Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Lý luận và thực tiễn về rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.78 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN ĐÌNH THƠ

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. LÊ VƢƠNG LONG

Hà Nội, năm 2013


MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG

TRANG

MỞ ĐẦU

1


2
3
4
5
6
7

Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình nghiên cứu đề tài
Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Ý nghĩa của luận văn
Kết cấu của luận văn

1
2
3
4
4
5
5
6

1.1

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
RÀ SOÁT VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT


1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.1.4

Khái niệm rà soát văn bản QPPL
Đặc điểm, mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của rà soát văn bản QPPL
Thẩm quyền rà soát văn bản QPPL
Quy trình và kết quả rà soát văn bản QPPL

6
12
17
21

1.2

HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

35

1.2.1

Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của hệ thống hóa
văn bản QPPL hệ thống hóa văn bản QPPL
36
Thẩm quyền hệ thống hóa văn bản QPPL
40
Quy trình, kết quả hệ thống hóa văn bản QPPL

42

1.2.2
1.2.3

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HOÁ

6

52

VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA
2.1
2.1.1
2.1.2

THỰC TRẠNG VỀ THỂ CHẾ

52

Đối với thể chế ở Trung ƣơng
Đối với thể chế ở các địa phƣơng

52
56

2.2

THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC, BIÊN CHẾ CỦA CÁC 56

CƠ QUAN LÀM CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA
VĂN BẢN QPPL

2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.3

Bộ Tƣ pháp
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Cơ quan rà soát, hệ thống hoá văn bản tại địa phƣơng

2.3.1
2.3.2

Về chuyên môn, nghiệp vụ
Về trình độ và việc sử dụng ngoại ngữ, tin học phục vụ công tác
chuyên môn

56
58
59
THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC RÀ 60
SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL

60
61


2.3.3

2.4
2.4.1
2.4.2
2.5

2.5.1
2.5.2
2.6

3.1

Về chế độ, chính sách đối với công chức làm công tác rà soát, hệ
thống hoá văn bản
THỰC TRẠNG VỀ KINH PHÍ VÀ TRANG THIẾT BỊ LÀM VIỆC PHỤC
VỤ CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL

61

Kinh phí bảo đảm cho công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL
Trang thiết bị làm việc

61
61
62

THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ XÂY
DỰNG HỆ CƠ SỞ DỮ LIỆU PHỤC VỤ CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ
THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL

62


Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác rà soát, hệ
thống hoá văn bản
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác rà soát, hệ thống hoá
văn bản QPPL
KẾT QUẢ VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN, VƢỚNG MẮC TRONG RÀ
SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN THỜI GIAN QUA
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÀ
SOÁT, HỆ THỐNG HOÁ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

62
63
64

66
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ RÀ SOÁT, HỆ THỐNG 66

HÓA
3.2
3.3

TĂNG CƢỜNG SỰ QUAN TÂM, CHỈ ĐẠO, SỰ PHỐI HỢP CỦA CÁC
CẤP, CÁC NGÀNH VÀO CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA
67
KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, TĂNG CƢỜNG BIÊN CHẾ CHO CÔNG TÁC
RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL
68

3.3.1

3.3.2
3.3.3
3.4
3.5

Bộ Tƣ pháp
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Các địa phƣơng

3.5.1

Xây dựng hệ cơ sở dữ liệu, tin học hóa công tác rà soát, hệ thống hoá
văn bản QPPL
71
Đảm bảo kinh phí, trang thiết bị và tổ chức thông tin cho hoạt động rà
soát, hệ thống hoá văn bản QPPL
73

3.5.2
3.6

68
68
68
69

ĐỐI MỚI QUY TRÌNH RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL
XÂY DỰNG CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHO CÔNG TÁC RÀ SOÁT
HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL
71


TĂNG CƢỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG CÔNG TÁC RÀ SOÁT,
HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL
73


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ trƣơng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đƣợc Đảng
và Nhà nƣớc ta đặt ra trong công cuộc đổi mới toàn diện đời sống kinh tế - xã hội
đất nƣớc. Trong đó, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ là một trong những nội dung cơ bản.
Cùng với đó, các cơ quan nhà nƣớc đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới hệ
thống pháp luật của mình. Một trong những mục tiêu của công cuộc cải cách pháp
luật ở nƣớc ta đƣợc xác định tại Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 là “xây dựng hệ thống pháp
luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch” [18, tr2].
Để đảm bảo thực hiện mục tiêu này, nhiều phƣơng pháp và kỹ thuật lập pháp
mới đã đƣợc đƣa vào áp dụng. Chẳng hạn, Quốc hội đã sử dụng kỹ thuật dùng một
luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật để đảm bảo sự đồng bộ của các quy định pháp luật;
Ủy ban Tƣ pháp của Quốc hội cũng đã đƣợc thành lập nhằm san sẻ bớt công việc
của Ủy ban Pháp luật để Ủy ban Pháp luật tập trung nhiều hơn vào việc bảo đảm
tính thống nhất của hệ thống; các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) đƣợc yêu cầu
phải đƣợc đăng công báo mới có hiệu lực (Điều 78, Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2008).
Trong những nỗ lực nói trên, việc quyết định các văn bản QPPL sửa đổi, bổ
sung phải đƣợc hợp nhất và các QPPL phải đƣợc rà soát, hệ thống hóa và pháp điển
hóa theo từng chủ đề theo quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL là một trong

những bƣớc đi có tính đột phá.
Tuy nhiên, Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 chỉ mới dừng lại ở việc
quy định: “QPPL phải đƣợc rà soát, tập hợp, sắp xếp thành bộ pháp điển theo từng
chủ đề” mà chƣa quy định cụ thể cách thức, trách nhiệm và quy trình, thủ tục tiến
hành, rà soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa.
Để đáp ứng các yêu cầu của quá trình quản lý đất nƣớc trong tình hình mới,
các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đã ban hành một số lƣợng lớn văn bản QPPL,
góp phần hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, tạo ra cơ sở pháp lý
cho công cuộc đổi mới đất nƣớc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện
đang tồn tại một hệ thống pháp luật có nhiều loại (hình thức) văn bản do nhiều cơ
quan ban hành ở những thời điểm khác nhau. Lẽ đƣơng nhiên, trong hệ thống đó, đã
và đang tồn tại đan xen những văn bản, quy định còn hiệu lực thi hành với những


