Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Những vấn đề pháp lý cơ bản về góp vốn thành lập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.93 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ THÌN

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Dung

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến TS. Nguyễn
Thị Dung đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo, người
đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học
vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa sau đại học,
Khoa pháp luật kinh tế trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập.


Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đỗ Thị Thìn


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Toàn bộ nội
dung liên quan đến đề tài được trình bày trong luận án là bản thân tôi tự tìm hiểu
và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Dung.
Các tài liệu, số liệu nêu trong luận án là trung thực được trích dẫn đầy đủ
nguồn gốc. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời
cam đoan của mình.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đỗ Thị Thìn


MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
1


MỞ ĐẦU

Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP 6
1.1.

Khái niệm, bản chất của góp vốn và hành vi góp vốn

1.1.1.

Khái niệm vốn góp và hành vi góp vốn

1.1.1.1. Khái niệm vốn góp

6
6
6

1.1.1.2. Khái niệm hành vi góp vốn

10

1.1.2.

Bản chất pháp lý của góp vốn thành lập doanh nghiệp

12

1.2.


Hệ quả pháp lý của góp vốn thành lập doanh nghiệp

14

1.2.1.

Tạo ra một thực thể độc lập

14

1.2.2.

Hệ quả đối với những người góp vốn

15

1.3.

Sự phát triển các quy định pháp luật Việt Nam điều chỉnh

17

quan hệ góp vốn thành lập doanh nghiệp


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN

23

THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

2.1.

Quy định hiện hành của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp 23
ở Việt Nam

2.1.1.

Chủ thể góp vốn

23

2.1.2.

Tài sản góp vốn

27

2.1.2.1. Xác định loại tài sản được dùng để góp vốn vào công ty

27

2.1.2.2. Xác định giá trị của tài sản góp vốn vào công ty

29

2.1.3.

35

Hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp


2.1.3.1. Góp vốn bằng tiền

36

2.1.3.2. Góp vốn bằng hiện vật

37

2.1.3.3. Góp vốn bằng quyền sử dụng đất

37

2.1.3.4. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ

41

2.1.4.

Thời hạn và thủ tục góp vốn

45

2.1.4.1.

Thời hạn góp vốn

45

2.1.4.2 . Thủ tục góp vốn


48

2.1.4.2.1. Định giá tài sản góp vốn

48

2.1.4.2.2. Chuyển quyền sở hữu tài sản

49

2.1.4.2.3. Cấp giấy chứng nhận vốn góp

50

2.1.5.

Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn

51

2.2.

Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về

54

góp vốn thành lập doanh nghiệp



2.3.

Một số nhận xét và đánh giá

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ THỰC HIỆN

56
59

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP

3.1.

Phương hướng hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật

59

Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp
3.2.

Giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định

61

của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp
3.2.1. Các giải pháp hoàn hoàn thiện các quy định của pháp luật

62


Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp
3.2.2. Các giải pháp thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam

66

về góp vốn thành lập doanh nghiệp
KẾT LUẬN

69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

72


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình thành lập doanh nghiệp, góp vốn là khâu có ảnh hưởng lớn
không chỉ đến quyền lợi của các thành viên trong công ty mà còn ảnh hưởng tới
sự hoạt động của công ty sau khi thành lập. Vì vậy, để tạo môi trường pháp lý
lành mạnh, an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, pháp luật doanh
nghiệp được chú trọng xây dựng và từng bước hoàn thiện, Luật doanh nghiệp
2005 đã có những quy định điều chỉnh quan hệ góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Tuy nhiên, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp hiện nay còn nhiều hạn
chế chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đời sống, chưa thật sự là hành lang pháp
lý an toàn khả thi cho các doanh nghiệp và người góp vốn. Mặt khác thực tiễn thi
hành pháp luật cũng còn rất nhiều vấn đề phải bàn. Để phát huy vai trò của pháp
luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu làm

sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận liên quan đến cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với
các quy định góp vốn thành lập doanh nghiệp. Từ đó bước đầu tìm ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện các quy định của pháp luật liên
quan đến việc góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc góp vốn thành lập doanh nghiệp trong
khuôn khổ một luận án thạc sĩ luật học, tác giả đã lựa chọn đề tài “Những vấn đề
pháp lý cơ bản về góp vốn thành lập doanh nghiệp” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam trong thời gian qua, pháp luật về góp vốn thành lập doanh
nghiệp luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người. Có nhiều công trình nghiên
cứu về Luật doanh nghiệp nói chung và cũng không ít các công trình nghiên cứu


