Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật hiện hành ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ THỊ DOÁNH

GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP BẰNG
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƢỜNG

HÀ NỘI - 2013




1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, một yếu tố không thể
thiếu đó là vốn. Trước đây, tài sản được đem góp vốn chủ yếu và được quan


tâm là tiền, vàng, quyền sử dụng đất, nhà xưởng, máy móc…Ngày nay, trong
nền kinh tế hiện đại, nền kinh tế tri thức thì hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm
và dịch vụ ngày càng lớn, trở thành một yếu tố quyết định tính cạnh tranh. Tài
sản trí tuệ không chỉ là nhân tố quyết định sự gia tăng giá trị của sản phẩm,
dịch vụ mà còn chiếm tỷ trọng cao trong kết cấu giá trị của doanh nghiệp. Với
vai trò quan trọng trong sự phát triển doanh nghiệp nên tài sản trí tuệ ngày
càng trở thành một loại tài sản góp vốn được chú trọng. Góp vốn bằng tài sản
trí tuệ trở nên phổ biến. Nhu cầu góp vốn và nhận góp vốn bằng tài sản trí tuệ
trở thành tất yếu.
Thực tế, ở Việt Nam những năm gần đây những giao dịch liên quan đến
tài sản trí tuệ trong đó có hoạt động góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ (chủ
yếu đều là góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp) đã được thực hiện bởi
nhiều doanh nghiệp như VINASHIN, VINACONEX,…Tuy nhiên pháp luật
của nước ta về vấn đề này còn nhiều khoảng trống khiến cho hoạt động góp
vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ nói chung và góp vốn bằng quyền sở hữu công
nghiệp nói riêng diễn ra một cách tự phát và mang tính chất thăm dò. Các quy
định của pháp luật liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ phần lớn chỉ nhấn mạnh
đến tính dân sự, hành chính mà chưa đề cập nhiều đến những khía cạnh
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Chính sự thiếu vắng những quy định của
pháp luật làm cho việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ nói chung và góp
vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp nói riêng gặp nhiều lung túng không chỉ


2

với các tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn mà còn gây khó khăn cho cả cơ
quan quản lý nhà nước. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc
về góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp cả về phương
diện lý luận, lập pháp và thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp cho việc
hoàn thiện pháp luật về vấn đề góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu

công nghiệp là một việc làm cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài "Góp
vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của
pháp luật hiện hành ở Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở
hữu công nghiệp nói riêng ở Việt Nam ngày càng trở nên phổ biến. Đặc biệt
vài năm gần đây, các phương tiên thông tin truyền thông liên tiếp đưa tin về
việc một số tập đoàn góp vốn vào rất nhiều các doanh nghiệp khác bằng
quyền sử dụng nhãn hiệu. Vì thế, cũng có khá nhiều các nghiên cứu có liên
quan đến pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Có thể kể đến Nguyễn Thanh Tâm (2005), “Quyền sở hữu công nghiệp dưới
góc độ thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Hà Phương (2009), “Pháp luật về
hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp bằng nhãn hiệu hàng hóa – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội; Phạm Đức Quảng (2011), “Áp dụng pháp luật về góp vốn bằng giá trị
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội; Hoàng Lan Phương (2011), “Pháp luật Việt nam
về thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Đoàn Thu Hồng (2012), “Góp vốn thành


3

lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ
Luật Học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạ Thị Thanh Thủy (2012),
“Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam”, Luận
văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Hồng
Vân, “Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu”, Tạp chí hoạt động

khoa học số tháng 7/2010…
Tuy vậy, các nghiên cứu nêu trên mặc dù có đề cập đến vấn đề góp vốn
bằng quyền sở hữu công nghiệp nhưng chỉ xem xét trong phạm vi của một đối
tượng quyền sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu hoặc đặt trong một phạm vi
rộng là một dạng của thương mại hóa. Cho đến nay, chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về góp vốn vào doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu công nghiệp. Vì thế, đề tài "Góp vốn vào doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành ở
Việt Nam" lần đầu tiên được nghiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ một cách
chuyên sâu, toàn diện, và đảm bảo tính logic, hệ thống, không có sự trùng lặp
với các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu là làm rõ được những vấn đề lý
luận cũng như nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp; chỉ ra những
điểm còn thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong quy định của pháp luật hiện hành
liên quan đến hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công
nghiệp. Qua đó đưa ra được những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh hoạt động này, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các bên chủ thể
tham gia vào giao dịch góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp cũng như tạo


