nhiên, quyền thừa kế của công dân do pháp luật quy định chỉ là
khả năng khách quan để công dân thực hiện quyền để lại di sản và hưởng di sản
thừa kế phù hợp với những quy định của pháp luật. Hay nói cách khác, pháp luật
quy định về quyền thừa kế là mở ra một khả năng trong khuôn khổ pháp luật để
công dân thực hiện quyền dân sự của mình phù hợp với những chuẩn mực do
pháp luật cho phép. Quyền thừa kế được bảo đảm khi một người được xác định
có quyền thừa kế hợp pháp hoặc theo di chúc hoặc theo pháp luật, nhưng trên

thực tế, quyền thừa kế của người thừa kế hoặc không được thực hiện đầy đủ hoặc


11
không thực hiện được do di sản không còn đầy đủ hoặc hoàn toàn không còn để
chia cho những người thừa kế...
Tóm lại, quyền thừa kế của công dân được hiểu theo hai phương diện
khách quan và chủ quan là hai phương diện có tính thống nhất, phương diện này
chi phối phương diện kia và có mối quan hệ với nhau. Nếu thiếu một trong hai
phương diện thì quyền thừa kế của công dân không thể bảo đảm thực hiện được,
mà trong trường hợp cụ thể quyền thừa kế có thể bị xâm phạm. Quyền thừa kế
của công dân do pháp luật quy định và chỉ có thể thực hiện được khi có sự kiện
chết của cá nhân, có di sản thừa kế, những người thừa kế có quyền hưởng di sản
theo di chúc hoặc theo pháp luật nhưng phải thể hiện ý chí nhận di sản.
Từ những phân tích trên, Quyền thừa kế là một phạm trù pháp luật phản
ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát triển kinh tế xã hội nói
riêng, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội có
phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản. Với tư cách là một phạm trù
pháp luật, thừa kế chính là sự dich chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá
nhân người đã chết cho những người còn sống theo điều kiện, hình thức, trình tự
và thủ tục do pháp luật quy định.[22, Tr 20]
1.2. Khái niệm và đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất
1.2.1. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
Trong đời sống thực tiễn, tài sản do cá nhân làm ra thuộc sổ hữu của riêng
cá nhân đó, pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân đối với tài sản.
Điều này có nghĩa là chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản của mình, thậm chí trong trường hợp trước khi chết họ cũng có toàn quyền
quyết định việc để lại tài sản của mình cho những người còn sống được thừa kế
theo di chúc tiếp tục kế thừa quyền sở hữu do được thừa kế. Nếu người chết
không để lại di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực thi hành thì di sản của người

chết để lại được chia theo pháp luật.
Theo giáo trình luật Dân sự Việt Nam (tập 1) của Trường Đại Học Luật
Hà nội suất bản năm 2010 có xác định: “Thừa kế với tư cách là một quan hệ
pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong


12
quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của
mình cho người khác. Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc
không nhân di sản (Trừ trường hợp luật quy định khác)”
Đối với tài sản là đất đai thì vấn đề TKQSDĐ được đặt ra khi Luật đất
đai(LĐĐ) năm 1993 được ban hành. Việc ra đời chế định TKQSDĐ nhằm đảm
bảo tính ổn định, lâu dài trong việc sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân và gắn
kết chặt chẽ người lao động với đất đai, tư liệu sản xuất quan trọng. Vậy
TKQSDĐ là gì? Câu hỏi này đã được BLDS 2005 và các công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý khác đã trả lời cụ thể:
- Theo Điều 733 BLDS 2005 quy định về TKQSDĐ như sau: “TKQSDĐ
là việc chuyển QSDĐ của người chết sang cho người thừa kế theo quy định của
Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
- Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà
Nội: “TKQSDĐ là chuyển QSDĐ của người chết cho người thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật phù hợp với các quy định của BLDS và pháp luật về đất
đai”.
- Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý (Bộ tư pháp) biên soạn:
“ TKQSDĐ: Sự chuyển dịch QSDĐ của người chết cho người còn sống. Ở Việt
nam với đặc thù đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện
chủ sở hữu, Nhà nước giao QSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân. QSDĐ là quyền tài
sản chung của hộ gia đình hoặc quyền tài sản riêng của cá nhân. Bởi vậy, khi cá
nhân hoặc thành viên trong hộ gia đình chết thì QSDĐ của họ được để thừa kế
theo di chúc hoặc theo pháp luật”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, thì QSDĐ là một loại tài
sản thuộc sở hữu của cá nhân và cá nhân có quyền để lại QSDĐ cho người thừa
kế.
Với việc tìm hiểu những quan điểm ở trên, học viên cho rằng: “TKQSDĐ
là việc dịch chuyển QSDĐ của cá nhân đã chết cho người thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật, theo đó người thừa kế trở thành chủ thể thay thế chủ sử