2

về pháp luật góp vốn thành lập doanh nghiệp nói riêng. Trong số các công trình
nghiên cứu đã được công bố phải kể đến cuốn “Công ty: Vốn, quản lý và tranh
chấp theo Luật doanh nghiệp 2005” của Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình
Cung do Nhà xuất bản tri thức xuất bản năm 2009; bài “Pháp luật doanh nghiệp
và đầu tư với vấn đề hội nhập” của TS. Bùi Xuân Hải đăng trên tạp chí nghiên
cứu lập pháp số 113, tháng 01/2008, bài “Hoàn thiện quy định về góp vốn và xác
định tư cách thành viên công ti theo Luật doanh nghiệp năm 2005” của TS.
Nguyễn Thị Dung đăng trên tạp chí Luật học số 9/2010. Và có một số công trình
nghiên cứu đề cập một cách không hệ thống tới vấn đề góp vốn thành lập doanh
nghiệp ở các khía cạnh khác nhau. Ngoài ra, phải kể đến các nghiên cứu khoa
học về hợp đồng thành lập công ty, về tài sản và khả năng sử dụng các tài sản
góp vốn vào công ty của Trường Đại học Luật Hà Nội, cũng như của các tác giả
như Ngô Huy Cương, Trần Ngọc Điện…Song nhìn chung do giới hạn về mục
đích, phạm vi nghiên cứu nên các công trình nghiên cứu này mới chỉ đề cập
được một số vấn đề liên quan đến việc góp vốn thành lập doanh nghiệp, trong đó

nhiều vấn đề vẫn chưa được giải quyết một cách toàn diện. Mặt khác, thực tiễn
áp dụng pháp luật góp vốn thành lập doanh nghiệp hiện nay còn khá nhiều bất
cập vì pháp luật chưa hợp lý, đồng bộ phần vì thiếu kiến thức lý luận và thực
tiễn. Như vậy, có thể nói rằng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống
những vấn đề pháp lý về góp vốn thành lập doanh nghiệp trong bối cảnh hiện
nay của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận, dựa trên những chủ trương, đường
lối, chính sách xây dựng kinh tế - xã hội Việt Nam để nhằm tới mục tiêu "dân


3

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", luận án đặt mục đích
nghiên cứu là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về góp vốn thành lập doanh
nghiệp, đánh giá đúng được thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về
góp vốn thành lập doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện chúng trong việc thành
lập các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, từ đó cũng tìm ra những tồn tại, hạn
chế và đề xuất những giải pháp hoàn thiện, thực hiện các quy định của pháp luật
về góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Từ mục đích đó, luận án xác định các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn thành lập
doanh nghiệp như khái niệm, bản chất vốn góp và hành vi góp vốn.
- Thứ hai, nghiên cứu thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập doanh
nghiệp, phân tích sự phát triển các quy định pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan
hệ góp vốn thành lập doanh nghiệp Việt Nam, phân tích các quy định pháp lý
hiện hành về góp vốn thành lập doanh nghiệp và nêu ra thực tiễn thực hiện các
quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp. Đồng thời đưa ra các
nhận xét và đánh giá về thực trạng pháp luật góp vốn thành lập doanh nghiệp

hiện nay.
- Thứ ba, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật và thực hiện các
quy định của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp, đồng thời góp phần
hoàn thiện các quy phạm pháp luật khác có liên quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến vốn góp
thành lập doanh nghiệp những vấn đề lý luận chủ yếu về góp vốn thành lập
doanh nghiệp, các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn thành lập


4

doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện các quy định này trong việc thành lập doanh
nghiệp ở Việt Nam. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được thực hiện với các quy
định của pháp luật có liên quan đến vấn đề này.
Trong giới hạn của một luận án thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu chỉ tập trung
vào khái niệm vốn góp, bản chất vốn góp, hành vi góp vốn, hệ quả pháp lý của
góp vốn thành lập doanh nghiệp, sự phát triển các quy định của pháp luật Việt
Nam điều chỉnh quan hệ góp vốn thành lập doanh nghiệp, nội dung các quy định
của Luật doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn về điều chỉnh quan hệ
góp vốn thành lập doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm
gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Là đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, phương pháp nghiên cứu có nền
tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối phát triển
kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Trong quá trình nghiên cứu luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu như: phân tích quy phạm, thống kê, tổng hợp các kiến thức từ pháp luật thực
định và phân tích thực tiễn để nhận thức và đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp
luật và thực thi pháp luật. Ngoài ra luận án còn sử dụng các phương pháp như: so

sánh pháp luật, phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp… để thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Với mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể, trong một phạm vi nhất định, luận án có
những điểm mới cơ bản sau:


5

- Luận án là công trình nghiên cứu một cách bao quát, có hệ thống lý luận cơ
bản về pháp luật góp vốn thành lập doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam.
- Luận án đã nhận xét và đánh giá một cách khái quát pháp luật hiện hành về
góp vốn thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Trong phần kiến nghị những phương hướng và giải pháp chủ yếu, luận án đã
đưa ra được những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật và thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
doanh nghiệp.
- Luận án có những điểm đáng lưu ý nhất đã phân tích được hạn chế của các
quy định góp vốn thành lập doanh nghiệp hiện hành và những bất cập hiện
nay trong thực tiễn áp dụng pháp luật góp vốn thành lập doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận án
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái luận về góp vốn thành lập doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp ở
Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện các quy định của
pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp



6

Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm, bản chất của góp vốn và hành vi góp vốn
1.1.1 Khái niệm vốn góp và hành vi góp vốn
1.1.1.1 Khái niệm vốn góp
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn tồn tại phải có nguồn tài chính đủ mạnh, đây là một trong ba yếu tố giúp
doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động của mình. Trong nền kinh tế thị trường,
vốn là điều kiện đầu tiên có ý nghĩa quyết định sự phát triển của hoạt động kinh
doanh. Việc làm rõ khái niệm vốn góp là rất cần thiết vì trên cơ sở đó có thể xác
định được các khái niệm khác như hành vi góp vốn, quan hệ góp vốn...Có rất
nhiều quan niệm khác nhau về vốn trên thế giới như:
- Theo quan điểm của C.Mark – nhìn nhận dưới giác độ các yếu tố sản xuất
thì Mác cho rằng: “Vốn chính là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một
đầu vào của quá trình sản xuất”. Tuy nhiên, C.Mark quan niệm chỉ có khu vực
sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Đây là một hạn chế
trong quan điểm của C.Mark.
- Còn Paul A.Samuelson, một đại diện tiêu biểu của học thuyết kinh tế hiện
đại cho rằng: đất đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn và hàng
hóa vốn là yếu tố kết quả của quá trình sản xuất. Vốn bao gồm các loại hàng hóa
lâu bền được sản xuất ra và được sử dụng như đầu vào hữu ích trong quá trình
sản xuất đó.
Một số hàng hóa có thể tồn tại trong vài năm, trong khi một số khác có
thể tồn tại một thế kỷ hoặc lâu hơn. Đặc điểm cơ bản nhất của hàng hóa


7


vốn thể hiện ở chỗ chúng vừa là sản phẩm đầu ra, vừa là yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất.
-

Trong cuốn kinh tế học của David Begg cho rằng “Vốn được phân

chia theo hai hình thái là vốn hiện vật và vốn tài chính”. Như vậy ông đã
đồng nhất vốn với tài sản doanh nghiệp. Trong đó:
 Vốn hiện vật: là dự trữ các hàng hóa đã sản xuất mà sử dụng để sản
xuất ra các hàng hóa khác.
 Vốn tài chính: là tiền và tài sản trên giấy của doanh nghiệp
Ngoài ra có nhiều quan niệm khác nhau về vốn nhưng mọi quá trình sản xuất
kinh doanh đều có thể khái quát thành:
T…….H (TLLĐ, TLSX) ……..SX……..H’……..T’
Để có các yếu tố đầu vào (TLLĐ, TLSX) phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước, lượng tiền ứng
trước này gọi là vốn của doanh nghiệp. Vậy “vốn của doanh nghiệp biểu hiện
bằng tiền của vật tư, tài sản được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận.”
Ở Việt Nam, khái niệm vốn được nghiên cứu, tiếp cận dưới các góc độ
khác nhau.
- Dưới góc độ ngôn ngữ học, vốn là “tổng thể nói chung những tài sản bỏ
ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng tiền, dùng trong sản xuất kinh doanh, nói
chung trong hoạt động sinh lợi” [22, tr.1087]. Định nghĩa này đã cho ta hình
dung bước đầu về vốn, tuy chưa thật rõ ràng nhưng đã nêu được nguồn gốc của