4

cơ sở cho chủ thể quản lý nhà nước trong công tác quản lý, điều hành.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện được các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động góp vốn vào
doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp. Cụ thể là làm rõ khái niệm về

góp vốn vào vào doanh nghiệp, các loại tài sản góp vốn vào doanh nghiệp, khái
niệm và đặc trưng của quyền sở hữu công nghiệp, các đối tượng của quyền sở
hữu công nghiệp, làm rõ tính thương mại của quyền sở hữu công nghiệp;
- Phân tích, bình luận và chỉ ra những điểm không hợp lý trong các quy
định của pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu công nghiệp;
- Trình bày và luận giải về thực tiễn góp vốn vào doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam. Đồng thời, trên cơ sở những phân tích
về những bất cập trong quy định của pháp luật, luận giải những khó khăn của
thực tiễn góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp để đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu trong phạm vi các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
điều chỉnh hoạt động góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp mà chủ yếu tập
trung vào quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan


5

điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nước và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp phân tích hệ
thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh …
5. Đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về góp vốn vào doanh
nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp - một vấn đề mới, đã và đang gặp
nhiều vướng mắc từ thực tiễn. Những đóng góp của luận văn thể hiện trên
một số phương diện sau đây:
Thứ nhất, lần đầu tiên vấn đề góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu công nghiệp được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn.
Thứ hai, quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong
công tác xây dựng và thi hành pháp luật về góp vốn vào doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu công nghiệp. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động
góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở
hữu công nghiệp nói riêng trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho
giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn
liên quan đến hoạt động đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện
pháp luật về việc góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói
chung và góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp nói
riêng.


6

6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu và Kết luận, luận văn có kết cấu ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp và góp vốn
vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn vào doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu công nghiệp

Chương 3: Thực tiễn góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sở hữu
công nghiệp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về góp vốn vào doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.


7

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ
GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP BẰNG QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

1.1. Khái quát về hành vi góp vốn vào doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm góp vốn vào doanh nghiệp
Vốn của doanh nghiệp có hai tính chất: về mặt kinh tế, vốn là phương
tiện kinh doanh; về mặt pháp lý, vốn là số tiền đảm bảo cho việc công ty trả
nợ, nói cách khác vốn là phương tiện để trả nợ [14, tr.123, 130]. Trên cơ sở
các tính chất của vốn, hành vi góp vốn cũng được xem xét ở hai khía cạnh:
Xét ở khía cạnh kinh tế, góp vốn là hành vi tạo lập tài sản cho doanh
nghiệp, đảm bảo nguồn chi trả cho các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nhất là trong giai đoạn doanh nghiệp mới thành lập.
Xét ở khía cạnh pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng tài sản của mình sang cho doanh nghiệp, hình thành nguồn vốn
chủ sở hữu – một trong các loại vốn của doanh nghiệp1 được quan tâm để
đảm bảo lợi ích cho chủ nợ. Khi đó, người góp vốn không còn quyền sở hữu
hay quyền sử dụng đối với tài sản góp vốn, nhưng đổi lại người góp vốn xác
lập quyền sở hữu đối với tài sản mới là phần vốn góp trong doanh nghiệp và
trở thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhận góp vốn.
Vốn góp trở thành cơ sở để xác định địa vị pháp lý cũng như quyền và nghĩa
vụ của người góp vốn đối với doanh nghiệp.
Theo Từ điển Luật học thì góp vốn là "việc nhà đầu tư đưa tài sản dưới

1

Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay. Trong đó, vốn chủ sở hữu được hình thành từ
các nguồn sau: vốn góp, lãi chưa phân phối và vốn chủ sở hữu khác như quỹ của doanh nghiệp, vốn xây dựng
cơ bản do kinh phí Nhà nước cấp


