Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán doanh nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài tại việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.58 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC OANH

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên
cạnh sự nổ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý
Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt
thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến PGS. TS Thầy Nguyễn Viết Tý,
người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành
luận văn này. Xin gởi lời tri ân nhất của tôi đối với những điều mà Thầy đã


dành cho tôi.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý Thầy Cô trong bộ
môn khoa Luật Kinh tế – Trường Đại Học Luật Hà Nội đã tận tình truyền đạt
những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi
trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận
văn.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, những người đã không
ngừng động viên, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời
gian học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến các anh chị và
các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Hà Nội, ngày____tháng____ năm 2013.
Học viên

Nguyễn Ngọc Oanh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ĐTNN

- Đầu tư nước ngoài

DNVN

- Doanh nghiệp Việt Nam

DNNN


- Doanh nghiệp nhà nước

CTCP

- Công ty cổ phần

CTTNHH

- Công ty trách nhiệm hữu hạn

CTHD

- Công ty hợp danh

DNTN

- Doanh nghiệp tư nhân


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MUA
BÁN DOANH NGHIỆP CỦA CÁC NHÀ ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về mua bán doanh nghiệp của các nhà ĐTNN


6
6

1.1.1. Khái niệm nhà ĐTNN

6

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của mua bán doanh nghiệp

11

1.2. Hợp đồng - hình thức pháp lý của mua bán doanh nghiệp
của các nhà ĐTNN

21

1.3. Ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp của các nhà
ĐTNN

23

Chương 2. PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ MUA BÁN
DOANH NGHIỆP CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
2.1. Mua bán toàn bộ doanh nghiệp

25
28

2.1.1. Điều kiện thực hiện giao dịch mua bán toàn bộ doanh nghiệp tư

nhân, doanh nghiệp Nhà nước

29

2.1.2. Tiến hành giao dịch mua bán doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp nhà nước
2.2. Mua bán một phần doanh nghiệp

31
33

2.2.1. Mua bán vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp

36

2.2.2. Mua bán tài sản và quyền tài sản của doanh nghiệp

42

2.3. Hậu quả pháp lý và các thủ tục liên quan của hoạt động
mua bán doanh nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam

46

2.3.1. Chuyển đổi doanh nghiệp và đăng ký với cơ quan Nhà nước

46

2.3.2. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác của doanh nghiệp


51


Chương 3. THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP CỦA
CÁC NHÀ ĐTNN TẠI VIỆT NAM

53

3.1. Những thành tựu của mua bán doanh nghiệp của nhà
ĐTNN tại Việt Nam

54

3.1.1. Quốc tịch của các Nhà ĐTNN

55

3.1.2. Lĩnh vực được các nhà ĐTNN ưu tiên lựa chọn trong mua bán
doanh nghiệp

55

3.1.3. Loại hình giao dịch phổ biến trong mua bán doanh nghiệp của
các nhà ĐTNN

56

3.1.4. Doanh nghiệp mục tiêu trong mua bán doanh nghiệp của các

nhà ĐTNN

57

3.2. Những thách thức và trở ngại trong mua bán doanh nghiệp
của nhà ĐTNN tại Việt Nam

58

3.2.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp chưa
thống nhất
3.2.2. Vấn đề góp vốn điều lệ khi thực hiện mua bán doanh nghiệp

59
60

3.2.3. Chuyển giao quyền và nghĩa vụ sau khi mua bán doanh nghiệp
chưa được quy định cụ thể
3.2.4. Thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà nước sau khi giao dịch

60
61

3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp
của các nhà ĐTNN tại Việt Nam

62

3.3.1. Sửa đổi các quy định về khái niệm và nội dung hoạt động mua
bán doanh nghiệp một cách thống nhất


63

3.3.2. Quy định rõ về các nghĩa vụ chuyển giao sau khi thực hiện mua
bán doanh nghiệp
3.3.3. Quy định về đối tượng của hoạt động mua bán doanh nghiệp