8

vốn là tổng thể những tài sản bỏ ra ban đầu (thường là tiền) và có chức năng là

dùng trong sản xuất kinh doanh.
- Dưới góc độ kinh tế, xuất phát từ vai trò của vốn đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh “vốn là toàn bộ lượng tiền cần thiết nhất định để bắt đầu và duy
trì sự hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục của các chủ thể kinh doanh”. Theo
đó, vốn phải có trước khi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói cách
khác, vốn là toàn bộ số tiền phải đầu tư ứng trước cho kinh doanh. Trong quá
trình đầu tư sử dụng vốn được thu hồi lại để đầu tư ứng tiếp cho các quá trình
kinh doanh tiếp theo. Nếu vốn kinh doanh bị giảm sút hoặc bị mất thì quy mô
kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng xấu, thậm
chí doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng phá sản. Cũng có thể hiểu vốn theo
cách khác, đó là “toàn bộ lượng tiền ứng ra ban đầu cho kinh doanh sẽ vận động
và chuyển hóa hình thái biểu hiện trong quá trình kinh doanh”. Cách hiểu đó đã
khái quát được khái niệm vốn khá rõ ràng, giúp ta hình dung được quy trình lưu
chuyển của vốn. Hình thái tiền tệ ban đầu của vốn kinh doanh sẽ bị thay đổi khi
đầu tư sử dụng dưới hình thức hình thành nên các tài sản phi tiền tệ như nhà
xưởng, văn phòng, máy móc thiết bị, vật tư. Do đó, nếu xét tại một thời điểm nào
đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn không chỉ tồn tại dưới
hình thái tiền tệ mà còn tồn tại dưới hình thái phi tiền tệ. Như vậy, có thể hiểu
vốn của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và đang phục
vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp [14, tr.97].
- Dưới góc độ pháp lý vốn là “tiền, tài sản, quyền tài sản trị giá được thành
tiền có thể sử dụng trong kinh doanh” [21, tr.857]. Có thể thấy định nghĩa trên đã
chỉ ra vốn được được hình thành từ tiền, tài sản, quyền tài sản trị giá được thành


9

tiền và mục đích là để sử dụng trong kinh doanh, là tiền đề cho các hoạt động
đầu tư. Khả năng sử dụng được trong kinh doanh là tiêu chí cơ bản để đánh giá
tiền, tài sản, quyền tài sản có giá trị là vốn. Đối với tiền phải tích tụ đến mức

nhất định thì mới có thể sử dụng trong kinh doanh với tư cách là vốn. Đối với tài
sản nếu chỉ thuần túy có giá trị và giá trị sử dụng mà không có khả năng chuyển
đổi thành tiền và sử dụng trong kinh doanh thì cũng không có giá trị là vốn. Đối
với các quyền tài sản, nếu không có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt để hạch
toán trong kinh doanh thì không thể dùng để đầu tư cũng không được xem là vốn.
- Xét trên phương diện khoa học, thì quan điểm nêu trên đã nêu ra những
yếu tố cơ bản nhất của vốn góp. Tuy nhiên, nó mắc phải hạn chế là chỉ coi vốn
góp là tiền, tài sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền mà quên mất rằng bên
cạnh đó còn có những thứ không phải là tài sản như kinh nghiệm quản lý, hệ
thống khách hàng, thương hiệu… Qua nghiên cứu cho thấy, khái niệm vốn góp
dưới góc độ pháp lý bao gồm các yếu tố sau:
+ Thứ nhất, vốn góp thành lập doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Một quá trình sản xuất kinh doanh sẽ được diễn ra khi có yếu tố: yếu tố vốn,
yếu tố lao động và yếu tố công nghệ. Trong ba yếu tố đó thì yếu tố vốn là điều
kiện tiền đề có vai trò rất quan trọng. Nó quyết định đầu tiên việc sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có thành công hay không. Khi tiến hành sản xuất, doanh
nghiệp cần phải có một lượng vốn để mua nguyên liệu đầu vào, thuê công nhân,
mua thông tin trên thị trường, mua bằng phát minh sáng chế...Bởi vậy, có thể nói
vốn là điều kiện đầu tiên cho yếu tố cầu về lao động và công nghệ được đáp ứng
đầy đủ. Nếu thiếu vốn việc kinh doanh của doanh nghiệp rất dễ dẫn đến thất bại.