2
văn bản, quy định đã hết hiệu lực thi hành; những văn bản, quy định có nội dung
phù hợp với yêu cầu quản lý xã hội với những văn bản, quy định có nội dung đã lạc
hậu, bất cập, không đáp ứng yêu cầu quản lý.
Những tồn tại này đã tạo thành những hạn chế, yếu kém của hệ thống pháp
luật nhƣ: Cồng kềnh, khó tiếp cận, có nhiều mâu thuẫn, chồng chéo (trong bản thân
hệ thống và trong sự so sánh với các điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập); nhiều văn bản, nhiều QPPL lạc hậu hoặc không
phù hợp với thực tiễn cuộc sống, ít có khả năng đƣợc chấp hành nghiêm, chƣa đáp
ứng đƣợc các yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đời sống kinh tế - xã hội và
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nƣớc... Để khắc phục những hạn chế, yếu
kém đó, bên cạnh việc thực hiện đồng thời các biện pháp nhằm đổi mới và nâng cao
kỹ thuật lập pháp, tăng cƣờng công tác kiểm tra văn bản QPPL, còn cần phải đặc
biệt quan tâm tới việc “căn chỉnh”, “đơn giản hóa”, “trật tự hóa” tiến tới hoàn thiện
hệ thống pháp luật đã đƣợc ban hành thông qua một cơ chế, một hoạt động có tên
gọi là rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL - có thể gọi là “làm sạch” hệ thống pháp

luật.
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và cách tiếp cận khác
nhau đối với khái niệm rà soát văn bản QPPL. Điều này là do chúng ta chƣa có một
văn bản QPPL nào định nghĩa một cách rõ ràng khái niệm quan trọng này. Điều 93
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 và Điều 10 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (HĐND, UBND) năm
2004 đã đề cập đến những nội dung cơ bản của hoạt động này. Theo đó, Luật Banh
hành văn bản QPPL của HĐND, ủy ban nhân dân năm 2004 quy định việc thƣờng
xuyên rà soát, định kỳ hệ thống hóa các văn bản QPPL là trách nhiệm của các cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Lý luận và thực tiễn về rà soát, hệ thống hóa
văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay” là việc làm mang tính cấp thiết, không những
về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Rà soát văn bản QPPL là một vấn đề đã đƣợc quy định trong Luật Ban hành
văn bản QPPL và Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND. Sau khi Luật
này đƣợc ban hành, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Cụ thể, vấn đề về rà soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa văn bản QPPL đƣợc
đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu nhƣ: (i) Đào Trọng Giáp


3
(2009), Công tác hệ thống hóa pháp luật của các cấp chính quyền ở tỉnh Gia Lai –
thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sỹ luật học, (ii) Lê Chí Phƣơng (2011), Rà
soát văn bản QPPL qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Ngãi - Luận văn thạc sỹ luật học;
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nƣớc và Pháp luật của Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân; Sách nghiệp vụ rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL của Bộ Tƣ
pháp, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, 2009; Bình luận Luật Ban hành văn bản QPPL của Bộ
Tƣ pháp, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, 2005; Cẩm nang thực hành tình huống kiểm tra văn
bản QPPL, Bộ Tƣ pháp – UNDP, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, 2009…

Ngoài ra, vấn đề về rà soát, hệ thống hóa và pháp điển hóa văn bản QPPL
cũng đã đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu đề cập trên các bài báo, tạp chí, các trang
thông tin điện tử internet…
Các công trình nói trên đã đề cập vấn đề rà soát, hệ thống hóa và pháp điển
hóa nhƣng mới chỉ dừng lại ở mức khái niệm, đƣa ra để cho ngƣời đọc hiểu rà soát,
hệ thống hóa và pháp điển hóa là gì mà chƣa có sự phân biệt một các bài bản những
khái niệm này cũng nhƣ thực tiễn triển khai công tác này tại các bộ, ngành và địa
phƣơng ra sao. Cũng có luận văn của tác giả Đào Trọng Giáp và Lê Chí Phƣơng
nghiên cứu về vấn đề rà soát đã đƣa ra nhiều lý luận về hoạt động này nhƣng rất tiếc
luận văn này chỉ đề cập đến địa bản của một tỉnh cụ thể là tỉnh Gia Lai và Quảng
Ngãi mà chƣa có cái nhìn khái quát về các địa phƣơng và bộ, ngành. Hay nói khác
đi cho đến trƣớc thời điểm của luận văn này đƣợc bảo vệ, chƣa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề rà soát văn bản QPPL.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác rà soát, hệ
thống hóa văn bản QPPL đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ để
nâng cao hiệu quả công tác này.
* Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đƣợc mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Làm sáng một số vấn đề lý luận về rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL nhƣ:
Làm sáng tỏ khái niệm rà soát văn bản QPPL, phân biệt khái niệm rà soát văn bản
với một số khái niệm khác nhƣ tự kiểm tra văn bản QPPL, hệ thống hóa văn bản
QPPL; phân tích những quy định của pháp luật về rà soát văn bản QPPL; so sánh
quy định về rà soát văn bản QPPL ở nƣớc ta với một số nƣớc khác.


4
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình công tác rà soát văn bản

QPPL tại các bộ, ngành và địa phƣơng hiện nay.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác rà soát, hệ thống
hóa văn bản QPPL.
* Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu về rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL ở nƣớc ta.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu về rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL ở nƣớc ta từ khi
có Luật Ban hành văn bản QPPL đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và
pháp luật về rà soát văn bản QPPL nói chung.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là báo cáo công tác của các bộ, ngành và địa
phƣơng về công tác rà soát văn bản QPPL, những tờ trình về việc ban hành Luật
Ban hành văn bản QPPL và Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND…
Phƣơng pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phƣơng pháp: lịch sử, lôgíc, hệ
thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở
cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về rà
soát, hệ thống hóa văn bản QPPL. Có thể xem những nội dung sau đây là những
đóng góp mới về khoa học của luận văn:
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về rà soát văn bản QPPL nhƣ khái
niệm, quy trình, kết quả rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL.
Phân tích, so sánh khái niệm rà soát văn bản QPPL với một số khái niệm khác
nhƣ tự kiểm tra văn bản QPPL; thƣờng xuyên rà soát và định kỳ hệ thống hóa văn
bản QPPL.



5
Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình công tác rà soát, hệ thống hóa văn
bản QPPL tại các bộ, ngành và địa phƣơng hiện nay.
Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả rà
soát, hệ thống hóa văn bản QPPL.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất đƣợc nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn trong việc nâng cao công tác rà soát, hệ thống hóa và pháp điển
hóa văn bản QPPL ở nƣớc ta. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong
muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
văn bản QPPL hiện nay.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý và các cán bộ thực tiễn đang công tác rà
soát văn bản QPPL.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 76 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và mục lục, Luận văn có 3 chƣơng.