64
64

3.3.4. Hoàn thiện quy chế góp vốn, mua cổ phần của các NĐTNN
trong các doanh nghiệp Việt Nam

65


5.3.5. Hoàn thiện các quy định về thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà
nước hậu mua bán doanh nghiệp

66

KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mua bán doanh nghiệp hay được biết đến với M&A từ lâu đã được coi
là một phần tất yếu của bất cứ nền kinh tế phát triển nào và là cách thức chủ
yếu để các doanh nghiệp mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của
mình trong khoảng thời gian ngắn nhất và đem lại thu nhập cho chủ sở hữu và
các nhà đầu tư. Không chỉ có vậy, mua bán doanh nghiệp cũng được sử dụng
như một công cụ hiệu quả để tái cơ cấu doanh nghiệp khi những doanh nghiệp
này gặp nhiều khó khăn về vốn, quản trị, chiến lược kinh doanh. Khi một
doanh nghiệp được bán một phần hoặc toàn bộ cho doanh nghiệp khác, cả hai
doanh nghiệp sẽ cùng hướng tới một giá trị chung- giá trị cộng hưởng - mà
giá trị đó bao trùm và lớn hơn tổng giá trị hiện tại của hai doanh nghiệp khi
hai doanh nghiệp tồn tại riêng rẽ. Nhờ tác dụng này, nhiều chủ doanh nghiệp
đã lựa chọn hình thức mua bán doanh nghiệp để thu lợi nhuận từ việc bán
doanh nghiệp, hoặc đưa doanh nghiệp của mình ra khỏi tình trạng mất khả
năng thanh toán nợ, hoặc mở rộng quy mô doanh nghiệp ra thị trường khi khả
năng của chủ doanh nghiệp có hạn.
Hoạt động mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam đã có bước khởi đầu
khả quan và tiếp tục gia tăng trong những năm gần đây. Các phương pháp đầu
tư truyền thống như thành lập các công ty từ giai đoạn đầu không còn nằm
trong danh sách lựa chọn của các nhà đầu tư. Các báo cáo thống kê từ các tổ
chức nghiên cứu M&A như: ThomsonReuter, PwC, Stoxplus cho thấy các
giao dịch liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao và xu
hướng này còn tăng trong những năm tới. Xu hướng bán doanh nghiệp cho
các nhà đầu tư nước ngoài đã góp phần đưa doanh nghiệp khỏi tình trạng suy
thoái kinh tế từ năm 2008 và mở ra cơ hội đưa sản phẩm nội địa ra phạm vi
thế giới.



2

Tuy nhiên, kể cả khi đã nỗ lực đàm phán và thống nhất việc mua bán
doanh nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài cũng gặp
phải những khó khăn trong việc xác định các giá trị của doanh nghiệp, rà soát
các thủ tục pháp lý và thực hiện các thủ tục khác để hoàn thành giao dịch.
Hoạt động mua bán doanh nghiệp gặp phải những khó khăn trên bắt nguồn
một phần từ sự phân biệt đối xử đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi họ tiến
hành mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam. Mặc dù, chúng ta đang trong lộ
trình xóa bỏ những rào cản đó, vẫn còn nhiều quy định pháp luật thể hiện việc
hạn chế tham gia các nhà ĐTNN trên thị trường. Để tạo ra một sân chơi kinh
tế lành mạnh, công bằng, chúng ta cần thiết phải có một cơ chế pháp luật hoàn
thiện, đồng bộ, thống nhất trong từng giai đoạn của hoạt động mua bán doanh
nghiệp, xóa bỏ những quy định có yếu tố phân biệt đối xử nhà đầu tư nước
ngoài, tăng cường tính khả thi của pháp luật với thực tế đang ngày một biến
đổi không ngừng.
Tác giả của luận văn này hy vọng với những căn cứ và phân tích về các
quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng của các quy định này đưa ra cách
nhìn khái quát về hoạt động mua bán doanh nghiệp dưới góc độ pháp luật để
từ đó xóa bỏ tâm lý e ngại, cải thiện và thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh
của doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Với sự tham khảo ở
mức độ nhất định các công trình nghiên cứu của các tác giả khác, tác giả hy
vọng đóng góp những kiến nghị phù hợp và khả thi đòi hỏi các nhà làm luật
đưa một số điều chỉnh, sửa đổi trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Một hành
lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ chắn chắn sẽ phát triển hình thức đầu tư trực
tiếp vốn đang sôi động này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi đề tài, tác giả nghiên cứu hoạt động mua bán doanh
nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài dưới góc độ pháp luật hiện hành và