10

+

Thứ hai, vốn góp của doanh nghiệp là quỹ tiền tệ đặc biệt vì nó nhằm

phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và phải đạt đến mục tiêu sinh lời.

Vốn vận động tuần hoàn gắn liền với các yếu tố vật tư và lao động [25].
Ngoài phần tạo lập ban đầu chúng còn được bổ sung từ kết quả hoạt động kinh
doanh. Để thực hiện mục đích sinh lời, vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện vừa
tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình nhưng kết thúc vòng tuần hoàn
phải là hình thái tiền.
+ Thứ ba, vốn góp được biểu hiện bằng tài sản hữu hình hoặc vô hình
Tài sản góp vốn là tài sản hữu hình theo quy định của pháp luật là tiền, tài
sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền. Bên cạnh đó, các bên chủ thể góp
vốn có thể thỏa thuận góp vốn bằng kinh nghiệm quản lý, hệ thống nhà hàng,
thương hiệu…Đây là những tài sản vô hình tuy không thấy được nhưng cũng đóng
vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp.
Từ những vấn đề trình bày, phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: “Vốn góp
là toàn bộ lượng tiền, tài sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền cũng như
những tài sản khác không trị giá được thành tiền mà các chủ thể kinh doanh
thỏa thuận đóng góp để phục vụ sản xuất kinh doanh sẽ vận động và chuyển hóa
hình thái biểu hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh”.
1.1.1.2 Khái niệm hành vi góp vốn
Mỗi loại hình doanh nghiệp có những phương thức huy động vốn khác nhau.
Công ty TNHH có thể huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, vay tín
dụng hoặc kêu gọi thêm chủ thể góp vốn song lại bị giới hạn số lượng chủ thể
góp vốn. Trong khi đó công ty cổ phần có khả năng huy động vốn rất lớn dưới
nhiều phương thức như góp vốn, vay tín dụng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu


11

…mà không bị giới hạn số lượng cổ đông. Mặc dù pháp luật quy định các
phương thức huy động vốn khác nhau nhưng vào thời điểm mới thành lập, vốn
góp là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất đối với mọi loại hình doanh nghiệp.
Khoản 4 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Góp vốn là việc đưa tài

sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công
ty”. Định nghĩa này cho phép giải thích hành vi góp vốn theo nghĩa hẹp với nội
hàm là hoạt động có chủ ý của người có tài sản, trực tiếp chuyển tài sản của
mình sang cho công ty để sử dụng vào mục đích kinh doanh để trở thành chủ sở
hữu hoặc đồng sở hữu của công ty đó. Chủ sở hữu hoặc các đồng chủ sở hữu này
còn được gọi là thành viên công ty.
Như vậy, có thể hiểu hành vi góp vốn vào công ty là việc một cá nhân hay tổ
chức chuyển dịch tài sản của mình (tiền, tài sản và quyền tài sản) theo một trình
tự, thủ tục nhất định vào công ty và theo đó được hưởng các quyền và nghĩa vụ
phát sinh từ việc góp vốn.
“Bản chất của quan hệ góp vốn là “sự hùn vốn” giữa các thành viên với
nhau và dẫn đến sự chi phối, chia sẻ lợi ích giữa những người cùng góp vốn”
[6]. Việc góp vốn là cơ sở cho việc tạo lập một thực thể pháp lý mới là công ty.
Khi thực hiện góp vốn, các chủ sở hữu vốn chuyển giao quyền sở hữu của mình
cho công ty để trở thành để trở thành thành viên công ty và được nhận phần
quyền lực trong công ty. Mức độ quyền lực của họ tùy thuộc vào tỷ lệ phần vốn
góp, năng lực trình độ quản lý, khả năng kinh doanh và uy tín của họ trong công
ty. Như vậy, hành vi góp vốn đã làm thay đổi tình trạng pháp lý đối với tài sản
của chủ sở hữu. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân hay tổ chức được góp vốn theo
những phương thức nhất định đã được chuyển dịch thành tài sản thuộc sở hữu