\


6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. RÀ SOÁT VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1.1.1. Khái niệm rà soát văn bản QPPL

1.1.1.1. Văn bản QPPL và các loại văn bản QPPL
Văn bản QPPL là đối tƣợng của hoạt động rà soát, hệ thống hóa. Vì vậy, để
làm tốt công tác này việc nắm vững những vấn đề cơ bản về văn bản QPPL, trong
đó các nội dung về khái niệm văn bản, hệ thống văn bản và phân biệt văn bản QPPL
với các loại văn bản khác là hết sức cần thiết.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008,
"Văn bản QPPL là văn bản do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành theo thủ
tục, trình tự luật định trong đó có quy tắc xử sự chung đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa".
Khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, ủy ban nhân dân
định nghĩa: "Văn bản QPPL của HĐND, UBND là văn bản do HĐND, UBND ban
hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật này quy định, trong đó có các quy
tắc xử sự chung, có hiêu lực trong phạm vi địa phƣơng, đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm
thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phƣơng theo định hƣớng xã hội
chủ nghĩa".
Còn theo PGS.TS Nguyễn Minh Đoan [7, trang 18] “trong Luật Ban hành văn
bản QPPL nên có sự xác định thống nhất về văn bản QPPL. Chúng tôi cho rằng, chỉ
nên xác định văn bản QPPL là văn bản do Nhà nƣớc ban hành, có chứa quy tắc xử
sự mang tính bắt buộc chung là đủ, còn các dấu hiệu sau nêu cũng đƣợc mà không
nêu cũng đƣợc, vì chúng đều bắt nguồn từ hai dấu hiệu trên. Có thể nói, luật thực
định là sự vật chất hoá lý luận (các tƣ tƣởng, quan điểm pháp luật), mà lý luận thì
chỉ nêu những cái điển hình, có tính phổ biến, thuần khiết, do vậy, luật thực định
cũng chỉ nên nêu một cách khái quát, những gì điển hình, phổ biến, không nên nêu
một cách quá cụ thể, cứng nhắc, vì sẽ rất khó thực hiện, bởi thực tiễn bao giờ cũng
phong phú, đa dạng hơn rất nhiều”.
Nhƣ vậy, có thể hiểu văn bản QPPL phải bao gồm các yếu tố sau:
Một là, do cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền ban hành theo hình thức
đƣợc pháp luật quy định;



7
Hai là, đƣợc ban hành theo thủ tục, trình tự luật định;
Ba là, có chứa quy tắc xử sự chung, đƣợc áp dụng nhiều lần đối với mọi đối
tƣợng hoặc một nhóm đối tƣợng và có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc (đối với
văn bản QPPL do các cơ quan nhà nƣớc ở Trung ƣơng ban hành) hoặc trong phạm
vi địa phƣơng (đối với văn bản QPPL do HĐND, UBND ban hành);
Bốn là, đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp theo quy định
của pháp luật.
Tuy nhiên, xét về bản chất, văn bản QPPL phải bảo đảm các yêu cầu về thẩm
quyền hình thức và thẩm quyền nội dung cũng nhƣ phải chứa đựng các quy tắc xử
sự chung. Nếu thiếu một trong hai yếu tố quyết định này thì không phải là văn bản
QPPL, không phải tuân theo thủ tục, trình tự soạn thảo, ban hành theo quy định của
pháp luật. Là văn bản QPPL thì quá trình soạn thảo, ban hành buộc phải đƣợc chuẩn
bị theo quy trình "công nghệ" luật định và phải đƣợc bảo đảm thực hiện. Đây là yêu
cầu phải có khi ban hành cũng nhƣ tổ chức thực hiện văn bản QPPL.
* Các yêu cầu về thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung trong văn
bản QPPL
Thẩm quyền hình thức là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền chỉ đƣợc ban
hành văn bản đúng hình thức (tên gọi) văn bản QPPL mà Luật Ban hành văn bản
QPPL hoặc Luật Ban hành văn bản QPPL đã quy định cho cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền đó đƣợc ban hành.
Thẩm quyền về nội dung là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền chỉ đƣợc ban
hành các văn bản có nội dung phù hợp với thẩm quyền của mình đã đƣợc pháp luật
cho phép hoặc đã đƣợc phân công, phân cấp. Thẩm quyền này đƣợc xác định trong
các văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nƣớc cụ thể của từng cơ quan, từng cấp, từng
ngành đối với từng lĩnh vực.
Văn bản QPPL phải là văn bản do cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền
ban hành theo hình thức đƣợc pháp luật quy định. Điều này có nghĩa là một văn bản
QPPL đƣợc ban hành phải đảm bảo yêu cầu về thẩm quyền hình thức và thẩm quyền

nội dung văn bản, chỉ những cơ quan nhà nƣớc đƣợc giao quyền (có thẩm quyền)
mới đƣợc ban hành văn bản QPPL theo đúng hình thức (tên gọi) cùng với nội dung
tƣơng ứng hình thức văn bản và thẩm quyền quản lý nhà nƣớc đã đƣợc pháp luật
quy định. Thẩm quyền hình thức đƣợc quy định trong hệ thống luật ban hành văn


8
bản QPPL. Thẩm quyền nội dung đƣợc ghi nhận trong các luật, các văn bản pháp
luật về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và hệ thống Luật Ban hành văn bản QPPL, là thẩm
quyền tiếp theo nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc đã đƣợc Hiến pháp quy
định. Các văn bản có hình thức và nội dung nhƣ văn bản QPPL nhƣng không do cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành thì không phải là văn bản QPPL hoặc ngƣợc
lại, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành văn bản với nội dung QPPL
nhƣng không theo đúng hình thức (tên gọi) đã đƣợc pháp luật quy định thì không
phải văn bản QPPL. Văn bản do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành với hình
thức (tên gọi) đã đƣợc quy định nhƣng không có nội dung đặc thù QPPL thì cũng
không phải là văn bản QPPL…
* Quy tắc xử sự chung trong văn bản QPPL
Một trong những yêu cầu của văn bản QPPL là phải có quy tắc xử sự chung,
đƣợc áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tƣợng hoặc một nhóm đối tƣợng và có hiệu
lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phƣơng.
Quy tắc xử sự chung tạo nên nội dung văn bản QPPL. Quy tắc xử sự chung là
những chuẩn mực ứng xử các quan hệ xã hội đã đƣợc pháp luật quy định đòi hỏi các
đối tƣợng khi tham gia vào quan hệ xã hội nào thì phải ứng xử theo những chuẩn
mực đó. Các quy tắc này đƣợc áp dụng nhiều lần đối với đối tƣợng mà văn bản điều
chỉnh. Tuỳ theo phạm vi đối tƣợng mà văn bản có hiệu lực trong toàn quốc, ở từng
địa phƣơng hoặc trong một địa bàn hành chính lãnh thổ nhất định. Quy tắc xử sự
chung trong văn bản QPPL chỉ mất hiệu lực khi hết thời hạn hiệu lực đƣợc xác định;
bị hủy bỏ, thay thế, bãi bỏ bằng một văn bản của chính cơ quan đã ban hành quy tắc
xử sự chung đó hoặc của cơ quan khác có thẩm quyền. Quy tắc xử sự chung tạm

ngƣng hiệu lực thi hành khi bị đình chỉ việc thi hành.
Khi văn bản đã đƣợc bảo đảm về thẩm quyền hình thức, thẩm quyền nội dung
(thẩm quyền ban hành văn bản) và có chứa quy tắc xử sự chung thì đòi hỏi phải
đƣợc xây dựng theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và đƣợc Nhà nƣớc
bảo đảm thực hiện.
* Hệ thống văn bản QPPL
Hệ thống văn bản QPPL đƣợc xác định tại Điều 2 Luật Ban hành văn bản
QPPL năm 2008, nhƣ sau:
- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.


