Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân tỉnh yên bái đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.82 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----oOo-----

HOÀN G M ẠN H HÙN G

ĐỔI M ỚI TỔ C HỨC VÀ HO ẠT ĐỘN G C ỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂ N TỈN H Y ÊN BÁI ĐÁ P ỨN G Y ÊU CẦU CẢI
CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Minh Đoan

Hà Nội - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


Hà Nội, ngày 01 tháng 01 năm 2013

Hoàng Mạnh Hùng


LỜI CẢM ƠN
----*****---

Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tâm, nhiệt tình của PGS.TS
Nguyễn M inh Đoan đã giúp em hoàn thành tốt luận văn này.
Em cũng xin được cảm ơn bà Chánh án, bà Trưởng phòng Tổ chức – Cán
bộ, lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái; ông Chánh án, lãnh đạo và toàn thể
cán bộ Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái là nơi em công tác đã giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa học và luận văn.
Nhân dịp này, cho phép em gửi lời cảm ơn đến các thầy, các cô trong bộ
môn Lý luận nhà nước và Pháp luật, khoa Sau đại học – trường Đại học Luật Hà
Nội, các cá nhân và tổ chức khác đã giúp đỡ em trong quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 01 năm 2013
Học viên

Hoàng Mạnh Hùng


CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

Bộ luật tố tụng hình sự

: BLTTHS


Bộ luật hình sự

: BLHS

Tòa án nhân dân

: TAND

Xã hội chủ nghĩa

: XHCN

Viện kiểm sát nhân dân

: VKSND


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chƣơng I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM .. 10

1.1. Khái quát chung về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân tỉnh ở Việt
Nam ..........................................................................................................10
1.1.1. Vị trí, chức năng và thẩm quyền của tòa án nhân dân tỉnh ........10
1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
tỉnh ...........................................................................................................16
1.2. Cải cách tƣ pháp ở Việt Nam và những yêu cầu đòi hỏi đối vớ i tổ
chức và họat động của tòa án nhân dân tỉnh .........................................21
1.2.1. Cải cách tƣ pháp ở Việt Nam - một nhu cầu cấp thiết trong giai

đoạn hiện nay ...........................................................................................21
1.2.2. Những yêu cầu của cải cách tƣ pháp liên quan đến tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân tỉnh................................................................23
1.3. Nội dung, cách thức, lộ trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân tỉnh theo yêu cầu cải cách tƣ pháp ở Việt nam ...... ................27
1.4. Ý nghĩa của việc đổi mới và những yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình
đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân tỉnh ở Việt Nam ....32
Chƣơng II. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TAND TỈNH YÊN BÁI THEO YÊU CẦU CẢ I CÁCH TƢ PHÁP ................... 35

2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái .........................................................35
2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái theo yêu cầu cải cách tƣ
pháp ..........................................................................................................41
2.3. Những kết quả đổi mới đã đạt đƣợc và những tồn tại, hạn chế,
nguyên nhân .............................................................................................45
Chƣơng III. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢ I PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TAND TỈNH YÊN BÁI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁ CH TƢ
PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................ 58


3.1. Quan điểm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân tỉnh Yên Bái hiện nay .......................................................................58
3.2. Một số giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân tỉnh Yên Bái hiện nay .............................................................65
3.2.1.Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của
Tòa án.......................................................................................................65
3.2.2. Cần lựa chọn xây dựng một mô hình Tòa án phù hợp, tăng cƣờng
tính độc lập cho Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp ..66

3.2.3. Phải tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án một cách hợp lý, tránh
hình thức, chạy theo số lƣợng .................................................................69
3.2.4. Trong hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với
Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời, bảo vệ
công lý, công bằng xã hội ........................................................................70
3.2.5. Kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức ngành Tòa án theo hƣớng tinh
giản, hiệu quả, bố trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng nhân sự
đúng ngƣời đúng việc, đúng sở trƣờng; đồng thời có chính sách phù hợp
để thu hút đội ngũ những ngƣời có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt
phục vụ cho sự phát triển của ngành ......................................................72
3.2.6. Hoàn thiện hơn nữa tổ chức và hoạt động của Hội thẩm nhân dân
..................................................................................................................73
3.2.7. Khẩn trƣơng hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hƣớng thống
nhất, đồng bộ, phù hợp, khả thi, dễ hiểu và dễ tiếp cận làm cơ s ở pháp lý
trong hoạt động xét xử của Tòa án .........................................................74
3.2.8. Tăng cƣờng đƣa ra xét xử lƣu động các vụ án .............................76
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự cải cách mạnh mẽ của bộ máy Nhà nước,
vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Điều đó được thể hiện trong các văn kiện Đại
hội của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) qua các kỳ Đại hội như: Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, các Nghị quyết TW 3 và Nghị quyết TW 7
khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X. Đặc biệt, Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã khẳng định, “trong những năm