12

của công ty. Thực hiện xong hành vi góp vốn, họ được hưởng quyền thành viên
tương ứng với phần vốn mà họ góp vào công ty. Công ty với tư cách chủ sở hữu,
có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Là
một thực thể pháp lý độc lập, công ty là chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty.
Tuy nhiên, thực tiễn pháp luật cũng ghi nhận hành vi “góp vốn” còn được
thực hiện theo cách thức khác, khi xảy ra sự kiện pháp lý khác làm hình thành tư

cách chủ sở hữu/đồng chủ sở hữu công ty của tổ chức, cá nhân, như sự kiện
chuyển nhượng vốn góp, tặng cho, thừa kế phần vốn góp của thành viên công ty.
Để tạo cơ sở vững chắc cho thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp,
giảm thiểu tranh chấp xảy ra, giữa các bên góp vốn thường ký cam kết cụ thể về
các nội dung như người góp vốn, tài sản đem góp vốn, số lượng, giá trị từng loại
tài sản góp vốn, thời điểm, trình tự thủ tục góp vốn…Bản cam kết đó là hợp
đồng góp vốn hoặc hợp đồng thành lập công ty.
1.1.2 Bản chất pháp lý của góp vốn thành lập doanh nghiệp
Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một thực thể kinh doanh. Và trên
phương diện pháp lý, công ty được xem là hành vi pháp lý hay hành vi thương
mại. Do đó, góp vốn cũng được hiểu theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có
nghĩa là cần xem xét khái niệm góp vốn từ phương diện kinh tế và phương diện
pháp lý.
- Xét về phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho doanh
nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục đích đã
đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ khi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế việc góp


13

vốn thành lập doanh nghiệp có khi chỉ đơn giản để các nhà đầu tư kiếm lời từ
vốn góp của mình chứ không thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt
động kinh doanh cụ thể nào. Góp vốn thành lập doanh nghiệp các thành viên
công ty dễ dàng chuyển nhượng phần vốn góp đó cho người khác để hưởng
chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn đã góp.
-

Nếu xét về phương diện pháp lý, góp vốn là việc thành viên công ty


chuyển tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các đồng sở hữu công ty
tức là chuyển giao các quyền tài sản đối với tài sản là vốn góp để đổi lấy quyền
lợi trong công ty có giá trị tương ứng với phần vốn góp. Theo các quy định của
pháp luật, chủ sở hữu phần vốn góp (người góp vốn) có các quyền sau:
 Quyền tài chính: được phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp tương ứng
với tỷ lệ giá trị phần vốn góp; gánh chịu phần lỗ tương ứng với tỷ lệ giá trị phần
vốn góp nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ khi đang hoạt động cũng như khi
doanh nghiệp kết thúc hoạt động; nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ
phần vốn góp sau khi đã thanh toán hết các nghĩa vụ của doanh nghiệp khi doanh
nghiệp bị giải thể, phá sản.
 Quyền phi tài chính như quyền biểu quyết trong doanh nghiệp khi có các
vấn đề cần lấy ý kiến biểu quyết, quyền thông tin các vấn đề liên quan đến hoạt
động kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp như xem sổ sách kế toán và hồ sơ
khác của doanh nghiệp.
Ngoài ra, phần vốn góp với tư cách là một tài sản có giá trị tiền tệ nên chủ
sở hữu được tự do chuyển giao trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, việc chuyển
giao này bị hạn chế bởi một số quy định theo Luật Doanh nghiệp nhằm bảo đảm
sự hoạt động lành mạnh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.


14

Như vậy, phần vốn góp là một tài sản đặc biệt, được hình thành thông qua
việc góp vốn vào doanh nghiệp và tồn tại song song với sự tồn tại của doanh
nghiệp. Phần vốn góp không phải là tài sản cụ thể như những tài sản khi đem
góp vốn.
Trên thực tế, việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ tạo
nên quy chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn. Với vai trò là đạo luật ghi
nhận các mô hình kinh doanh, việc tạo lập nên sự phong phú của các mô hình là