8

các hình thức khác nhau vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hoặc
đồng chủ sở hữu doanh nghiệp" [12]. Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp
năm 2005 giải thích "góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ
sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty". Tuy ngôn từ cụ thể có khác
nhau nhưng về bản chất, cả hai khái niệm dù mang tính học thuật hay mang
tính chính thống đều có chung một cách nhìn nhận, quan niệm về thuật ngữ
pháp lý "góp vốn". Theo cả hai khái niệm nêu trên, góp vốn là hoạt động có
chủ ý của cá nhân hoặc tổ chức chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng
hợp pháp của mình sang cho công ty nhằm tạo lập ra vốn điều lệ của công ty
đó. Bằng hành vi góp vốn, bên góp vốn sẽ trở thành chủ sở hữu hoặc đồng
chủ sở hữu của công ty nhận góp vốn. Như vậy, hành vi "góp vốn" được định
nghĩa trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 chính là hành vi "góp vốn vào
doanh nghiệp" không bao hàm các hoạt động góp vốn dưới hình thức hợp tác
kinh doanh không hình thành pháp nhân mới.
Tuy nhiên, người viết đồng tình với quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Thị
Dung trong bài viết "Hoàn thiện quy định về góp vốn và xác định tư cách
thành viên công ti theo Luật Doanh nghiệp năm 2005" đăng trên Tạp chí Luật
học số 9/2010 khi cho rằng hành vi góp vốn được định nghĩa trong Luật
Doanh nghiệp năm 2005 có nội hàm hẹp. Việc góp vốn vào doanh nghiệp
ngoài cách thức trực tiếp chuyển tài sản vào doanh nghiệp còn có thể thực
hiện bằng nhiều cách thức khác khi xảy ra sự kiện pháp lý khác làm hình

thành tư cách chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung doanh nghiệp của tổ
chức, cá nhân như sự kiện nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế
phần vốn góp của thành viên doanh nghiệp.
Căn cứ vào định nghĩa góp vốn trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì
quan niệm góp vốn chỉ đặt ra đối với các loại hình công ty (bao gồm công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh) không bao gồm loại


9

hình doanh nghiệp tư nhân. Nói cách khác, khái niệm “góp vốn” trong Luật
Doanh nghiệp năm 2005 là khái niệm về hành vi “góp vốn vào công ty”. Lý
do để cắt nghĩa cho điều này là vì loại hình doanh nghiệp tư nhân không có tư
cách pháp nhân2 nên không thể tham gia quan hệ góp vốn với tư cách là bên
nhận vốn góp. Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết thì việc chủ doanh
nghiệp tư nhân bỏ vốn đầu tư thành lập doanh nghiệp tư nhân và việc tăng
vốn đầu tư trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân chính là hành
vi thể hiện bản chất của hoạt động góp vốn. Rõ ràng cũng có việc đưa tài sản
vào doanh nghiệp để hình thành vốn điều lệ3 của doanh nghiệp tư nhân (chỉ
khác ở chỗ tài sản đưa vào doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu) và qua đó chủ tài sản trở thành chủ doanh nghiệp tư
nhân. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể
tiếp tục đưa tài sản vào doanh nghiệp thể hiện ở việc tăng vốn đầu tư. Với
phân tích trên thì doanh nghiệp tư nhân cũng chính là chủ thể nhận góp vốn từ
bên góp vốn là chủ doanh nghiệp tư nhân đó.
Trên cơ sở những phân tích nêu trên có thể hiểu: góp vốn vào doanh
nghiệp là việc đưa tài sản vào doanh nghiệp hoặc bằng cách thức khác để trở
thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của doanh nghiệp.
1.1.2. Hình thức vốn góp vào doanh nghiệp
Pháp luật ở mỗi quốc gia có những quy định riêng về hình thức vốn góp

vào doanh nghiệp.
Đoạn 1 Điều 1832 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Công ty do hai hay
nhiều người thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp,
2

Doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và tài sản
của doanh nghiệp tư nhân nên không đáp ứng điều kiện để được công nhận là pháp nhân quy định tại Điều 84
Bộ luật dân sự năm 2005
3
Vốn điều lệ của doanh nghiệp tư nhân được hiểu chính là tổng số vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân
mà chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ phải đăng ký khi thành lập doanh nghiệp.