9
- Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc.
- Nghị định của Chính phủ.
- Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ.
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tƣ của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
- Thông tƣ của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ.
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nƣớc.
- Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ
với cơ quan trung ƣơng của tổ chức chính trị - xã hội.
- Thông tƣ liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa
các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ.
- Văn bản QPPL của HĐND, UBND (gồm Nghị quyết của HĐND các
cấp và Quyết định, Chỉ thị của UBND các cấp).
Căn cứ vào quy định tại Điều này có thể xác định thứ bậc hiệu lực pháp lý của

văn bản trong hệ thống pháp luật. Theo đó, những văn bản đƣợc xếp ở thứ bậc cao
hơn là những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Tuy nhiên, trong thực tế rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL, để xác định hiệu lực pháp lý của văn bản, ngoài căn cứ
thứ bậc pháp lý của văn bản trong hệ thống văn bản QPPL còn phải căn cứ hiệu lực
theo nội dung văn bản và theo thời điểm ban hành. Cụ thể là, đối với những văn bản
có cùng thứ bậc hiệu lực pháp lý quy định cùng một vấn đề thì văn bản do cơ quan
có thẩm quyền quản lý nhà nƣớc về nội dung đó ban hành sẽ có hiệu lực pháp lý cao
hơn; trong hệ thống văn bản do cơ quan đó ban hành, văn bản nào ban hành sau sẽ
có hiệu lực. Chẳng hạn, cùng là quyết định của các Bộ trƣởng quy định về phí thì
quyết định của Bộ trƣởng Bộ Tài chính là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất (vì
Bộ Tài chính là cơ quan đƣợc giao thẩm quyền quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực này);
trong các văn bản của Bộ Tài chính cùng quy định về vấn đề này, văn bản nào ban
hành sau thì văn bản đó có hiệu lực cao hơn.
Trong quá trình rà soát, hệ thống hóa văn bản, ngƣời làm công tác này còn
phải đối chiếu, xem xét sự phù hợp của nội dung văn bản đƣợc rà soát với các điều
ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Tuy


10
trong hệ thống văn bản QPPL (đƣợc quy định tại Điều 2 Luật Ban hành văn bản
QPPL năm 2008) không nhắc đến vị trí của văn bản này song có thể căn cứ vào Luật
Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ƣớc quốc tế cũng nhƣ quy định về nguyên tắc áp
dụng điều ƣớc quốc tế tại các luật, pháp lệnh đơn hành để xác định vị trí của loại
văn bản này trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Một trong những nguyên tắc trong quan hệ ngoại giao và thực hiện pháp luật
quốc tế của Việt Nam đã đƣợc ghi nhận tại Luật này đó là: “Nhà nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên; đồng thời có quyền đòi hỏi thành viên khác cũng phải tuân
thủ điều ƣớc quốc tế đó”.
Đồng thời, Điều 3 Luật này cũng quy định việc ký kết, gia nhập và thực hiện

điều ƣớc quốc tế phải tuân thủ nguyên tắc “phù hợp với các quy định của Hiến pháp
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Điều ƣớc quốc tế có quy định trái hoặc
chƣa đƣợc quy định trong văn bản QPPL của Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc
hội, điều ƣớc quốc tế mà để thực hiện cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành
văn bản QPPL của Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội phải đƣợc trình Uỷ ban
thƣờng vụ Quốc hội cho ý kiến trƣớc khi đàm phán, ký hoặc gia nhập; trong trƣờng
hợp đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ƣớc quốc tế có quy định trái với văn bản
QPPL của Quốc hội thì Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội cho ý kiến;
Điều ƣớc quốc tế nhân danh Chính phủ không đƣợc trái với điều ƣớc quốc tế nhân
danh Nhà nƣớc”.
Ngoài ra, trong từng đạo luật đơn lẻ, hiện tồn tại nhiều quy định ƣu tiên áp
dụng điều ƣớc quốc tế, nhƣ: “Bộ Luật Dân sự cũng đƣợc áp dụng đối với các quan
hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, trừ trƣờng hợp điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác”; hoặc “trong trƣờng
hợp điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ƣớc quốc
tế (Luật Hình sự, Luật Quốc tịch). Từ quy định tại Điều 3 nêu trên và những quy
định về giá trị ƣu tiên của điều ƣớc quốc tế trong các văn bản luật đã dẫn, có thể
khẳng định: trong hệ thống pháp luật điều ƣớc quốc tế có vị trí thấp hơn Hiến pháp
và cao hơn luật và các văn bản dƣới luật trong những trƣờng hợp xác định.
* Các loại văn bản QPPL:


11
Văn bản QPPL có thể đƣợc phân chia thành nhiều loại tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu. Trong phạm vi của hoạt động rà soát, hệ thống hóa, văn bản QPPL
đƣợc phân chia dựa trên hai tiêu chí chính: phạm vi hiệu lực của văn bản và cơ cấu
văn bản.
Xét về phạm vi hiệu lực của văn bản, văn bản QPPL có hai loại: văn bản
QPPL do các cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng ban hành và văn bản QPPL do chính

quyền địa phƣơng các cấp ban hành.
Xét cơ cấu văn bản, có: văn bản đơn hành và văn bản có kèm theo văn bản
khác (ví dụ: quyết định ban hành quy chế).
Trong quá trình rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, những văn bản đƣợc ban
hành kèm theo văn bản QPPL đƣợc xác định hiệu lực pháp lý theo văn bản QPPL và
thực tế các thao tác của hoạt động rà soát, hệ thống hóa thƣờng đƣợc thực hiện chủ
yếu trên văn bản đƣợc ban hành kèm theo (vì nội dung văn bản tập trung tại văn bản này).
Việc nắm vững các hình thức (tên gọi) của văn bản QPPL cũng nhƣ thứ bậc
hiệu lực pháp lý của từng văn bản trong cả hệ thống văn bản QPPL có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu trong việc thực hiện nghiệp vụ rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL.
1.1.1.2. Khái niệm rà soát văn bản QPPL
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và cách tiếp cận khác
nhau đối với khái niệm rà soát văn bản QPPL. Điều này là do chúng ta chƣa có một
văn bản QPPL nào định nghĩa một cách rõ ràng khái niệm quan trọng này. Điều 93
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 và Điều 10 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004 đã đề cập đến những nội dung cơ
bản của hoạt động này. Theo đó, Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND
năm 2004 quy định việc thƣờng xuyên rà soát, định kỳ hệ thống hóa các văn bản
QPPL là trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Trên cơ sở phân tích quy định tại Điều 93 Luật Ban hành văn bản QPPL năm
2008 và Điều 10 Luật Ban hành văn QPPL của HĐND, UBND năm 2004 cùng với
thực tiễn thực hiện rà soát ở nƣớc ta trong thời gian qua; để có cơ sở lý luận phục
vụ cho việc triển khai nhiệm vụ rà soát trong thời gian tới, thống nhất cách hiểu về
rà soát, hệ thống hóa nhƣ sau:
Rà soát văn bản QPPL là một quá trình bao gồm các bƣớc: tập hợp văn bản
QPPL, quy định QPPL theo những phạm vi nhất định, đối chiếu, so sánh những văn