một điều cần thiết cho các lựa chọn khởi nghiệp. Trong một chừng mực nào đó,
Luật Doanh nghiệp 2005 đã thành công trong việc đa dạng hoá các lựa chọn này.
Một trong những loại hình doanh nghiệp được lựa chọn nhiều nhất bởi các nhà
kinh doanh là mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
1.2 Hệ quả pháp lý của góp vốn thành lập doanh nghiệp
1.2.1 Tạo ra một thực thể độc lập
Việc góp vốn là cơ sở cho việc tạo ra một thực thể pháp lý mới là công ty.
Sau khi hoàn tất các thủ tục thành lập doanh nghiệp công ty có tư cách pháp
nhân, có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có tài sản độc lập với cá nhân và tổ chức
đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý, tài sản của công ty độc lập với
khối tài sản của mỗi thành viên. Trong quan hệ giữa công ty và thành viên của
công ty, các tài sản của công ty không phải thuộc sở hữu chung của thành viên
công ty, các thành viên khi góp vốn thì được hưởng các quyền từ việc góp vốn
đó. Công ty nhân danh mình tham gia vào các quan hệ xã hội một cách độc lập.
Điều đó có nghĩa là công ty có khả năng tự mình thực hiện các quyền và gánh
vác các nghĩa vụ. Cũng giống như một cá nhân, khi công ty hoạt động nó có thể
gây thiệt hại do đó, nó phải chịu trách nhiệm với các hành vi của mình. Công ty


15

được thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể được
bố trí vào các cơ quan của doanh nghiệp gọi là bộ máy điều hành và kiểm soát
các hoạt động của doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì doanh nghiệp được thành lập trên
cơ sở góp vốn của các thành viên và công ty được coi là một thực thể độc lập kể
từ thời điểm được cơ quan có thẩm quyền là Sở kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Với tư cách này, công ty có các quyền và nghĩa
vụ độc lập với các thành viên sáng lập. Tại Điều 8 Luật doanh nghiệp 2005 đã
quy định cụ thể các quyền của doanh nghiệp như quyền tự chủ kinh doanh, chủ

động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh…và Điều 9 Luật
Doanh nghiệp quy định cụ thể nghĩa vụ công ty như hoạt động kinh doanh theo
đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm
điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện, tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính
trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán…
Như vậy, việc góp vốn đã tạo ra một thực thể độc lập là công ty, nó có các
quyền và nghĩa vụ pháp lý độc lập với các thành viên góp vốn và tự chịu trách
nhiệm bằng chính tài sản của mình khi tham gia vào các quan hệ xã hội.
1.2.2 Hệ quả đối với những người góp vốn
Khi đã góp hoặc cam kết góp vốn thành lập doanh nghiệp các thành viên đã
tự ràng buộc mình vào các nghĩa vụ và quyền lợi nhất định từ việc góp vốn đó.
Hệ quả pháp lý của việc góp vốn thành lập doanh nghiệp đối với những người
góp vốn có thể được xem xét dưới hai khía cạnh là quyền lợi và nghĩa vụ tương
ứng với phần vốn góp.


16

Trước pháp luật, danh sách thành viên công ty trong hồ sơ đăng ký kinh
doanh là văn bản pháp lý xác nhận tư cách thành viên công ty của người góp
vốn, không phụ thuộc vào thời điểm hoàn thành nghĩa vụ góp vốn của họ. Kể từ
thời điểm công ty được thành lập và hoạt động, quyền và nghĩa vụ của thành
viên công ty đã hình thành.
Xem xét dưới khía cạnh quyền lợi thì khi góp vốn thành lập doanh nghiệp,
người góp vốn được hưởng những quyền lợi nhất định từ việc góp vốn đó đó là
các quyền tài chính và quyền phi tài chính như đã nêu ở trên.
Xem xét dưới khía cạnh nghĩa vụ, khoản 1 Điều 39 Luật doanh nghiệp đã
quy định rõ nghĩa vụ góp vốn của thành viên công ty: “Thành viên phải góp vốn
đầy đủ và đúng hạn bằng loại tài sản góp vốn như đã cam kết. Trường hợp thành

viên thay đổi loại tài sản góp vốn đã cam kết thì phải được sự nhất trí của các
thành viên còn lại; công ty thông báo bằng văn bản nội dung thay đổi đó đến cơ
quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày chấp
thuận sự thay đổi”. Và khoản 2 Điều 39 Luật doanh nghiệp xác định rõ số vốn
chưa góp được coi là nợ của thành viên với công ty: “Trường hợp có thành viên
không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ
của thành viên đó đối với công ty; thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.”
Cam kết thực chất là nghĩa vụ của thành viên với công ty. Chính vì vậy, số
vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên đối với công ty nếu thành viên
không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết và thành viên phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã
cam kết.