10

sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm
chia lãi hoặc thu lợi”. Tiếp đó, Đoạn 1 Điều 1843-3 lại ghi nhận: “Mỗi thành
viên phải chịu trách nhiệm đối với công ty về những cam kết đóng góp bằng
hiện vật, bằng tiền hoặc công sức lao động”. Như vậy, pháp luật Pháp ghi
nhận hình thức vốn góp vào doanh nghiệp có thể là tài sản (tiền, hiện vật)
hoặc công sức lao động.
Điều 2186 Bộ luật Dân sự Québec (Canada) quy định: “Một hợp đồng
hợp danh là một hợp đồng mà các bên, trên tinh thần hợp tác, thoả thuận tiến
hành một hoạt động, bao gồm việc khai thác một doanh nghiệp, góp vốn vào
đó bằng sự kết hợp tài sản, tri thức hoặc hoạt động và chia nhau bất kỳ khoản
lãi về tiền bạc nào là kết quả từ đó” [19]. Theo đó, pháp luật Québec
(Canada) ghi nhận hình thức vốn góp vào doanh nghiệp bao gồm tài sản, tri
thức hoặc hoạt động.
Trên cơ sở định nghĩa hành vi góp vốn là “việc đưa tài sản vào công
ty”, có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức vốn góp vào

doanh nghiệp là tài sản. Bằng phương pháp liệt kê, khoản 4 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp năm 2005 đưa ra các loại tài sản có thể góp vốn là tiền Việt
Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền
sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ
công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty. Các tài sản khác ở
đây được hiểu là vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định tại
Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005. Như vậy, về nguyên tắc, mọi loại tài sản
đều có thể sử dụng để góp vốn vào doanh nghiệp. Tuy nhiên do nhu cầu sử
dụng vốn đối với mỗi loại tài sản ở từng doanh nghiệp khác nhau là khác nhau
nên việc doanh nghiệp nhận loại tài sản nào làm tài sản góp vốn phụ thuộc
vào quyết định của công ty và được ghi trong Điều lệ của công ty. Quy định
về các loại tài sản góp vốn ở khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005


11

nảy sinh một số vấn đề cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 dẫn
đến những cách hiểu khác nhau [17]:
Cách hiểu thứ nhất, mọi loại tài sản được dùng để góp vốn vào công ty
đều phải được Điều lệ Công ty quy định rõ, kể cả các loại tài sản là tiền Việt
Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền
sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật. Với cách hiểu này thì quy định
của pháp luật có vẻ cứng nhắc và thiếu tính thực tế khi đòi hỏi những loại tài
sản góp vốn phổ biến như tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng
cũng chỉ có thể làm tài sản góp vốn khi được Điều lệ quy định.
Cách hiểu thứ hai, những loại tài sản là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do
chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công
nghệ, bí quyết kỹ thuật đương nhiên được sử dụng làm tài sản góp vốn theo
quy định của pháp luật. Những loại tài sản khác chưa được liệt kê chỉ được

chấp nhận là tài sản góp vốn khi Điều lệ công ty có ghi nhận. Cách hiểu này
cũng không được thỏa đáng bởi lẽ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ,
công nghệ, bí quyết kỹ thuật là những loại tài sản có những nét đặc thù riêng.
Vì thế nếu coi chúng là loại tài sản góp vốn đương nhiên, sẽ không đảm bảo
được quyền tự quyết của doanh nghiệp trong nhu cầu về sử dụng vốn.
Do đó, pháp luật nên quy định những loại tài sản đương nhiên có thể
trở thành tài sản góp vốn như tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng.
Những tài sản khác chỉ có thể dùng làm tài sản góp vốn khi Điều lệ công ty
quy định.
Thứ hai, rà soát quy định của pháp luật chúng ta thấy sự thiếu nhất
quán trong việc sử dụng thuật ngữ pháp lý. Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật
Doanh nghiệp 2005 sử dụng thuật ngữ “góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng


12

đất”, trong khi Luật Đất đai năm 2003 lại sử dụng thuật ngữ “góp vốn bằng
quyền sử dụng đất”. Luật Doanh nghiệp năm 2005 ghi nhận “giá trị quyền sở
hữu trí tuệ” là tài sản góp vốn thì Điều 5 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 01 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số
điều của Luật Doanh nghiệp (sau đây gọi là Nghị định số 102/2010/NĐ-CP)
lại ghi nhận việc góp vốn bằng “quyền sở hữu trí tuệ”. Vậy vấn đề đặt ra là
“giá trị quyền sử dụng đất”, “giá trị quyền sở hữu trí tuệ” hay “quyền sử
dụng đất”, “quyền sở hữu trí tuệ” là tài sản góp vốn? Theo quan điểm của
chúng tôi, việc sử dụng thuật ngữ “giá trị quyền sử dụng đất” và “giá trị
quyền sở hữu trí tuệ” là loại tài sản góp vốn là không thống nhất với quan
niệm về tài sản quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tài sản theo Điều
163 Bộ luật Dân sự năm 2005 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ4. Như vậy, quyền sử dụng đất và

quyền sở hữu trí tuệ mới được coi là tài sản. Mặt khác, khoản 24 Điều 4 Luật
Đất đai năm 2003 cũng đã đưa ra khái niệm “giá trị quyền sử dụng đất là giá
trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong
thời hạn sử dụng đất xác định”. Theo đó, giá trị quyền sử dụng đất và tương
tự là giá trị quyền sở hữu trí tuệ không phải tài sản theo cách phân loại tài sản
của pháp luật dân sự.
1.2. Khái quát về quyền sở hữu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp
a. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Sở hữu công nghiệp là một loại hình của sở hữu trí tuệ, liên quan đến
những thành quả sáng tạo trí tuệ của con người; đối tượng của loại sở hữu này
4

Điều 181 Bộ luật dân sự 2005


13

là các tài sản phi vật chất, có giá trị kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, trong đó bao gồm cả hoạt động công nghiệp và thủ công nghiệp.
Quyền sở hữu công nghiệp được hiểu theo nhiều nghĩa:
Tiếp cận dưới góc độ là một quan hệ pháp luật, quyền sở hữu công
nghiệp hội tụ đầy đủ các yếu tố như chủ thể, khách thể, nội dung. Quyền sở
hữu công nghiệp chỉ được hình thành trên cơ sở sự tác động của các quy
phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp đối với các kết quả của hoạt động sáng
tạo trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Như vậy, chủ thể của quyền
sở hữu công nghiệp là tất cả các tổ chức, cá nhân như tác giả, chủ sở hữu các
đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc các tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp. Khách thể của quyền sở hữu công nghiệp là các
kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ được áp dụng trong các hoạt động sản

xuất, kinh doanh như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lí, tên thương mại, bí mật kinh doanh.
Nội dung của quyền sở hữu công nghiệp là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
Tiếp cận dưới góc độ là chế định pháp luật, quyền sở hữu công nghiệp
là pháp luật về sở hữu công nghiệp, nói khác đi đó là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập và
áp dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Tiếp cận dưới góc độ là quyền chủ thể, quyền sở hữu công nghiệp là
những quyền, nghĩa vụ cụ thể của các cá nhân, tổ chức là chủ thể của quyền
sở hữu công nghiệp. Theo hướng tiếp cận này, khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí
tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) định nghĩa: “Quyền sở hữu công nghiệp
là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí


14

mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh”. Trong đó, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được
xác định là một nội dung của quyền sở hữu công nghiệp, không phải là đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp
b. Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp
(i) Xét trong mối tương quan với quyền sở hữu tài sản hữu hình, quyền
sở hữu công nghiệp (rộng hơn là quyền sở hữu trí tuệ) với tính chất là quyền
sở hữu đối với tài sản vô hình (tài sản trí tuệ) có những nét đặc trưng riêng
sau đây:
Về căn cứ phát sinh, xác lập và chấm dứt quyền: Do tính chất vô hình
của tài sản trí tuệ nên quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trên cơ