qua… công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế x ã hội chủ
nghĩa, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới, phần lớn cán bộ làm công tác tư
pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành
nhiệm vụ [1.tr1]. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phục vụ tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Nhận thức rõ điều này, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã tích cực
đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tuy
nhiên quá trình này diễn ra còn chậm, chưa đồng bộ và toàn diện, hoạt động xét
xử của Tòa án chưa phản ánh kịp với diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm
và các quan hệ pháp luật khác. Cụ thể: Chất lượng xét xử của tòa án nhân dân
(TAND) các cấp vẫn còn thấp, tình trạng kết tội oan sai cho người vô tội, án tồn
đọng kéo dài gây bức xúc cho nhân dân vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đó
đội ngũ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng vẫn tồn tại; cơ
sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, nghèo nàn
1


và lạc hậu. Những tồn tại trên được Đảng ta chỉ rõ trong B áo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI
là: Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu cả về
phẩm chất và năng lực, quá trình “cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ.
Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính
xác, án tồn đọng, án bị hủy, bị sửa còn nhiều”.
Tỉnh Yên B ái là một tỉnh miền núi phía Bắc có diện tích: 688,64 ha; dân
số 752.922 người. Cơ cấu tổ chức của ngành Tòa án tỉnh Yên Bái hiện nay gồm :
TAND tỉnh Yên Bái có 05 Tòa chuyên trách, 03 phòng giúp việc và 9 TAND

cấp huyện. Toàn ngành TAND tỉnh Yên Bái có 130 công chức, trong đó có 100
người có trình độ đại học. Trong những năm qua, cùng với ngành Tòa án toàn
quốc, TAND tỉnh Yên Bái đã không ngừng nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Chất lượng hoạt động xét xử đã
được nâng lên từng bước, góp phần giải quyết tốt các tranh chấp phát sinh trong
đời sống xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương,
tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập
quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .
Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác tổ chức và hoạt động của cơ quan tư
pháp nói chung và tại ngành Tòa án nói riêng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó
là:
Chất lượng công tác tư pháp nói chung, chất lượng xét xử nói riêng chưa
ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; chính sách hình sự, chế định
pháp luật dân sự… và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhi ều bất cập, chậm được
sửa đổi, bổ sung; tổ chức bộ m áy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của
các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của
một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạ o
đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Bênh cạnh đó, vẫn còn tình trạng oan sai, bỏ lọt
tội phạm trong điều tra, giam, giữ, truy tố, xét xử… , các bản án bị hủy, cải sửa
2


lớn do lỗi chủ quan. M ặc dù các bản án sai sót không nhiều nhưng ảnh hưởng
không tốt đến uy tín của Thẩm phán, tính công bằng, công lý của Tòa án; xâm
hại đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công dân, làm giảm sút niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp.
M ặt khác, cùng vớ i sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, tình
hình tội phạm diễn ra ngày càng đa dạng phức tạp, liều lĩnh, táo bạo với nhiều
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong nhiều lĩnh vực; không chỉ xâm phạm an ninh
quốc gia, tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm, quyền sở hữu tài sản của

công dân mà còn xuất hiện nhiều loại tội phạm mới trong quản lý kinh tế, tin
học, trật tự hành chính, bảo vệ môi trường… Đặc biệt tội phạm có tổ chức hoạt
động dưới dạng các băng nhóm xã hội đen, tội phạm về ma túy, tham nhũng, vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, trong thời gian
gần đây đã và đang gây ra những tác hại nghiêm trọng về an ninh trật tự và đời
sống xã hội.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân,
một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Tòa án thực sự là cơ quan bảo
vệ công lý, công bằng, lẽ phải và quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mỗi người
dân trước nguy cơ bị xâm hại trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức khác, cũng
như từ chính các cơ quan tiến hành tố tụng. Cùng với đó, góp phần duy trì t rật tự
xã hội và tạo môi trường ổn định, lành mạnh, thuận lợi cho cuộc sống của người
dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng trong việc cần thiết phải đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án, xuất phát từ những đòi h ỏi của công cuộc cải
cách bộ máy Nhà nước, để góp phần xây dựng Tòa án tương xứng với vị trí, vai
trò của nó trong bối cảnh chủ trương Việt Nam xây dựng thành công Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tác giả
chọn đề tài:“Đổi mới tổ chức và họat động của Tòa án nhân dân tỉnh Yên
Bái đáp ứng yêu cầu cải cải cách tƣ pháp ở Việt Nam” để làm đề tài luận văn
3