13
dụng của QSDĐ do được thừa kế, có các quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng
QSDĐ”.
1.2.2. Đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất
a. Quyền sử dụng đất là tài sản
Bản chất của thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người chết sang cho
người còn sống theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật, do vậy với tư
cách là một đối tượng được thừa kế, QSDĐ được hiểu là một loại tài sản được
chuyển dịch theo thừa kế cho những người có quyền hưởng thừa kế. Theo quy
định tại Điều 163 BLDS thì tài sản được quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo quy định này, thì QSDĐ là một quyền tài
sản, do vậy loại tài sản này cũng được chuyển dịch theo thừa kế.
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là một loại tài sản đặc biệt, có ý nghĩa
kinh tế, chính trị, xã hội, nó liên quan đến mọi người, mọi cơ quan, tổ chức, được
nhà nước hết sức quan tâm. Do đó, về đất đai thì luôn luôn có một chế độ pháp lý
riêng biệt và quan trong nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến đất đai.
Có lẽ không có loại tài sản nào gắn với mọi người, mọi nhà nhưng lại chỉ có một
chủ thể được quyền sở hữu đó là Nhà nước, còn người sử dụng đất, tuy không
phải là chủ sở hữu nhưng lại có gần như đầy đủ các quyền tương tự như các
quyền của một chủ sở hữu tài sản và đương nhiên vì không phải chủ sở hữu nên
người sử dụng loại tài sản đặc biệt này có những hạn chế nhất định. Vì vậy,
TKQSDĐ cũng có những điểm khác biệt, đặc thù khác với thừa kế các loại tài

sản khác ngoài QSDĐ.
b. Thừa kế quyền sử dụng đất là thừa kế quyền tài sản
Theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân và
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu quản lý, người sử dụng đất chỉ có quyền chiếm
hữu, khai thác sử dụng đất theo đúng mục đích của đất đó, do vậy QSDĐ là
quyền tài sản được quy định tại Điều 163 và Điều 181 BLDS. Trong trường hợp
này, di sản thừa kế không phải là đất, diện tích đất mà phải hiểu là quyền sử
dụng phần diện tích đất đó, việc TKQSDĐ ngoài việc phải tuân theo các quy
định của BLDS còn phải tuân theo các quy định của LĐĐ năm 2003.


14
Việc xác lập QSDĐ cho người thừa kế được thực hiện tuân theo các quy
định, nguyên tắc về việc chuyển giao quyền tài sản… Một điều rất đặc biệt ở
Việt Nam theo quy định của pháp luật thì đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà
Nước, người sử dụng đất là người có quyền khai thác lợi ích của đất đai để xây
dựng các công trình kiến trúc, sản xuất nông nghiệp, làm muối, trồng rừng…
QSDĐ là quyền tài sản, do vậy cá nhân có QSDĐ thì có quyền để lại loại tài sản
này (quyền tài sản) cho những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
QSDĐ là một loại tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân được Nhà nước cấp
đất. Với tư cách là chủ sở hữu của quyền tài sản này, cá nhân có quyền để lại loại
tài sản đặc biệt này cho những người thừa kế, sau khi chủ thể của QSDĐ qua đời.
Nếu xét về góc độ tài sản, thì đất đai là một loại vật thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước, nhưng QSDĐ lại là một loại tài sản thuộc quyền sở hữu của người sử
dụng. Quyền tài sản này là tài sản theo quy định tại điều 163 BLDS, cho nên
người có QSDĐ có quyền để lại thừa kế loại tài sản này. Tuy nhiên không phải
mọi trường hợp người TKQSDĐ được nhận diện tích đất do được thừa kế quyền
sử dụng mà có thể chỉ được nhận giá trị bằng tiền tương đương nếu người sử
dụng đất không đủ điều kiện để được sử dụng QSDĐ đó theo quy định của pháp
luật.