sở thực tế sử dụng, khai thác đối tượng sở hữu công nghiệp. Tương ứng với
đó, quyền sở hữu công nghiệp chấm dứt phụ thuộc vào hiệu lực của văn bằng
bảo hộ hoặc thực tế không còn khai thác, sử dụng đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp. Quyền sở hữu tài sản hữu hình được xác lập và chấm dứt thường gắn
liền với sự tồn tại của tài sản. Theo đó, quyền sở hữu tài sản hữu hình xác lập
trên cơ sở sự chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản và chấm dứt khi mà sự chiếm
hữu không còn đạt được do tài sản bị tiêu hủy hoặc bị trưng mua, trưng dụng…
Về nội dung quyền: Quyền sở hữu tài sản hữu hình được xem xét ở ba
quyền năng cấu thành là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định
đoạt. Nhưng do tính chất vô hình của đối tượng quyền sở hữu công nghiệp mà
trong nội dung quyền sở hữu công nghiệp, pháp luật không đề cập tới quyền
chiếm hữu.
Do một số đối tượng quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí) là thành quả lao động sáng tạo của con người nên


15

trong nội dung bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp pháp luật ghi nhận sự bảo
hộ quyền nhân thân của các tác giả. Trong khi đó, quyền sở hữu tài sản hữu
hình không đặt ra nội dung về quyền nhân thân.
Trong quá trình thực hiện quyền năng sử dụng, giá trị của tài sản trí tuệ
gia tăng trong khi giá trị của tài sản hữu hình bị giảm sút. Bởi lẽ tài sản hữu
hình với tính chất hiện hữu vật chất trong quá trình sử dụng bị hao mòn vật lý
do điều kiện thời tiết, khí hậu…; hơn nữa với thời gian sử dụng lâu dài cũng
dẫn đến những hao mòn vô hình do sự lạc hậu về kỹ thuật…Ngược lại, tài sản
trí tuệ mà đặc biệt là các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp với tính chất vô
hình nên không có sự hao mòn vật lý. Hao mòn vô hình cũng có thể xảy ra
đối với một số đối tượng sở hữu công nghiệp trong nhóm có tính sáng tạo
khoa học kỹ thuật như sáng chế. Còn hầu hết các đối tượng sở hữu công

nghiệp nếu được áp dụng trong sản xuất kinh doanh (tức là thực hiện quyền
năng sử dụng) sẽ nâng cao giá trị, nhất là với các đối tượng có tính thương
mại như tên thương mại, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh…
Tính chất bảo hộ quyền: Trong khi quyền sở hữu tài sản hữu hình là
quyền tuyệt đối không bị giới hạn về không gian và thời gian thì quyền sở
hữu công nghiệp có tính chất lãnh thổ, quyền này được bảo hộ trong phạm vi
không gian và thời gian nhất định. Phần lớn các quyền sở hữu công nghiệp
chỉ phát sinh khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ
và văn bằng này chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia đã cấp văn bằng
đó. Đối với các đối tượng này, để đạt được sự bảo hộ tại nước ngoài, chủ sở
hữu các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp phải nộp đơn đăng ký bảo hộ tại
nước ngoài và chỉ được bảo hộ khi văn bằng được cấp. Còn đối với các đối
tượng sở hữu công nghiệp mà quyền sở hữu công nghiệp đối với chúng phát
sinh một cách tự động thì chúng cũng chỉ được bảo hộ khi đáp ứng yêu cầu cụ
thể của pháp luật quốc gia nơi các đối tượng này muốn đạt được sự bảo hộ.


16

Về thời hạn bảo hộ: quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ theo thời
hạn của văn bằng bảo hộ. Các đối tượng được bảo hộ theo thời hạn là các đối
tượng xác định được tác giả sáng tạo ra đối tượng đó, những đối tượng không
xác định được tác giả sáng tạo được bảo hộ không thời hạn hoặc có thời hạn
với những điều kiện nhất định. Có thể chia thời hạn bảo hộ thành các loại sau:
Thời hạn bảo hộ được xác định và không được gia hạn. Loại thời hạn
này được áp dụng đối với sáng chế là 20 năm; với giải pháp hữu ích là 10
năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ; với thiết kế bố trí là 10 năm kể từ nộp đơn
hợp lệ hoặc ngày người có quyền đăng ký khai thác, cho phép người khác
khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới hoặc 15 năm
tính từ ngày tạo ra thiết kế bố trí.