thạc sĩ của m ình. Nghiên cứu này mong muốn góp phần làm phong phú thêm cơ
sở và lý luận cho việc xây dựng ngành Tòa án tỉnh Yên Bái ngày một hoàn thiện.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
TAND với vị trí là bộ phận quan trọng trong bộ m áy Nhà nước, có vai trò
to lớn trong việc giữ gìn trật tự pháp luật, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ
nghĩa(XHCN), bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công
dân nên được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chủ trương cải cách đổi mới để ngày

một hoàn thiện hơn. Để đáp ứng yêu cầu đó của Đảng và Nhà nước, trong những
năm qua, có rất nhiều công trình nghiên cứu về phương diện lý luận và phương
diện thực tiễn của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả, nhằm góp phần thực hiện
đổi mới TAND. Có thể chia các công trình nghiên cứu theo các nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất: Những công trình nghiên cứu về hệ thống tư pháp, thực
trạng và phương hướng cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam, trong đó có đề cập
đến TAND: Đề tài cấp Bộ do Nguyễn Văn Thảo làm Chủ nhiệm: “Năm m ươi
năm ngành tư pháp Việt Nam” M ã số 96-98.035; sách tham khảo: “Đại hội VII
Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về nhà nước
và pháp luật”- NXB Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1997 do GS. TSKH Đào Trí
Úc làm chủ biên; “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp”, Hà Nội, năm 2001 - Đề tài cấp Bộ do PGS. TS Hoàng Thế
Liên làm Chủ nhiệm ; sách tham khảo: “M ột số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, do TS. Lê M inh Thông
chủ biên, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001; phát biểu của Chủ tịch nước
Trần Đức Lương: “Đẩy m ạnh cải cách tư pháp đáp ứng y êu cầu xây dựng NNPQ
XHCN Việt Nam, Báo Nhân Dân ngày 26/3/2002; bài viết: “Cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng NNPQ: M ột số vấn đề chung”, PGS. TSKH
Lê Cảm, Tạp chí Khoa học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, số 3 năm
2003; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây

4


dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, TS. Trần Huy Liệu, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội năm 2003.
Nhóm thứ hai: Những công trình nghiên cứu về TAND ở các góc độ
như: Đề tài cấp Bộ do TS Trịnh Hồng Dương làm Chủ nhiệm : “Vị trí vai trò và
chức năng của TAND trong bộ máy Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng ở Việt
Nam” M ã số 95-98.048/ĐT quyển 1 năm 1996 Hà Nội năm 1996; bài viết: “Vai

trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư p háp” TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí
TAND số 5 năm 2001; sách tham khảo: “M ột số vấn đề hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước ở nước CHXHCN Việt Nam” do TS Lê M inh
Thông chủ biên, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Bài viết: “C ải cách hệ
thống Toà án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của
TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2002, Hà Nội, năm 2002 ;
Luận án Tiến sĩ Luật học của Lê Thành Dương: “Đổi mới tổ chức và hoạt động
của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Việ n nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật, Hà Nội, năm 2002…
Những công trình nghiên cứu này đã đánh giá tương đối đầy đủ về hệ
thống tư pháp ở Việt Nam trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, đã khái quát
được sự hình thành và phát triển của TAND qua các gi ai đoạn cách mạng, luận
về cải cách tư pháp mà ở đó đưa ra nhiều kiến nghị có ý nghĩa để đổi mới tổ
chức và hoạt động của TAND.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của các công trình ở nhóm thứ nhất là hệ
thống tư pháp ở nước ta, trong đó TAND được đề cập như là một bộ phận của hệ
thống này, cho nên những nội dung về Toà án như tổ chức, hoạt động, thẩm
quyền mới đượ c nghiên cứu ở phương diện chung nhất, chưa được đề cập một
cách đầy đủ và sâu sắc. Bên cạnh đó, những giải pháp được các tác giả đưa ra
còn mang tính tổng quát cho cả hệ thống tư pháp chứ không phải dành riêng cho
cải cách Tòa án. Còn các công trình nghiên cứu ở nhóm thứ hai đề cập trực tiếp
đến hệ thống TAND ở những khía cạnh cụ thể như: “Vị trí, vai trò, chức năng
5


của TAND trong bộ m áy Nhà nước qua các giai đoạn cách mạng”, “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”... Hầu hết các
đề tài, chuyên đề bài viết được thực hiện từ trước khi có Nghị quyết 49 - NQ/TW
của Bộ Chính trị, do đó những kiến nghị, giải pháp được cá c tác giả đưa ra đến
nay không còn hoặc còn rất ít tính thời sự.

Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện và có hệ thống về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Yên Bái
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Do đó, ở luận văn này, tác giả
nghiên cứu đề tài theo hướng hệ thống và toàn diện hơn để góp phần thực hiện
thành công cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nướ c và chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng xã
hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cũng như giữ vững sự ổn định về
an ninh, chính trị, trật tự an tòan xã hội và phát triển kinh tế trên tỉnh nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
M ục đích của luận văn là nghiên cứu một cách toà n diện, có hệ thống về
mặt lý luận, đánh giá một cách có căn cứ khoa học về tổ chức, hoạt động và thực
trạng của TAND tỉnh. Trên cơ sở đó và dựa vào những quan điểm, phương
hướng cải cách tư pháp của Đảng để đề xuất những giải pháp tối ưu nhằm góp
phần hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Yên Bái, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu là:
- Làm rõ về mặt lý luận những vấn đề như: Nội dung, cách thức, lộ trình
đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá toàn diện quá trình hình thành phát triển, thực trạng
tổ chức, hoạt động, thẩm quyền, hoạt động xét xử và thực trạng đội ngũ cán bộ
của TAND tỉnh Yên Bái, những yêu cầu đ òi hỏi về tổ chức và hoạt động của
TAND tỉnh trong tiến trình cải cách tư pháp.
6


- Từ những quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp của Đảng, Nhà
nước ta, luận văn đi sâu phân tích những thuận lợi và khó khăn, những kết qủa
đổi mới đã đạt được về tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Yên Bái theo yêu
cầu cải cách tư pháp; đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện về tổ

chức, hoạt động của TAND tỉnh Yên Bái, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư
pháp.
4- Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lĩnh vực đổi mới tổ chức và hoạt
động của TAND tỉnh Yên Bái trên cơ sở lý luận và thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu nghiên cứu về mặt lý luận và thực
tiễn vị trí, vai trò chức năng, thẩm quyền của TAND theo quy đị nh pháp luật
hiện hành, làm sáng tỏ những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND. Đồng
thời luận văn nghiên cứu thực trạng về tổ chức, hoạt động và đội ngũ cán bộ của
TAND tỉnh Yên Bái để có cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện những ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân, làm cơ sở để xác định các quan điểm, phương hướng,
nội dung, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện TAND tỉnh Yên Bái theo yêu
cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
5- Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của chủ nghĩa M ác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí M inh về Nhà nước, pháp luật, những quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Nhà nước ta về cải cách tư pháp nói chung,
cải cách hệ thống TAND nói riêng… Luận văn được nghiên cứu dựa trê n cơ sở
các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND và các văn bản pháp
luật khác qui định về tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của TAND.
Trên cơ sở phương pháp luận của triết học M ác - Lê-nin là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương
pháp cụ thể như: phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp

7


với phương pháp khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên
cứu của luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn
diện về cơ sở lý luận, pháp lý, thực tiễn của TAND tỉnh Yên Bái, được thể hiện
ở những nội dung cơ bản sau đây:
- Luận văn đi sâu phân tích, làm rõ những vấn đề khái quát chung về tổ
chức và hoạt động của TAND tỉnh ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những luận cứ
quan trọng góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vị trí, vai trò của TAND tỉnh
Yên Bái.
- Luận văn phân tích, đánh giá toàn diện, có hệ thống về thực tiễn tổ chức,
hoạt động, cách thức, lộ trình đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Yên
Bái trong giai đoạn hiện nay. Từ đó xác định rõ những kết quả đã đạt được, đánh
giá những hạn chế và nguyên nhân, làm cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của TAND tỉnh Yên Bái.
- Luận văn đã hệ thống đầy đủ và tổng hợp các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về cải cách tư pháp nói chung và cải cách TAND trong giai đoạn hiện
nay. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng, đề xuất các giải pháp, kiến nghị về
đổi mới tổ chức và hoạt động TAND tỉnh Yên Bái, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần quan trọng vào việc làm sáng
tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai trò của TAND nói
chung và TAND tỉnh Yên Bái nói riêng trong bộ máy Nhà nước, về vai trò
“trung tâm” của Toà án trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ t ích cực công cuộc đổi
mới.
8


Bằng việc phân tích , đánh giá những thuận lợi và khó khăn, kết quả đổi
mới đã đạt được, thực trạng tổ chức, hoạt động của TAND tỉnh Yên Bái, luận

văn góp phần khẳng định tính tất yếu khách quan của việc cần thiết đổi mới tổ
chức và hoạt động TAND tỉnh Yên Bái theo tinh thần cải cách tư pháp; góp phần
xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, hiệu quả hoạt động ngày
một nâng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những kết luận, kiến nghị đề xuất trong luận văn có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng hệ thống đồng bộ các giải pháp nhằm cải cách hệ thống
TAND tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay. Luận văn là tài liệu tham khảo cần
thiết cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đà o tạo khoa học
pháp lý và cho những người quan tâm tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của hệ
thống TAND tỉnh Yên Bái
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương.