3

thực tiễn tại Việt Nam. Đồng thời, tác giả đưa ra những kiến nghị để góp phần
hoàn thiện khung pháp lý về mua bán doanh nghiệp của các nhà đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ của luận văn sẽ giải quyết
những vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu khái niệm và hoạt động mua bán doanh nghiệp
của nhà đầu tư nước ngoài theo dưới góc độ kinh tế và pháp lý.
Thứ hai, rà soát và phân tích các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về mua bán doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, trên cơ sở thực tiễn, đề ra các biện pháp chính nhằm hoàn thiện
và thống nhất các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về mua bán doanh
nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hoạt động mua bán doanh nghiệp là một hoạt động phức tạp vì nó diễn
ra ở nhiều ngành nghề khác nhau liên quan và bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản
luật khác nhau. Tùy vào loại hình công ty(doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
Nhà nước thuộc diện được bán hoặc các doanh nghiệp Nhà nước không thực
hiện cổ phần hóa được, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên, công ty hợp danh), quy
định pháp luật đòi hỏi hoạt động mua bán doanh nghiệp phải thỏa mãn những
điều kiện và thủ tục khác nhau. Từ đó, luận văn chú trọng nghiên cứu và rà soát
các quy định pháp luật Việt Nam và một số các quan điểm của pháp luật một số
nước trên thế giới điều chỉnh hoạt động mua bán doanh nghiệp, vai trò và sự
tác động của mua bán doanh nghiệp cùng với sự tham gia của nhà đầu tư nước
ngoài với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài các quy định pháp luật, tác giả cũng có
đánh giá và đưa ra những căn cứ dựa trên các báo cáo định kỳ, các nguồn tư

liệu, nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước.


4

Với giới hạn của luận văn tốt nghiệp, phạm vi nghiên cứu của đề tài tập
trung ở khung pháp lý về hoạt động mua bán doanh nghiệp có sự tham gia của
nhà đầu tư nước ngoài thuộc tất cả các ngành nghề và đối tượng của giao dịch
mua bán doanh nghiệp là các loại hình có cấu trúc là một doanh nghiệp để có thể
có cái nhìn khái quát nhất về hoạt động mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên những nguồn tài liệu có được, luận văn được sử dụng các
phương pháp khác nhau như phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế cùng với phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử cho công tác nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả cũng kết hợp với
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và chứng minh, khảo sát thực
tiễn…để làm sáng tỏ các vấn đề được đề cập trong luận văn này.
5. Những điểm mới của đề tài:
Mua bán doanh nghiệp không còn là một đề tài mới mẻ đối với các cá
nhân, tổ chức nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh nền kinh tế Việt Nam.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập với thế giới,
sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động mua bán doanh
nghiệp là vô cùng cần thiết bởi những giá trị về văn hóa, kinh nghiệm, kinh tế
mà họ mang lại cho chúng ta. Trên cơ sở đó, luận văn đã đóng góp những cái
nhìn mới mẻ về mua bán doanh nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam như sau:
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật về mua bán doanh nghiệp của
các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
- Đánh giá đúng đắn thực trạng về hoạt động mua bán doanh nghiệp

của các nhà đầu tư nước ngoài và xu hướng trong thời gian tới;


5

- Tìm ra được những hạn chế của các quy định về các bước tiến hành
mua bán doanh nghiệp khi có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài;
- Kiến nghị được một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán
doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài các phần: Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có kết cấu gồm các chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về mua bán doanh nghiệp của
các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Chương 2: Pháp luật quy định về mua bán doanh nghiệp của các nhà
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Chương 3: Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua
bán doanh nghiệp tại Việt Nam.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP
CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về mua bán doanh nghiệp của các nhà ĐTNN
1.1.1. Khái niệm nhà ĐTNN
♦ Định nghĩa nhà ĐTNN
Trong những năm qua, Việt Nam đã ghi nhận sự tham gia của các nhà
đầu tư nước ngoài (nhà ĐTNN) trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Thuật ngữ này được đặt ra bởi đa số các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt
động kinh doanh tại Việt Nam dưới các hình thức đầu tư theo các quy định
pháp luật về đầu tư.
Khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 quy định “Nhà đầu tư nước ngoài là
tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt
Nam”. Từ định nghĩa này, nhà ĐTNN mang quốc tịch nước ngoài đến Việt
Nam mang theo vốn, tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt
động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp nhằm chuẩn
bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Theo đó,
các doanh nghiệp có sự tham gia của nhà ĐTNN cũng được Luật Đầu tư 2005
định nghĩa thành “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” [2, Đ3K6]
Định nghĩa về nhà ĐTNN cũng được Nghị định 69/2007/NĐ-CP quy
định giống với Luật Đầu tư 2005. Tuy nhiên, trong quyết định số
55/2009/QĐ-TTg và Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg có giải thích rõ hơn về
khái niệm nhà ĐTNN, cụ thể nhà đầu tư nước ngoài là: (i) Tổ chức thành lập
và hoạt động theo pháp luật nước ngoài và chi nhánh của các tổ chức này tại
nước ngoài và tại Việt Nam; (ii) Tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam
có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49%; (iii) Quỹ đầu tư, công