Thời hạn bảo hộ được xác định và có thể được gia hạn. Loại thời hạn
này được áp dụng đối với nhãn hiệu là 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ,
có thể gia hạn liên tiếp nhiều lẫn mỗi lần 10 năm; với kiểu dáng công nghiệp
là 5 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần
5 năm.
Đối với các đối tượng nêu trên, việc bảo hộ trong thời hạn xác định chỉ
có hiệu lực khi chủ sở hữu văn bằng bảo hộ nộp lệ phí duy trì hiệu lực của
văn bằng.
Thời hạn bảo hộ không xác định. Loại thời hạn này áp dụng đối với tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh cho đến khi nào còn đáp ứng
được điều kiện bảo hộ.
Hệ quả của việc bảo hộ: Việc bảo hộ quyền sở hữu tài sản hữu hình của
một người ít khi tạo nên tình trạng độc quyền ảnh hưởng đến phương pháp
sản xuất kinh doanh của người khác. Nhưng việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp lại có khả năng lớn dẫn đến tình trạng độc quyền.


17

(ii) Xét trong mối quan hệ với quyền tác giả (một bộ phận khác của
quyền sở hữu trí tuệ), quyền sở hữu công nghiệp có những điểm khác biệt
sau:
Về đối tượng bảo hộ: đối tượng bảo hộ của quyền tác giả là các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Trong khi đó, đối tượng của quyền sở
hữu công nghiệp là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh. Quyền tác
giả bảo hộ hình thức thể hiện của sự sáng tạo, không cần phải được đánh giá
và công nhận, do đó không cần phải có văn bằng bảo hộ. Còn quyền sở hữu
công nghiệp bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo và uy tín thương mại; một số
đối tượng phải được đánh giá và công nhận do đó chúng phải được cấp văn

bằng bảo hộ.
Về điều kiện bảo hộ: Các tác phẩm văn học nghệ thuật được bảo hộ khi
mang tính nguyên gốc và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất
định. Trong khi đó, về nguyên tắc, đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo
hộ khi có tính mới, tính sáng tạo, tính khác biệt, tính ứng dụng. Tuy nhiên,
những điều kiện bảo hộ này khác nhau đối với từng đối tượng quyền sở hữu
công nghiệp.
Về thủ tục bảo hộ: đối với hầu hết các đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp, việc bảo hộ chỉ đặt ra khi chủ thể quyền đã thực hiện thủ tục bảo hộ
đối tượng quyền sở hữu công nghiệp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong khi đó, yêu cầu này không mang tính bắt buộc đối với các đối tượng
quyền tác giả.
1.2.2. Các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa
đổi, bổ sung năm 2009, đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng


18

chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh
doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
a. Sáng chế
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình
nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự
nhiên.
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu
đáp ứng điều kiện về tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công
nghiệp. Trong trường hợp sáng chế không phải là hiểu biết thông thường và
đáp ứng điều kiện về tính mới và khả năng áp dụng công nghiệp thì được bảo
hộ dưới hình thức Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.

Các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế theo Điều
59 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, bao gồm: Phát minh, lý thuyết khoa học,
phương pháp toán học; Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện
các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh,
chương trình máy tính; Cách thức thể hiện thông tin; Giải pháp chỉ mang đặc
tính thẩm mỹ; Giống thực vật, giống động vật; Quy trình sản xuất thực vật,
động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình vi sinh;
Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật.
b. Kiểu dáng công nghiệp
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể
hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu đáp ứng điều kiện về tính mới,
tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp.
Các đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa kiểu dáng công


19

nghiệp theo Điều 64 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, bao gồm: Hình dáng bên
ngoài của sản phẩm do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm bắt buộc phải có; Hình
dáng bên ngoài của công trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp; Hình
dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử dụng sản phẩm.
c. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (thiết kế bố trí) là cấu trúc không
gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp
bán dẫn. Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán
thành phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số
hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu
bán dẫn nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC,
chip và mạch vi điện tử.