12
bản, quy định này theo những tiêu chí, nguyên tắc cụ thể nhằm tìm ra những quy

định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của
đất nƣớc để xử lý bằng các hình thức thích hợp nhƣ sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc
đình chỉ việc thi hành, hoặc ban hành văn bản mới.
Nhƣ vậy, đối tƣợng của hoạt động rà soát, hệ thống hóa là hệ thống văn bản
QPPL do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Và cũng không loại trừ các quy
định, chế định quy phạm trong các văn bản đƣợc ban hành để thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nƣớc (còn đƣợc gọi là văn bản có chứa QPPL), các QPPL đƣợc ban
hành trong các văn bản áp dụng pháp luật (về nguyên tắc, các nội dung quy định,
chế định này phải đƣợc phát hiện, xử lý hủy bỏ ngay khi ban hành chúng theo các
quy định về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL theo quy định tại Điều 25 Nghị định số
40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL
(Nghị định số 40/2010/NĐ-CP)). Mục đích của hoạt động này là nhằm phát hiện
những văn bản, những quy phạm trái pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không
còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nƣớc để xử lý bằng các hình thức thích
hợp nhƣ sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ đình chỉ việc thi hành, hoặc ban hành văn
bản mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội và tập hợp, sắp xếp những văn
bản QPPL riêng lẻ thành một hệ thống thống nhất, hài hòa về nội dung và hình thức
theo yêu cầu sử dụng, lập ra và công bố các văn bản QPPL còn hiệu lực, hết hiệu
lực.
1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc, mục đích, vai trò, ý nghĩa và yêu cầu của rà
soát văn bản QPPL
1.1.2.1. Đặc điểm
Thƣờng xuyên rà soát có hai đặc điểm nổi bật là: thứ nhất, đây là hoạt động
hậu kiểm và thứ hai, hoạt động này đƣợc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành hàng
ngày, thƣờng xuyên.
Thƣờng xuyên rà soát là hoạt động hậu kiểm bởi nó đƣợc tiến hành sau khi văn
bản đã đƣợc ban hành, có hiệu lực thi hành và đƣợc triển khai thực hiện trong thực tế
nhằm một lần nữa xem xét tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và khả thi của văn
bản trong tình hình mới, vào thời điểm các quan hệ xã hội, các định hƣớng quản lý đã
đƣợc điều chỉnh, chi phối ở mức độ khác với hoàn cảnh, điều kiện khi ban hành văn bản.

Đây là hoạt động đƣợc cơ quan có thẩm quyền tiến hành thƣờng xuyên, liên tục
khi tình hình kinh tế - xã hội đất nƣớc, địa phƣơng đã thay đổi hoặc khi cơ quan nhà


13
nƣớc cấp trên ban hành văn bản mới làm cho nội dung văn bản QPPL của cơ quan
nhà nƣớc cấp dƣới không còn phù hợp với văn bản của cấp trên hoặc nhận đƣợc
thông tin, yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản QPPL do cơ
quan mình ban hành, hoặc lĩnh vực thuộc ngành mình quản lý chứa nội dung có dấu
hiệu trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp.
Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008, Luật Ban hành văn bản QPPL của
HĐND, UBND năm 2004 quy định thẩm quyền ban hành văn bản QPPL thuộc
nhiều cơ quan từ các cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng, các cơ quan nhà nƣớc cấp
tỉnh, huyện, xã. Văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban
hành, việc ban hành lại đƣợc thực hiện trong các hoàn cảnh, điều kiện, thời điểm
khác nhau. Do đó, mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp là điều khó tránh khỏi. Và để
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, buộc phải
có một hoạt động nhất định của cơ quan có thẩm quyền để khắc phục các khiếm
khuyết này.
Các quan hệ xã hội vận động không ngừng và nhiệm vụ của nhà làm luật là
phải luôn bám sát sự vận động của nó để điều chỉnh đúng lúc, kịp thời các thay đổi
xảy ra. Cũng vì thế, văn bản QPPL ban hành một lần không phải là xong, nó cần
phải đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Thực tế này tất yếu dẫn
đến một thực trạng là có nhiều văn bản điều chỉnh về cùng một vấn đề, văn bản sau
sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản trƣớc, tạo thành sự nhiều tầng, nhiều lớp
của pháp luật. Vì vậy, nếu chúng ta không cập nhật loại bỏ các văn bản, các QPPL
lỗi thời, hết hiệu lực và kịp thời đƣa các thay đổi, bổ sung mới vào nội dung văn bản
pháp luật ban đầu thì khó có thể tiếp cận đƣợc một cách dễ dàng, thuận tiện với
pháp luật hiện hành. Đó cũng chính là lý do tại sao phải tiến hành công tác thƣờng
xuyên rà soát văn bản QPPL.

Hoạt động rà soát văn bản QPPL phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật. Mục tiêu trực tiếp của công tác thƣờng xuyên rà soát là
nhằm sửa đổi, bổ sung, thay thế, hoặc loại bỏ các quy định, các văn bản QPPL trái
với Hiến pháp, luật cũng nhƣ các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, loại bỏ các
văn bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc những quy định không còn phù hợp với tình
hình phát triển của đất nƣớc để xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật hoàn thiện,
thống nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, có tính khả thi cao, phục vụ cho hoạt
động quản lý Nhà nƣớc và sự vận hành thông suốt của xã hổi; bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, thƣờng xuyên rà soát văn bản QPPL có tác