1.3. Người thừa kế quyền sử dụng đất
1.3.1. Người để lại thừa kế quyền sử dụng đất
Do tính chất đặc biệt của QSDĐ so với các loại tài sản khác, mà pháp luật
về TKQSDĐ cũng có những quy định đặc biệt về người để lại TKQSDĐ, bởi vì
không phải bất cứ ai có QSDĐ đều có quyền để lại TKQSDĐ, mà chỉ có những
chủ thể đáp ứng được những điều kiện pháp luật quy định mới có thể thực hiện
quyền năng này.
Tại Khoản 5, Điều 113 LĐĐ 2003 có quy định về Quyền và nghĩa vụ của
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê, theo đó, có thể nhận
thấy, người để lại TKQSDĐ gồm:


15
a. Cá nhân
Mọi cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê đều có quyền để lại
TKQSDĐ theo di chúc hoặc theo pháp luật. Pháp luật quy định cá nhân là một
trong các chủ thể có thể để lại TKQSDĐ mà không phải là tổ chức, bởi thừa kế
trước hết là một quan hệ mang tính đặc thù, đó là sự dịch chuyển tài sản từ người
đã chết cho người còn sống, được phát sinh khi người để lại tài sản chết. Giữa
người chết và người sống trong trường hợp này có mối quan hệ nhất định với
nhau như quan hệ hôn nhân, huyết thống… Những quan hệ này chỉ được hình
thành giữa các cá nhân với nhau, mà tổ chức không thể đáp ứng được.
Mặt khác, nước ta là một nước nông nghiệp, diện tích đất hạn hẹp và ngày
càng bị thu hẹp do dân số và nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng nhanh, dẫn đến
tình trạng diện tích đất nông nghiệp ngày càng hạn chế. Bởi vậy, pháp luật quy
định hạn chế quyền năng để lại TKQSDĐ của tổ chức có ý nghĩa quan trọng, qua
đó hạn chế tình trạng để lại thừa kế một cách tràn lan, hoặc hưởng thừa kế khi
không có nhu cầu sử dụng đất, dẫn đến đất đai bỏ hoang làm giảm giá trị của đất
đai, hạn chế tình trạng chuyển đổi mục đích sử đụng đất một cách bừa bãi.
LĐĐ 2003 đã ghi nhận quyền để lại TKQSDĐ của mọi cá nhân với điều

kiện là đất “không phải là đất thuê”. Tuy nhiên, theo quy định của BLDS 2005,
thì cá nhân được Nhà nước “cho thuê đất” vẫn có quyền được để lại thừa kế cho
người khác. Các cá nhân này có quyền để TKQSDĐ của mình theo di chúc hoặc
theo pháp luật bất kể đó là loại đất gì. Đây là một điểm mới của BLDS 2005 so
với các quy định trong Điều 739 BLDS 1995, Điều 76 LĐĐ năm 1993 được sửa
đổi qua các năm 1998, 2001, và Điều 22 Nghị định số 17/1999/NĐ-CP của
Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
TKQSDĐ và thế chấp góp vốn bằng giá trị QSDĐ. Theo đó, các văn bản này
quy định chỉ những cá nhân sau mới có quyền để lại TKQSDĐ: Cá nhân sử dụng
đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, cá nhân thành viên hộ
gia đình sử dụng đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất trồng rừng và đất ở.
Ngoài ra, Nghị định số 17/1999/NĐ-CP có công nhận thêm một đối tượng nữa


16
đó là cá nhân sử dụng đất chuyên dùng. Với quy định này, luật mới đã mở rộng
hơn rất nhiều phạm vi chủ thể được để lại thừa kế so với các quy định trước đây.
Như vậy, Điều 734 BLDS 2005 đặt ra vấn đề chủ thể sử dụng đất thuê có
quyền để lại TKQSDĐ. Tuy nhiên, Điều 113 LĐĐ 2003 lại quy định cá nhân sử
dụng đất không phải là đất thuê có quyền để lại TKQSDĐ của mình theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 113, Điều 114 của LĐĐ 2003 thì đối
với QSDĐ thuê của người chết được hiểu như sau:
- Cá nhân được Nhà nước cho thuê đất trước ngày LĐĐ 2003 có hiệu lực
thi hành mà đã trả tiền thuê cho cả thời gian thuê hoặc đã trả tiền thuê đất cho
nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì có
quyền để lại TKQSDĐ.
- Cá nhân được Nhà nước cho thuê đất từ khi LĐĐ 2003 có hiệu lực thi
hành không có quyền để lại TKQSDĐ mà chỉ được để lại thừa kế đối với tài sản
gắn liền với đất thuê, người nhận thừa kế được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất
theo mục đích đã được xác định.