9


Chƣơng I
MỘ T SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔ I MỚ I TỔ CH ỨC VÀ H O ẠT ĐỘ NG CỦA
TÒ A ÁN NH ÂN DÂN TỈNH TRO NG CẢI CÁCH TƢ PH ÁP Ở VIỆT NAM

1.1. Khái quát chung về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân tỉnh ở
Việt Nam
1.1.1. Vị trí, chức năng và thẩm quyền của tòa án nhân dân tỉnh
* Vị trí của tòa án nhân dân tỉnh
Với chức năng xét xử, TAND tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng so với các
cơ quan Nhà nướ c nói chung và các cơ quan tư pháp ở cấp tỉnh nói riêng, được
thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, TAND tỉnh xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ và o pháp luật
hiện hành của Nhà nướ c để đưa ra những phán quyết thể hiện trực tiếp ý chí của

Nhà nước, của nhân dân đối với từng vụ việc cụ thể. Ý chí đó phải được thể hiện
bằng những quyết định mang tính chất pháp lý cao, đánh giá khách quan bản
chất sự việc cụ thể và đượ c thể hiện dưới hình thức là bản án hay quyết định của
tòa án. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND tỉnh phản ánh một cách trực tiếp
và sâu sắc bản chất của Nhà nước, ý chí của nhân dân.
Thứ hai, thông qua hoạt động xét xử của mình, TAND tỉnh thực hiện
được việc kiểm tra hành pháp của các cơ quan Nhà nước, quyền công dân, quyền
con người, hơn nữa là còn góp phần bảo vệ cho trật tự xã hội được an toàn, ổn
định, phát triển lành mạnh và bền vững.
Ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay, TAND tỉnh có vị trí trung tâm trong
việc tổ chức, thực hiện quyền tư pháp ở cấp tỉnh với chức năng tổ chức và tiến
hành hoạt động xét xử là một trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt
động cải cách tư pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ -TW, ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm
2020. Tuy nhiên, trong thực tế, việc luật hóa những quan điểm của Đảng vào

pháp luật mới đang được Nhà nước ta triển khai từng bước, theo một lộ trình
10


cụ thể. Do vậy, vị trí của TAND tỉnh trong bộ máy Nhà nước cũng như trong hệ
thống cơ quan xét xử ở Việt Nam cũng từng bước được xác định, được biểu hiện
ngày một rõ nét hơn.
Theo các quy định trong Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật hiện
hành có liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, của hệ thống
cơ quan xét xử thì địa vị pháp lý của TAND tỉnh chịu sự tác động của các nhóm
quan hệ cơ bản như sau:
- M ột là, quan hệ giữa TAND tỉnh với các cơ quan khác trong hệ thống cơ
quan tư pháp ở tỉnh.
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở tỉnh, TAND tỉnh có vị trí trung tâm,

thông qua hoạt động xét xử của Tòa án sẽ đánh giá tính đúng đắn các hành vi pháp
lý của cơ quan điều tra, hành vi, quyết định truy tố

của Viện kiểm sát nhân

dân(VKSND) có đúng quy định pháp luật hay không. T rên cơ sở đó, TAND tỉnh
đưa ra phán quyết đúng đắn để cơ quan thi hành án thực hiện hoạt động thi hành
án. Ở mối quan hệ bên trong này, hoạt động xét xử của tòa án là hoạt động trung
tâm, là hoạt động thể hiện tập trung nhất bản chất của quyền lực tư pháp .
- Hai là, mối quan hệ giữa TAND tỉnh với các cơ quan quyền lực khác.
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định "quyền lực Nhà nước thống nhất và thuộc
về nhân dân "và các nguyên tắc "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa(CHXHCN) Việt Nam'' [29, tr.41],
TAND tỉnh có sự phụ thuộc vào Quốc hội, bởi vì: Quốc hội là cơ quan có thẩm
quyền ban hành ra các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động
của tòa án, các quy tắc tố tụng của tòa án. Ngoài ra Quốc hội còn c ó ảnh hưởng
gián tiếp đến TAND tỉnh đó là Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức Chánh án TAND
tối cao, có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với vị trí này. Quan trọng hơn nữa là
Quốc hội quyết định ngân sách hằng năm của ngành tòa án.
Cũng trên nguyên tắc "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương"[29, tr.64], để đảm bảo thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương,
11


TAND tỉnh được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự giám sát của cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án TAND tỉnh phải chịu trách nhiệm
báo cáo công tác và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Ba là, mối quan hệ giữa TAND tỉnh với TAND tối cao và TAND huyện.
Với tư cách là một trong ba cấp Toà án theo địa giới hành chính (cấp huyện,
cấp tỉnh và cấp trung ương) và theo hai cấp theo thẩm quyền xét xử (sơ thẩm,