14
dụng tạo ra cơ sở về pháp lý cho sự hoàn thiện về chất của một số văn bản pháp luật,
làm cho các văn bản đó đƣợc đồng bộ so với các quy định trƣớc đó, tạo ra sự thống
nhất, hài hòa giữa văn bản đƣợc ban hành với hệ thống pháp luật hiện hành.
1.1.2.2. Mục đích
Mục đích của hoạt động này là nhằm trực tiếp phục vụ cho việc hoàn thiện hệ
thống văn bản QPPL của mình bằng cách xem xét để loại bỏ những văn bản, những quy
định lỗi thời, không phù hợp; đề ra các yêu cầu về sửa đổi, bổ sung những quy định hiện
hành nhƣng có khiếm khuyết và giữ lại các quy định còn phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nƣớc và địa phƣơng.
1.1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của rà soát văn bản QPPL
Có thể nói, vai trò và ý nghĩa quan trọng thứ nhất của hoạt động rà soát, hệ
thống hóa pháp luật là ở chỗ nó phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật.
Mục tiêu trực tiếp của rà soát, hệ thống hóa là nhằm sửa đổi, bổ sung, thay
thế, hoặc loại bỏ các quy định, các văn bản QPPL trái với Hiến pháp và các đạo luật,
các văn bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển
của đất nƣớc để xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật hoàn thiện, thống nhất,
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, phục vụ cho hoạt động quản lý Nhà nƣớc cũng
nhƣ bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, rà soát, hệ thống

hóa có tác dụng tạo ra cơ sở pháp lý cho sự đổi mới về chất của một số văn bản pháp
luật, làm cho các văn bản đó đƣợc cải tiến so với các quy định trƣớc đó, đồng thời
tạo ra sự thống nhất, hài hòa giữa các văn bản sẽ đƣợc ban hành với hệ thống pháp
luật hiện hành.
Mặt khác, công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL còn giúp phát hiện
những "kẽ hở", "lỗ hổng" của hệ thống thể chế, những vấn đề chƣa đƣợc pháp luật
điều chỉnh để đề xuất biện pháp "lấp đầy", đề xuất nhu cầu sáng tạo pháp luật, ban
hành văn bản mới đáp ứng yêu cầu quản lý và cũng là nhằm hoàn thiện hệ thống
này.
Ý nghĩa thứ hai của công tác này thể hiện ở chỗ nó giúp cho các cơ quan thi
hành pháp luật có điều kiện nắm bắt dễ dàng, nhanh chóng những quy định của pháp
luật hiện hành. Đồng thời cũng giúp cho nhân dân có điều kiện tiếp cận, hiểu biết
pháp luật về từng vấn đề, từng lĩnh vực mà họ quan tâm, góp phần thực hiện tốt
khẩu hiệu "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".


15
Ý nghĩa thứ ba của công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật là góp
phần tạo ra những tiền đề pháp lý cần thiết khi hội nhập kinh tế quốc tế của đất
nƣớc, đặc biệt là trong bối cảnh chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới
(WTO). Góp phần xây dựng, hoàn thiện và minh bạch hóa hệ thống pháp luật, tạo ra
sự hài hòa, tƣơng thích giữa pháp luật quốc gia với hệ thống thể chế quốc tế mà Việt
Nam thừa nhận.
Ý nghĩa thứ tƣ của công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tạo nên nền
tảng cơ bản cho hoạt động pháp điển hóa.
Pháp điển hóa là một trong những hoạt động nhằm “căn chỉnh”, hoàn thiện hệ
thống pháp luật đã đƣợc ban hành. Mục đích của nó là đƣa toàn bộ hoặc một bộ
phận pháp luật vào hệ thống, tức là hoạt động nhằm “trật tự hóa” pháp luật. Nhƣ
chúng ta đã biết, các văn bản QPPL trong một Nhà nƣớc đƣợc ban hành bởi những
cơ quan khác nhau, trong những thời điểm khác nhau, nhƣ vậy sẽ chứa đựng khả

năng là các văn bản và những nội dung cụ thể của chúng sẽ có những mâu thuẫn,
chồng chéo. Pháp điển hóa là một hoạt động mà một trong những mục đích của nó
nhằm giúp cho việc phát hiện và loại bỏ những mâu thuẫn, chồng chéo đó.
Trên thế giới hiện đang tồn tại hai dạng của hoạt động pháp điển hóa mà một
trong hai dạng đó là hoạt động tập hợp, rà soát, "căn chỉnh" hệ thống văn bản QPPL
để công bố bộ pháp điển thống nhất. Hoạt động này nhằm thống nhất sử dụng một
hệ thống văn bản QPPL có hiệu lực tại một thời điểm nhất định, nhằm phục vụ cho
mục đích sử dụng, tra cứu, sƣu tập, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục... Dạng thức
này của pháp điển hóa không tạo ra một văn bản QPPL mới, cũng không làm thay
đổi hiệu lực của văn bản đã đƣợc ban hành, nhƣng nó giúp cho các đối tƣợng tiếp
xúc với quy định đang có hiệu lực của pháp luật một cách nhanh nhất và thuận tiện
nhất.
Theo quy định tại Luật Ban hành văn bản QPPL và Luật Ban hành QPPL của
HĐND, UBND hiện hành, hoạt động rà soát đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, hoạt
động hệ thống hóa đƣợc tiến hành định kỳ. Việc rà soát, hệ thống hóa theo quy định
của hệ thống luật này là trách nhiệm của tất cả các cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản QPPL và các cơ quan thực thi pháp luật.
Yêu cầu của rà soát văn bản QPPL
Việc rà soát văn bản QPPL phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên bởi cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền. Yêu cầu thƣờng xuyên ở đây thể hiện ở chỗ, khi xuất hiện


16
căn cứ để rà soát (ví dụ có văn bản QPPL mới của cơ quan nhà nƣớc cấp trên ban
hành hay khi tình hình kinh tế xã hội) thì ngay lập tức, cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền phải tiến hành rà soát.
1.1.2.4. Phân biệt hoạt động rà soát văn bản với hoạt động kiểm tra văn bản
QPPL
Hoạt động kiểm tra văn bản và thƣờng xuyên rà soát văn bản QPPL đều là hoạt
động hậu kiểm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và tính khả thi của văn

bản nhƣng hai hoạt động này, đặc biệt là hoạt động tự kiểm tra văn bản và thƣờng xuyên
rà soát văn bản có điểm chung nhất định nhƣng là hai hoạt động hoàn toàn độc lập.
Giống nhau:
Hoạt động tự kiểm tra văn bản và hoạt động rà soát văn bản giống nhau ở chỗ
cùng là hoạt động đƣợc tiến hành sau khi văn bản đã đƣợc ban hành (hoạt động "hậu
kiểm") và đều nhằm mục đích phát hiện những quy định mâu thuẫn, trái pháp luật
hoặc những nội dung không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội để kịp thời đình
chỉ việc thi hành, sửa đổi, hủy bỏ hoặc bãi bỏ văn bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất và tính khả thi của hệ thống pháp luật.
Khác nhau:
- Thời điểm tiến hành:
Tự kiểm tra đƣợc tiến hành ngay sau khi văn bản đƣợc thông qua hoặc ban
hành và căn cứ để đối chiếu kiểm tra là các văn bản QPPL của cơ quan nhà nƣớc
cấp trên mà văn bản đƣợc kiểm tra sử dụng làm căn cứ ban hành hoặc liên quan tại
thời điểm ban hành văn bản đƣợc kiểm tra.
Rà soát đƣợc tiến hành trong suốt thời gian văn bản đang có hiệu lực thi hành
khi có các sự kiện pháp lý nhất định làm phát sinh công tác rà soát nhƣ:
+ Tình hình kinh tế - xã hội đã thay đổi hoặc khi cơ quan nhà nƣớc cấp trên
ban hành văn bản mới làm cho nội dung văn bản QPPL của cơ quan, địa phƣơng
còn phù hợp;
Ví dụ: Bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phƣơng ban hành một văn bản.
Tại thời điểm kiểm tra, tổ chức pháp chế Bộ, ngành, cơ quan tƣ pháp nhận đƣợc văn
bản đã thực hiện tự kiểm tra nhƣng không phát hiện đƣợc những vi phạm của văn
bản đó. Sau đó một thời gian, khi văn bản của cấp trên thay đổi dẫn đến văn bản đó
sai thì lúc này phát sinh hoạt động rà soát.