Thiết kế bố trí được bảo hộ nếu đáp ứng điều kiện về tính nguyên gốc
và tính mới thương mại.
Những đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa thiết kế bố trí
quy định tại Điều 69 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, bao gồm: Nguyên lý, quy
trình, hệ thống, phương pháp được thực hiện bởi mạch tích hợp bán dẫn;
Thông tin, phần mềm chứa trong mạch tích hợp bán dẫn.
d. Bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính,
trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng điều kiện: Không phải là
hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; Khi được sử dụng trong
kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người
không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; Được chủ sở hữu


20

bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ
và không dễ dàng tiếp cận được.
Đối tượng không đươc bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh quy
định tại Điều 85 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, bao gồm: Bí mật về nhân thân;
Bí mật về quản lý nhà nước; Bí mật về quốc phòng, an ninh; Thông tin bí mật
khác không liên quan đến kinh doanh.
đ. Nhãn hiệu
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau.
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu thỏa mãn điều kiện: Là dấu hiệu nhìn thấy
được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; Có khả
năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch

vụ của chủ thể khác.
Như vậy, các dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của
pháp luật Việt Nam có phạm vi hẹp hơn so với quy định của nhiều quốc gia
và thông lệ quốc tế. Ở nhiều nước dấu hiệu âm thanh5, mùi6, vị, chỉ riêng màu
sắc7 cũng có thể được bảo hộ là nhãn hiệu nhưng pháp luật nước ta chưa ghi
nhận các dấu hiệu này.
Các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu: Dấu hiệu
trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của
các nước; Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu
5

Âm thanh được đăng ký là nhãn hiệu âm thanh cho điện thoại Nokia – Nhãn hiệu số 001040955 của Cộng
đồng châu Âu
6
Mùi của cỏ vừa mới cắt được đăng ký là nhãn hiệu mùi cho bóng tennis – Dữ liệu từ vụ việc R 156/1998-2
của Cộng đồng châu Âu; Mùi của hoa hồng được đăng ký là nhãn hiệu mùi cho chỉ thêu – Dữ liệu từ vụ Re
Clarke 17 USPQ 2d 1238 (1990) của Hoa Kỳ.
7
Màu tím được đăg ký là nhãn hiệu màu cho kẹo socola – Nhãn hiệu số 000031336 của Cộng đồng châu Au
[11, tr.405]


21

tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế,
nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép; Dấu hiệu trùng hoặc tương tự
đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ,
anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài; Dấu hiệu trùng

hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu
bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng,
trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng
nhận; Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối
người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá
trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.
Ngoài khái niệm về nhãn hiệu nói chung còn có các khái niệm về các
loại nhãn hiệu đặc thù: Nhãn hiệu tập thể; Nhãn hiệu liên kết; Nhãn hiệu
chứng nhận; Nhãn hiệu nổi tiếng.
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ
của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Ví dụ: Bánh
kẹo Hữu Nghị…
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép
tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cac nhân
đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản
xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an
toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Ví dụ:
hàng Việt Nam chất lượng cao…
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng


22

hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau
hoặc có liên quan với nhau. Ví dụ: máy giặt LG, tủ lạnh LG, ti vi LG…
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi
trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ: Coca-Cola…
Thực tế cho thấy khái niệm nhãn hiệu thường hay được sử dụng thay thế
bởi khải niệm thương hiệu, thậm chí trong Công văn hướng dẫn của Tổng cục

thuế cũng sử dụng thuật ngữ góp vốn bằng thương hiệu. Thực chất đó là những
khái niệm không tương đồng và về mặt pháp lý không thể sử dụng thay thế.
Thương hiệu không phải là một khái niệm pháp lý mà là một khái niệm thương
mại. Thương hiệu bao gồm nhiều yếu tố tạo nên hình ảnh doanh nghiệp và các
sản phẩm của nó. Nhãn hiệu chỉ là một trong những hình thức thể hiện ra bên
ngoài của thương hiệu cùng với các yếu tố khác như kiểu dáng công nghiệp,
truyền thông quảng cáo hay marketing. Bên trong của thương hiệu còn có yếu tố
khác như đặc tính của doanh nghiệp, chiến lược phát triển sản phẩm [13, tr.94].
e. Tên thương mại
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh
doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa tên thương mại quy
định tại Điều 77 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005: Tên của cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc chủ thể khác không
liên quan đến hoạt động kinh doanh
g. Chỉ dẫn địa lý
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu
vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.


×