phúc thẩm), TAND tỉnh là một trong các cơ quan tư pháp ở cấp tỉnh (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án), có vị trí trung gian giữa TAND huyện và TAND tối
cao. Về mặt tổ chức TAND tỉnh có vị trí như là cơ quan "cấp dưới' trực tiếp của
TAND tối cao và là cơ quan "cấp trên" trực tiếp của TAND huyện. Chánh án
TAND tối cao có quyền hạn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, Chánh
án, Phó Chánh án; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm v à cán
bộ TAND tỉnh.
Như vậy, theo các quy định trong pháp luật hiện hành thì TAND tỉnh có vị
trí độc lập tương đối trong bộ máy Nhà nước cũng như trong hệ thống cơ quan xét
xử của nước ta. Sự phụ thuộc của TAND tỉnh vào hệ thống các cơ quan này là
tương đối lớn. Tính chất của mối quan hệ này được Tiến sĩ Tô Ngọc Hòa nhận xét:
Bản chất của mối quan hệ này là cấp trên và cấp dưới [30, tr.421]. Tính chất trung
tâm của TAND tỉnh trong hệ thống cơ quan tư pháp cùng cấp chưa được đảm bảo
do sự tác động từ phía V KSND tỉnh thông qua quyền giám sát hoạt động xét xử
của tại phiên tòa. Những đặc điểm về vị trí của TAND tỉnh trong bộ máy Nhà
nước, trong hệ thống cơ quan xét xử đã ảnh hưởng đến hoạt động của TAND tỉnh,
đặc biệt là phán quyết của Tòa án trong quá trình g iải quyết vụ việc.
* Chức năng của Toà án nhân dân tỉnh
Điều 97 Hiến pháp năm 1959, Điều 128 Hiến pháp năm 1980, Điều 128
Hiến pháp năm 1992 đều qui định TAND tối cao, các TAND địa phương là những
cơ quan xét xử của Nhà nước ta. Trên cơ sở các qui định nêu trên, các đạo luật về
tổ chức TAND các năm 1960, 1981, 1992 và 2002 đều khẳng định lại chức năng
12


xét xử của cơ quan Toà án. Xuất phát từ địa vị pháp lý của Toà án, trên cơ sở các
qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các đạo luật về tổ chức Toà án và
các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng, chức năng xét xử của Toà
án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá trình ra đời và phát triển của
Toà án. Tuy nhiên, về phạm vi chức năng xét xử của Toà án thì có những thay đổi

theo hướng tăng hơn về phạm vi các loại việc được giao cho Toà án xét xử. Ban
đầu, các TAND, trong đó có TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử những vụ án
hình sự, dân sự (hiểu với nghĩa là các vụ án về dân sự liên quan đến tranh chấp về
tài sản và những tranh chấp về nhân thân phi tài sản, các vụ án về hôn nhân gia
đình). Sau đó, trên cơ sở các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án về kinh tế
(năm 1993), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án về lao động (năm 1994), Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (năm 1996), Luật Phá sản doanh
nghiệp (năm 1993) và sau đó là Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2004, các
Toà án được giao thêm có thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế (sau khi có Bộ luật
TTDS 2004 thì gọi là vụ án kinh doanh, thương m ại), lao động, hành chính và giải
quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (đối với Toà án cấp tỉnh). Với
tư cách là một trong các cấp của hệ thống Toà án, TAND tỉnh có chức năng xét xử
các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương m ại, lao động, hành chính thuộc
thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
Bên cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của
pháp luật tố tụng, TAND tỉnh còn có trách nhiệm trong một số hoạt động thi hành
án hình sự, dân sự. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hì nh sự, hoãn hoặc
tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian thử thách của
án treo, xét miễn chấp hành hình phạt, ra quyết định thi hành án và thành lập Hội
đồng thi hành hình phạt tử hình v.v…

13


* Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh
Với chức trách là cơ quan Nhà nước có chức năng xét xử các vụ án hình sự,
dân sự, hành chính và giải quyết các việc khác theo qui định của pháp luật, thẩm
quyền của TAND nói chung và của TAND tỉnh nói riêng thực chất là thẩm quyền
xét xử các vụ án. Phân định thẩm quyền xét xử của Toà án là một trong các nội
dung của hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND. Theo từ điển

Luật học thì “thẩm quyền xét xử là sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa
các Toà án với nhau. Việc phân định thẩm quy ền xét xử căn cứ vào những dấu
hiệu nhất định và tính chất của từng vụ án cụ thể; thẩm quyền xét xử theo loại
việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ hoặc theo địa phương, thẩm quyền xét xử
theo vụ án có liên quan với nhau”. Đối với vấn đề thẩm quyền của TAN D tỉnh,
pháp luật điều chỉnh nội dung thẩm quyền giữa Toà án cấp tỉnh với Toà án cấp
huyện, cấp tỉnh này với cấp tỉnh khác và TAND tối cao.
Vấn đề thẩm quyền xét xử của Toà án cấp tỉnh là một nội dung phức tạp vì
nó có liên quan đến thẩm quyền xét xử đối v ới các vụ án hình sự, dân sự, kinh
doanh thương mại, lao động, hành chính và các việc khác theo qui định của pháp
luật qua các thời kỳ khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn tư pháp cũng
như năng lực của đội ngũ cán bộ, thẩm phán…
- Theo pháp luật hiện hành thì thẩm quyền của TAND cấp tỉnh được qui
định như sau:
+ Theo Điều 28 Luật Tổ chức TAND năm 2002 và khoản 2 Điều 170 Bộ
luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) qui định TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử:
Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; sơ thẩm những vụ án
hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc
những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà TAND cấp tỉnh lấy lên để
xét xử; phúc thẩm những vụ án m à bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của Toà án cấp dướ i bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật tố tụng; giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có
14


hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật
tố tụng; giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
+ Theo Điều 34 BLTTDS 2004, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các vụ việc dân sự, trừ những vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND huyện;
hoặc sơ thẩm những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huy ện

quy định tại điều 33 BLTTDS mà TAND cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
BLTTDS 2004 qui định TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những vụ việc: Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật
này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện quy
định tại Khoản 1 Điều 33 của Bộ luật này; yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 2 6, 28, 30 và 32 của
Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện
quy định tại Khoản 2 Điều 33 của Bộ luật này; tranh chấp, yêu cầu quy định tại
Khoản 3 Điều 33 của Bộ luật này; sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND cấp huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà
TAND cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
+ Theo Luật Tố tụng hành chính thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch
nước, Văn phòng Quốc hội, TAND tối cao, VKSND tối cao và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện là
cá nhân có nơ i cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có
trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan Nhà nước quy
định tại Điều 30 và quyết định hành chính, hành vi h ành chính của cán bộ, công
chức của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú,
nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ
15


với Toà án; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính củ a cơ quan
nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ
quan nhà nước đó; khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức

thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cùng lãnh thổ với
Toà án giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng
khen thưởng, kỷ luật của đoàn luật sư; khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư
trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng
lãnh thổ vời Toà án; khiếu kiện quyết định hành ch ính, hành vi hành chính thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều
30 mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
tỉnh
Với tư cách là một trong các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, TAND nói
chung và TAND tỉnh nói riêng tổ chức và hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc
chung đã được Hiến pháp ghi nhận như nguyên tắc Đảng lãnh đạo (Điều 4 Hiến
pháp 1992), nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6), nguyên tắc phá p chế xã hội
chủ nghĩa (Điều 120). Với chức năng riêng của mình so với các cơ quan Nhà nước
khác, TAND còn được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù.
Với tư cách là một cấp trong hệ thống tổ chức của TAND, TAND cấp tỉnh
tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của
TAND. Cụ thể là các nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc Toà án xét xử đảm bảo mọi công dân bình đẳng trước pháp
luật.
Đây là nguyên tắc hiến định được qui định tại Điều 52 Hiến pháp 1992.
Luật Tổ chức TAND 2002 đã thể chế nguyên tắc này tại Điều 8, với nội dung qui
16


định: Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị
xã hội, cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất

kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên
tắc này đòi hỏi khi xét xử, Toà án (Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui định
của pháp luật (có hiệu lực chung với tất cả mọi người), trên cơ sở các chứng cứ
khách quan, có cân nhắc đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử để đưa ra các
phán quyết khách quan, công bằng. Những yếu tố riêng được Toà án cân nhắc khi
xét xử cũng phải là những yếu tố đã được pháp luật dự liệu và q ui định như hoàn
cảnh địa điểm, thời gian và đặc điểm nhân thân riêng của đương sự và vụ việc
tranh chấp v.v…
- Nguyên tắc việc xét xử của Toà án có Hội thẩm nhân dân tham gia; khi
xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận trong Điều 129 Hiến pháp 1992.
Điều 4 Luật Tổ chức TAND 2002 đã qui định vấn đề này. Theo nguyên tắc đó, khi
xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính thì
trong thành phần Hội đồng xét xử có sự tham gia của các Hội thẩm (Hội thẩm
nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân). Đây là thành phần đại diện cho dư luận xã
hội khi xem xét các khía cạnh của vụ việc, góp phần bảo đảm việc xét xử có lý và
có tình. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ pháp lý, trình độ ch uyên môn cho
các Hội thẩm thì điều quan trọng, người Hội thẩm phải là người đại diện, nói được
tiếng nói đại diện cho dư luận xã hội tại nơi và thời điểm xảy ra vụ án. Cũng vì
vậy, chúng tôi cho rằng không nên quá quan tâm về vấn đề trình độ pháp lý và
trình độ chuyên môn của Hội thẩm, hay nói cách khác là không nên “Thẩm phán
hoá” Hội thẩm. Với nguyên tắc hai cấp xét xử, sự tham gia của Hội thẩm trong
Hội đồng xét xử là bắt buộc trong trình tự xét xử sơ thẩm và m ang tính tuỳ nghi
(khi thấy cần thiết) trong Hội đồng xét xử phúc thẩm. Để đảm bảo khách quan,
pháp luật đã qui định, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nói cách
17


khác là Hội thẩm có quyền độc lập so với Thẩm phán. Pháp luật về tố tụng đã cụ
thể hoá nội dung này bằng cách qui định, khi các thành viên Hội đồng xét xử nghị