17

Theo nguyên tắc công bằng, quyền và nghĩa vụ phải tương xứng với nhau
thì quyền của các thành viên góp vốn phải ngang bằng với nghĩa vụ mà thành
viên gánh chịu. Như vậy, quyền và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn luôn
đi đôi với nhau đảm bảo hài hòa lợi ích của công ty và lợi ích của thành viên
góp vốn.
1.3 Sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan
hệ góp vốn thành lập doanh nghiệp
Trước năm 1990, các cơ sở kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân vẫn
tồn tại và hoạt động thực tế ở nước ta, nhất là từ năm 1987. Chúng nằm dưới các
hình thức “hộ tiểu chủ” hay “hộ kinh tế cá thể”. Hai loại hộ này chủ yếu khác
nhau ở quy mô và tính chất kinh doanh, phục vụ cho việc phân định các thành
phần kinh tế hơn là loại hình tổ chức kinh doanh. Vì vậy, cả hộ kinh doanh cá thể
và hộ tiểu chủ vào thời kỳ đó vẫn chưa được quy định về mặt pháp lý.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng
06/1991) đã có một bước tiến đáng kể trong chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần. Nghị quyết Đại hội đã chỉ rõ: “Mọi người được tự do kinh
doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”; “mọi
đơn vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ
kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật”; “kinh
tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”; “Nhà nước thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước
đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa tư liệu sản xuất, không áp đặt
hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh”
[1, tr.36].


18

Đồng thời với những đổi mới tư duy về khuyến khích phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, về phương diện pháp lý, cuối năm 1990, tại kỳ họp thứ 2 Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII đã thông qua hai đạo
luật quan trọng, đó là Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Các đạo luật
này có hiệu lực từ ngày 15/04/1991 đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình
thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân trong
nước, thể hiện một số nội dung quan trọng sau đây.
Một là, luật định nghĩa doanh nghiệp theo nội dung về cơ bản phù hợp với
kinh tế thị trường.
Theo khoản 1,2 Điều 3 Luật công ty, doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh
được thành lập chủ yếu nhằm mục đích sinh lợi. Cũng tương tự như vậy đối với
“doanh nghiệp tư nhân”; “công ty trách nhiệm hữu hạn”; và “công ty cổ phần”.
Điều 2 Luật doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh
có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu

trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần, gọi chung là công ty, là doanh
nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng
chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty (Điều 2 Luật công ty
năm 1990).
Hai là, quyền tự do thành lập doanh nghiệp để kinh doanh đã được xác nhận
một cách cụ thể hơn.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, công dân Việt
Nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân (Điều 1 Luật doanh


19

nghiệp tư nhân năm 1990); công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, tổ chức kinh tế Việt
Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội có
quyền góp vốn đầu tư hoặc tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần (Điều 1 Luật Công ty năm 1990).
Ba là, về đối xử với doanh nghiệp của tư nhân trong nước và bảo đảm của
nhà nước đối với người bỏ vốn kinh doanh.
Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân
của công ty, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân và
công ty với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh
doanh; trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân, công ty có quyền
tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doan và “quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất, quyền thừa kế về vốn, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của chủ doanh nghiệp được nhà nước bảo hộ”.
Như vậy, từ năm 1991 các nhà đầu tư tư nhân trong nước có thể bỏ vốn kinh
doanh theo ba loại hình doanh nghiệp khác nhau, bao gồm doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Tuy vậy, cho đến đầu năm

2000 doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân chỉ được thành lập khi Ủy
ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, nơi doanh nghiệp đóng trụ
sở chính, cho phép. Công việc xin phép thành lập doanh nghiệp rất phức tạp, tốn
kém cả thời gian và tiền bạc. Vào thời kỳ đó, hoàn thành thủ tục thành lập một
doanh nghiệp trung bình mất khoảng 6 tháng và tốn hơn 1.000 USD, bằng
khoảng 3 – 4 lần thu nhập bình quân đầu người. Sau khi thành lập, doanh nghiệp
cũng chỉ được quyền kinh doanh những gì mà cơ quan nhà nước cho phép. Vì
vậy, mọi sự thay đổi liên quan đến doanh nghiệp như thay đổi về vốn, ngành,


×