Bên cạnh đó, cá nhân được nhận QSDĐ theo các căn cứ được quy định cụ
thể tại Điều 99 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành LĐĐ
cũng là chủ thể được để lại TKQSDĐ.
b. Thành viên hộ gia đình
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 113 LĐĐ 2003, Hộ gia đình được Nhà
nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì QSDĐ của thành viên đó
được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nhận thấy, các thành viên
trong hộ gia đình thực chất cũng là cá nhân. Tuy nhiên, LĐĐ đã tách riêng chủ
thể này bởi vai trò quan trọng của chủ thể đó trong pháp LĐĐ. Vậy để hiểu các
thành viên trong hộ gia đình là những ai, trước hết cần tìm hiểu khái niệm hộ gia
đình.
Khác với các lĩnh vực như hôn nhân gia đình, xã hội học, theo đó, trong
những mối quan hệ trên, hộ gia đình chủ yếu được xác lập dựa trên quan hệ hôn
nhân và huyết thống, thì dưới góc độ của LĐĐ, hộ gia đình được xác lập trên cơ
sở khái niệm hộ gia đình được đề cập tại Điều 106 BLDS 2005, theo đó, “Hộ gia


17
đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động
kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân
sự thuộc các lĩnh vực này”.
Như vậy, có hai điều kiện để coi là hộ gia đình trong quan hệ QSDĐ, đó
là: Các thành viên đều có QSDĐ là tài sản chung, và đều hoạt động kinh tế
chung.
Qua đó, có thể hiểu, trong quan hệ sử dụng đất, các thành viên trong hộ gia
đình là những cá nhân có QSDĐ nằm trong khối tài sản chung của hộ gia đình và
cùng sản xuất, kinh doanh với cả hộ gia đình trên mảnh đất được giao chung cho
cả hộ gia đình đó. Do đó, đối với các cá nhân là thành viên của hộ gia đình thì di
sản thừa kế của những người này là một phần quan trọng trong khối tài sản

chung của hộ gia đình chứ không phải là tài sản của riêng họ.
Quy định tại Khoản 5 Điều 113 LĐĐ 2003 “Hộ gia đình được Nhà nước
giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì QSDĐ của thành viên đó được để
thừa kế theo di chúc, hoặc theo pháp luật” là một quy định mới so với các quy
định pháp luật trước kia. LĐĐ 1993 sửa đổi các năm 1998, 2001 và trong BLDS
1995 không thừa nhận quyền để thừa kế của các thành viên trong hộ gia đình đối
với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm và đất nuôi trồng thủy sản, theo đó chỉ
thừa nhận quyền tiếp tục sử dụng đất như sau: “Hộ gia đình được Nhà nước giao
đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, nếu trong hộ có thành
viên chết thì các thành viên khác trong hộ được quyền tiếp tục sử dụng diện tích
đất mà Nhà nước đã giao cho hộ. Trường hợp trong hộ gia đình không còn
thành viên nào thì Nhà nước thu hồi đất” (Khoản 2 Điều 76 LĐĐ 1993). Sở dĩ
pháp luật trước kia quy định như vậy dựa trên những cơ sở sau:
Về mặt pháp lý, đây là trường hợp “Hộ gia đình được giao đất”, cho nên
hộ gia đình là một chủ thể sử dụng đất, nhưng chủ thể này lại bị hạn chế bởi đây
không phải là một cá nhân nên không có quyền để thừa kế. Do đó, quan hệ này
phải thay thế bởi một dạng quan hệ khác, đó là “quyền tiếp tục sử dụng đất”.


18
Về mặt xã hội, việc công nhận quyền tiếp tục sử dụng đất của các thành
viên trong hộ gia đình nhằm tạo điều kiện cho các thành viên còn lại trong gia
đình tiếp tục sử dụng ổn định, không bị gây xáo trộn khi có sự kiện một thành
viên qua đời, giúp họ yên tâm đầu tư trên mảnh đất chung của hộ.
Nhà nước giao đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
là giao cho cả hộ gia đình với số nhân khẩu hiện có khi thực tế giao đất. Các hộ
gia đình sẽ có sự phát triển nhân khẩu một cách tự nhiên, trong thời hạn giao đất
nhà nước không có sự điều chỉnh diện tích đất cho các nhân khẩu mới, vì vậy
không cho phép để thừa kế cho các đối tượng khác mà phải cho các thành viên
tiếp tục sử dụng đất.

Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là, bản chất của quan hệ thừa kế là
một quan hệ dân sự, theo đó, ý chí của người để lại thừa kế là một yếu tố quan
trọng được đặt lên hàng đầu. Nói cách khác, trong quan hệ này, quyền định đoạt
của người để lại thừa kế luôn được tôn trọng. Bởi vậy, nếu Nhà nước không cho
họ quyền được để lại thừa kế trong một số trường hợp như trên phải chăng là
một hình thức hạn chế quyền năng của chủ thể(người để lại thừa kế)? Bên cạnh
đó, nếu hiểu theo nghĩa hộ gia đình theo quy định của pháp luật trước đây, có thể
đặt ra một thực tế, nếu trong trường hợp đều là con của cha, mẹ những người nào
có tên trong hộ gia đình thì được sử dụng di sản này, còn những người khác đã
tách riêng ra khỏi hộ thì không được hưởng di sản nữa, hoặc một người không có
quan hệ họ hàng ruột thịt nhưng có tên trong hộ thì đương nhiên được sử dụng di
sản đó. Điều này sẽ gây ra sự bất bình đẳng đối với những người được hưởng di
sản. Hạn chế trong những quy định này đã dẫn đến thực tế không ít tranh chấp
đòi di sản thừa kế giữa các con của người đã chết với thành viên trong hộ đang
sử dụng đất dưới hình thức quyền tiếp tục sử dụng.
BLDS 2005 ra đời với những quy định không còn có sự phân biệt việc
TKQSDĐ của cá nhân và hộ gia đình. Theo đó, đất cấp cho hộ gia đình cũng là
đối tượng của việc để lại thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bên cạnh đó
cũng không còn đặt ra các điều kiện khác nhau trong việc TKQSDĐ giữa các
loại đất ở, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm


19
và nuôi trồng thủy sản. Đây được xem là một quy định hợp lý, phù hợp với thực
tiễn cuộc sống, và là một thuận lợi cho các Tòa án khi giải quyết tranh chấp
QSDĐ.
1.3.2. Người hưởng thừa kế quyền sử dụng đất
TKQSDĐ bản chất là một quyền dân sự phát sinh từ quyền sở hữu toàn
dân đối với đất đai. LĐĐ 2003 ra đời đã có những quy định về chuyển quyền và
nhận chuyển quyền. Có thể thấy so với trước kia, những quy định này đã thông

thoáng hơn nhiều, trong đó đặc biệt phải kể đến những quy định về điều kiện đối
với người được hưởng TKQSDĐ.
Mặc dù thực tế, LĐĐ không trực tiếp quy định về đối tượng được nhận
TKQSDĐ, tuy nhiên, theo khoản 1, Điều 113 LĐĐ 2003, thừa nhận “Cá nhân sử
dụng đất có quyền để TKQSDĐ của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật.”, và
đối chiếu với các quy định của pháp luật dân sự thì có thể hiểu, chủ thể hưởng
TKQSDĐ là bất cứ cá nhân nào nếu thỏa mãn được các điều kiện hưởng thừa kế
và không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 643 BLDS 2005 về Người
không được quyền hưởng di sản.
a. Người được hưởng thừa kế theo di chúc
Thừa kế theo di chúc được hiểu là sự chuyển dịch tài sản của người chết
cho người còn sống thông qua một di chúc. Pháp luật công nhận quyền để lại
thừa kế theo di chúc của công dân được xem là việc thể hiện tôn trọng quyền
định đoạt của chủ thể sử dụng đất. Theo đó, người để lại thừa kế nói chung và
người để lại TKQSDĐ nói riêng hoàn toàn có thể thể hiện sự định đoạt này bởi
hành vi pháp lý đơn phương, đó là để lại di chúc. Di chúc được xem là sự thể
hiện ý chí của người chết, qua đó, họ có quyền chỉ định một người được thừa kế
hoặc truất quyền hưởng thừa kế của những người khác, phân định tài sản, giao
nghĩa vụ tài sản cho những người được thừa kế… Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là người để lại di chúc có quyền để lại thừa kế cho bất kỳ ai và truất quyền
hưởng thừa kế của bất kỳ ai, mà cần phải tuân theo những quy định của pháp
luật.


×