án, biểu quyết về từng vấn đề cụ thể của vụ án thì các Hội thẩm phải biểu quyết
trước (với mục đích để hạn chế việc Hội thẩm biểu quyết theo Thẩm phán). Cũng
chính vì Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nên khi xét xử, mặc dù Thẩm phán
là người chủ toạ phiên toà nhưng Hội thẩm phải và có quyền tham gia vào tất cả
các trình tự, thủ tục xét xử tại phiên toà.
- Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tại Điều 130 Hiến pháp 1992 và
được cụ thể hoá tại Điều 5 Luật Tổ chức TAND 2002. Nguyên tắc này qui định
khi xét xử, giữa các thành viên Hội đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm) và mỗi
thành viên Hội đồng xét xử đều có quyền độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp
luật. Cho dù Chánh án hoặc Phó Chánh án là một thành viên Hội đồng xét xử thì
khi đó, Chánh án hoặc Phó Chánh án cũng chỉ là một người có quyền độc lập với
thành viên khác, không có quyền “ra lệnh” hay “chỉ đạo” thành viên khác trong
Hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ cũng chỉ quyền điều hành phiên toà là có tính
riêng so với các thành viên khác nhưng không có quyền tố tụng cao hơn thành viên
khác trong Hội đồng xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị tác
động bởi bất cứ áp lực nào từ phía các cơ quan Đảng, chính quyền hoặc sự can
thiệp của bất cứ cá nhân nào. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử có quyền
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chứ không chịu sự chỉ đạo, điều hành của Toà
án cấp trên. Khi xét xử, ngoại trừ bị tác động và chi phối bởi “giới hạn của việc xét
xử” (ở trình tự xét xử sơ thẩm) và “phạm vi xét xử phúc thẩm”, các thành viên
trong Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc bởi những quan điểm, những luận cứ
của Viện kiểm sát. Các thành viên Hội đồng xét xử có quyền phán xét độc lập trên
cơ sở pháp luật và chứng cứ, trên cơ sở đó, họ ban hành các quyết định pháp lý
giải quyết vụ án.
18


Việc qui định nguyên tắc này trong các bản Hiến pháp có sự thay đổi về

ngôn ngữ diễn đạt nhưng sự thay đổi đó phản ánh sự thay đổi về nh ận thức nội
dung của nguyên tắc trên. Hiến pháp năm 1959 qui định dưới hình thức câu chữ
là “Toà án độc lập”, còn các bản Hiến pháp về sau thì đều qui định là “Thẩm
phán và Hội thẩm” xét xử độc lập. Sự thay đổi đó nói lên rằng, nguyên tắc này
không chỉ thể hiện tính độc lập của “Toà án” khi xét xử (độc lập với các cơ
quan khác) mà điều quan trọng là nhấn mạnh tính độc lập của từng thành viên
Hội đồng xét xử với những tác động “bên ngoài” và với thành viên khác trong
cùng Hội đồng.
- Nguyên tắc Toà án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo
đa số.
Đây là các nguyên tắc đã được Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND ghi
nhận tại Điều 131 Hiến pháp 1992 và được cụ thể hoá tại các Điều 6 và 7 Luật
Tổ chức TAND 2002. Nội dung của các nguyên tắc này qui định v iệc xét xử
của Toà án phải công khai để mọi người có thể tham dự, trừ những trường hợp
cần phải giữ gìn bí mật quốc gia hoặc để đảm bảo thuần phong, mỹ tục hay để
giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì xét xử kín nhưng
khi tuyên án phải tuyên công khai. Việc xét xử công khai là nhằm bảo đảm vai
trò giám sát xã hội của công dân, các cơ quan, tổ chức đối với công tác xét xử
của Toà án. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử phải xem xét tập thể đối
với từng vấn đề của vụ án và khi biểu quyết, ý kiến của đa số sẽ có hiệu lực
pháp lý, đồng thời ý kiến thiểu số cũng được bảo lưu, ghi vào biên bản và được
coi là một trong các cơ sở để kiểm tra, xem xét lại bản án của Toà án khi cần
thiết. Cũng chính vì nguyên tắc nói trên, pháp luật tố tụng qui định số lượng
thành viên Hội đồng xét xử luôn luôn là số lẻ (ba hoặc 5 thành viên trong Hội
đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm).

19



×