17
+ Khi cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản mới mà trong văn bản đó
chƣa chỉ rõ những văn bản nào trƣớc đây bị hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế thì cũng phải

tiến hành rà soát toàn bộ các văn bản liên quan đến lĩnh vực văn bản mới điều chỉnh
đã đƣợc ban hành trƣớc đây.
- Phạm vi :
Tự kiểm tra văn bản đƣợc tiến hành đối với những văn bản do chính cơ quan
đó ban hành hoặc của cơ quan khác ban hành nếu đƣợc pháp luật giao trong suốt
thời gian có hiệu lực của văn bản. Rà soát văn bản đƣợc triển khai ở phạm vi rộng
hơn, ngoài việc tiến hành đối với văn bản do mình ban hành ngƣời thực hiện rà soát
còn có thể tham gia xem xét tất cả các văn bản có liên quan đến văn bản đang tiến
hành rà soát của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nhằm phát hiện những mâu
thuẫn, chồng chéo, hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nƣớc để kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực kiểm tra văn bản: các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm tự kiểm tra văn bản do cơ quan mình ban
hành. Trong lĩnh vực rà soát văn bản các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ ngoài việc có trách nhiệm rà soát văn bản của mình ban hành còn có
trách nhiệm tham gia rà soát văn bản QPPL do Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc
hội, Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ
quan ngang Bộ ban hành có liên quan đến chức năng quản lý ngành, lĩnh vực của
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Hình thức xử lý: trong hai hoạt động này, việc xử lý có điểm không giống
nhau: Trong tự kiểm tra, việc xử lý chủ yếu là hủy bỏ, cũng có thể có bãi bỏ, sửa
đổi, bổ sung. Trong rà soát, việc xử lý lại tập trung ở bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung.
1.1.3. Thẩm quyền rà soát văn bản QPPL
Điều 93 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 quy: “Cơ quan nhà nƣớc
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thƣờng xuyên rà soát,
định kỳ hệ thống hóa các văn bản QPPL; nếu phát hiện có quy định trái pháp luật,
mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất
nƣớc, thì tự mình hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền kịp thời sửa
đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành. Cơ quan, tổ chức và công
dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ

sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản QPPL”. Điều 10 Luật Ban


18
hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 quy định: “Văn bản QPPL của
HĐND, UBND phải đƣợc thƣờng xuyên rà soát và định kỳ hệ thống hoá”. Có thể
hiểu, các cơ quan ban hành văn bản cũng là các cơ quan có thẩm quyền, trách nhiệm
thực hiện việc rà soát thƣờng xuyên các văn bản do mình ban hành. Cơ quan, tổ
chức, công dân cũng có thể tham gia vào hoạt động này. Việc xử lý kết quả rà soát
phải do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện.
1.1.3.1. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Điều 62 Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05/3/2009 của Chính phủ Quy
định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL đã quy định cụ thể
trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc thực
hiện thƣờng xuyên rà soát văn bản QPPL. Cụ thể là: "1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm thƣờng xuyên rà soát văn bản QPPL do Quốc
hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ,
Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành có liên quan đến ngành, lĩnh vực
của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phụ trách để kịp thời xem xét,
kiến nghị các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ khi: a) Tình hình kinh tế - xã hội đã thay đổi hoặc
khi có văn bản đƣợc ban hành mới làm cho nội dung của văn bản đã đƣợc ban hành
không còn phù hợp; b) Tự phát hiện hoặc nhận đƣợc thông tin, yêu cầu, kiến nghị
của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản QPPL chứa nội dung có dấu hiệu trái pháp
luật, mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp.
2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm định kỳ 5
(năm) năm hệ thống hoá theo chuyên đề, lĩnh vực các văn bản QPPL và các quy
định pháp luật còn hiệu lực thi hành do Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Chủ
tịch nƣớc, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang
bộ ban hành có liên quan đến ngành, lĩnh vực của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ do mình phụ trách.
3. Trong việc rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm:
a) Lập danh mục các văn bản và các quy định đã hết hiệu lực thi hành; danh
mục văn bản còn hiệu lực, nhƣng trong đó có những quy định cần đƣợc sửa đổi, bổ
sung hoặc bãi bỏ, huỷ bỏ thuộc ngành, lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ do mình phụ trách;


19
b) Định kỳ 6 (sáu) tháng một lần gửi đăng Công báo danh mục văn bản, quy
định đã hết hiệu lực thi hành;
c) Kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, huỷ bỏ
theo thẩm quyền hoặc kiến nghị các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đình chỉ việc
thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, huỷ bỏ văn bản QPPL trong trƣờng hợp
phát hiện văn bản có quy định trái pháp luật, không phù hợp với tình hình kinh tếxã hội hoặc khi cơ quan nhà nƣớc cấp trên ban hành văn bản mới làm cho nội dung
văn bản không còn phù hợp;
d) Trƣờng hợp phát hiện công văn, thông báo, điện báo, hƣớng dẫn và các
giấy tờ hành chính khác có chứa QPPL thì phải kịp thời đình chỉ việc thi hành, xử lý
theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đình chỉ việc thi
hành và xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Tổ chức pháp chế chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL liên quan đến
ngành, lĩnh vực phụ trách theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này".
1.1.3.2. Trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp
Trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện công tác rà
soát văn bản
Điều 12 Nghị định số Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL
của HĐND, UBND (Nghị định số 91/2006/NĐ-CP) quy định: Văn bản QPPL của

HĐND, UBND phải đƣợc thƣờng xuyên rà soát để kịp thời xem xét, kiến nghị các
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền định chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế,
huỷ bỏ hoặc bãi bỏ khi: tình hình kinh tế - xã hội ở địa phƣơng đó thay đổi hoặc khi
cơ quan nhà nƣớc cấp trên ban hành văn bản mới làm cho nội dung văn bản QPPL
của HĐND, UBND không còn phù hợp; nhận đƣợc thông tin, yêu cầu, kiến nghị của
cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản QPPL do HĐND, UBND ban hành chứa nội
dung có dấu hiệu trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp.
Trách nhiệm rà soát văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp đƣợc quy
định cụ thể tại Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND và hƣớng dẫn chi
tiết tại Nghị định số 91/2006/NĐ-CP.
Theo quy định tại các khoản 2, 3 Điều 10 Luật Ban hành văn bản QPPL của
HĐND, UBND thì trách nhiệm của UBND các cấp nhƣ sau:


20
Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm tổ chức việc rà soát các văn bản QPPL của
mình và của HĐND cùng cấp.
Cơ quan tƣ pháp thuộc UBND có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan,
tổ chức hữu quan giúp UBND cùng cấp rà soát văn bản QPPL của HĐND, UBND
cấp mình để kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ hoặc đình
chỉ việc thi hành.
Khoản 3, 4, 5 Điều 12 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP đã chỉ rõ trách nhiệm
của chính quyền địa phƣơng từng cấp nhƣ sau:
Ở cấp tỉnh:
Chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cùng cấp rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL luật do HĐND, UBND
cấp tỉnh ban hành.
Sở Tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
tỉnh rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL của HĐND, UBND cùng cấp.
Ở cấp huyện và cấp xã:

Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã có trách nhiệm tổ chức rà soát các văn bản
QPPL do HĐND, UBND cùng cấp ban hành.
Phòng Tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp huyện rà soát văn bản QPPL của HĐND, UBND cùng cấp.
Công chức tƣ pháp - hộ tịch cấp xã giúp UBND cấp xã rà soát văn bản QPPL
của HĐND, UBND cùng cấp.
Trách nhiệm của UBND các cấp trong việc xử lý văn bản sau khi rà soát:
Điều 12 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP cũng quy định trách nhiệm cụ thể của
cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành rà soát khi phát hiện văn bản đƣợc rà soát
có nội dung trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp. Trách
nhiệm này thuộc về những ngƣời đứng đầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành rà
soát, cụ thể là:
Trách nhiệm của cơ quan Tƣ pháp:
Giám đốc Sở Tƣ pháp, Trƣởng Phòng Tƣ pháp cấp huyện, công chức tƣ pháp
- hộ tịch cấp xã khi tổ chức thực hiện việc rà soát văn bản QPPL, nếu phát hiện văn
bản chứa nội dung có dấu hiệu trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, không còn


21
phù hợp hoặc văn bản có những quy định cần đƣợc sửa đổi, bổ sung phải kịp thời
báo cáo Chủ tịch UBND cùng cấp để kiến nghị các cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ văn bản
đó.
Trách nhiệm của UBND các cấp:
Chủ tịch UBND các cấp có trách nhiệm:
- Kịp thời xem xét, có ý kiến chỉ đạo xử lý kết quả rà soát văn bản QPPL của
HĐND, UBND khi nhận đƣợc báo cáo của cơ quan tƣ pháp cùng cấp;
- Tổ chức đăng Công báo (đối với cấp tỉnh), niêm yết (đối với cấp huyện, cấp
xã) danh mục văn bản QPPL của HĐND, UBND đã hết hiệu lực thi hành.
1.1.4. Quy trình và kết quả rà soát văn bản QPPL

Khi có văn bản mới của cấp trên (hoặc do mình) ban hành hoặc điều kiện kinh
tế - xã hội có những thay đổi thì phát sinh yêu cầu rà soát. Quá trình rà soát thƣờng
xuyên đƣợc tiến hành tuần tự theo một quy trình gồm năm bƣớc:
Thứ nhất, thu thập văn bản QPPL để rà soát và các văn bản để đối chiếu;
Thứ hai, đọc, nghiên cứu văn bản đƣợc rà soát;
Thứ ba, đối chiếu, so sánh văn bản đƣợc rà soát với văn bản đƣợc lấy làm căn
cứ đối chiếu;
Thứ tƣ, lập phiếu rà soát; đề xuất hƣớng xử lý;
Thứ năm, xử lý kết quả rà soát.
Cụ thể nhƣ sau:
1.1.4.1. Thu thập văn bản QPPL để rà soát và các văn bản để đối chiếu
Thu thập văn bản QPPL để rà soát
Quá trình thu thập văn bản QPPL để rà soát phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Thu thập đúng những văn bản QPPL cần rà soát;
- Không để sót văn bản hoặc để sót các QPPL trong từng văn bản (đặc biệt
lƣu ý đối với trƣờng hợp văn bản đƣợc rà soát là văn bản có chứa QPPL);
- Việc thu thập văn bản cần đƣợc tiến hành trên cơ sở nguồn chính thức của
văn bản QPPL và các nguồn khác.


22
Nguồn thu thập chính thức gồm:
- Văn bản chính (văn bản gốc tức là văn bản có dấu và chữ ký của ngƣời có
thẩm quyền);
- Văn bản ở bộ phận văn thƣ - lƣu trữ của cơ quan ban hành văn bản;
- Bản gốc (bản chính) ở bộ phận lƣu trữ của các cơ quan, tổ chức có liên quan
đến việc thực hiện các văn bản đó;
- Công báo, Phụ lục Công báo của Chính phủ, Công báo, Phụ lục Công báo
của UBND cấp tỉnh đã đăng văn bản QPPL;
Các nguồn thu thập khác, gồm: văn bản trong các ấn phẩm nhƣ Tập hệ thống

hóa luật lệ của Bộ, ngành ở TW; văn bản dƣới dạng ấn phẩm do các nhà xuất bản ấn
hành; văn bản đăng trên các báo chí của Trung ƣơng và địa phƣơng…
Thu thập văn bản dùng để đối chiếu
Văn bản dùng để đối chiếu là những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn văn
bản đƣợc rà soát và yêu cầu độ chính xác cao. Vì vậy nó đƣợc thu thập từ Công báo
và Phụ lục Công báo của Chính phủ, Công báo và Phụ lục Công báo của UBND cấp
tỉnh đã đăng văn bản QPPL; các văn bản lƣu giữ ở cơ sở dữ liệu pháp luật Quốc gia,
các đĩa CD do Văn phòng Quốc hội phát hành và danh mục văn bản QPPL từ năm
1945 đến thời điểm tiến hành rà soát.
Khi thu thập các văn bản thuộc đối tƣợng rà soát và các văn bản để đối chiếu
cần lƣu ý một số điểm sau:
- Các nguồn văn bản khác chỉ nên sử dụng khi không thu thập đƣợc văn bản ở
nguồn chính thức;
- Cần thu thập, tập hợp cả các văn bản có chứa QPPL nhƣng không đƣợc ban
hành bằng hình thức văn bản QPPL, nhƣ: Công văn, Thông báo và văn bản có chứa
QPPL nhƣng do cơ quan, ngƣời không có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL ban
hành.
1.1.4.2. Đọc, nghiên cứu văn bản
Cần đọc kỹ từng văn bản trong số các văn bản cần rà soát, theo thứ tự từ văn
bản có giá trị pháp lý cao tới văn bản có giá trị pháp lý thấp; ghi vào phiếu xử lý
từng văn bản về các số liệu, nội dung cơ bản của văn bản, ý kiến nhận xét sơ bộ để
chuẩn bị cho việc đối chiếu, so sánh. Trong quá trình đọc, nghiên cứu văn bản cần


×