7

ty đầu tư chứng khoán có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên
49%; (iv) Cá nhân nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, cư
trú tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam.
Thông tư 131/2010/TT-BTC ra đời cũng đã quy định theo nội dung của
các văn bản nói trên và có quy định rõ hơn về tỷ lệ góp của nhà ĐTNN vào
vốn điều lệ và làm rõ khái niệm về nhà ĐTNN là cá nhân. Cụ thể: (i) Tổ chức
thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước
ngoài trên 49% vốn điều lệ; (ii) Quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán có tỷ

lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49% vốn điều lệ; (iii) Cá nhân
nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, cư trú tại nước ngoài
hoặc tại Việt Nam; (iv) Nhà đầu tư cá nhân vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa
mang quốc tịch nước ngoài được coi là nhà đầu tư trong nước, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác thì thực hiện theo quy định của pháp luật đó.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 213/2012/TT-BTC về việc
hướng dẫn hoạt động của nhà ĐTNN trên thị trường chứng khoán Việt Nam
với nội dung quy định khác với Thông tư 131/2010/TT-BTC như: (i) Tổ chức
thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam có 100% vốn góp nước ngoài
và các chi nhánh của tổ chức này; (ii) Quỹ thành viên, công ty đầu tư chứng
khoán riêng lẻ mà bên nước ngoài được quyền sở hữu trên 49% vốn điều lệ
theo quy định tại điều lệ quỹ, điều lệ công ty đầu tư chứng khoán.
Rõ ràng cùng một cơ quan ban hành – Bộ Tài chính, hai văn bản hướng
dẫn lại có cách định nghĩa khác về tỷ lệ vốn của “Tổ chức thành lập và hoạt
động theo pháp luật Việt Nam” chứ không nhất quán với các văn bản pháp
luật trước đó.
Từ các quy định của một số luật và văn bản chuyên ngành nói trên, khái
niệm về “nhà ĐTNN” được nhiều cơ quan quy định còn chưa thống nhất và
mâu thuẫn. Theo Luật Đầu tư 2005, nhà ĐTNN bao gồm cá nhân, tổ chức


8

nước ngoài (có quốc tịch nước ngoài) thực hiện đầu tư tại Việt Nam. Đây là
một định nghĩa rất khái quát và chưa kết luận được đặc điểm hoạt động và tỷ
lệ nhà ĐTNN tham gia vào doanh nghiệp khi thực hiện đầu tư Việt Nam. Tuy
nhiên, định nghĩa “Tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài
và chi nhánh của các tổ chức này tại nước ngoài và tại Việt Nam” đã giải
quyết được một vấn đề quốc tịch của nhà ĐTNN, giải thích rõ hơn về quy
định của Luật Đầu tư 2005.

Theo tiến trình phát triển của pháp luật, các văn bản dưới luật cũng đã
quy định ngày một cụ thể hơn và đưa ra một khái niệm mới về nhà ĐTNN:
“tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của
bên nước ngoài trên 49%”. Cách quy định này có thể hiểu bất kỳ tổ chức
thành lập và hoạt động ở Việt Nam có sự tham gia của nhà đầu tư Việt Nam
và nhà ĐTNN mà tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49% cũng
được coi là nhà ĐTNN.Tiếp theo đó, các quy định về quỹ đầu tư, công ty đầu
tư chứng khoán với tỷ lệ vượt quá 49% vốn điều lệ của bên nước ngoài cũng
được coi là nhà ĐTNN.
Luật Đầu tư 2005 còn đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với đặc điểm do nhà ĐTNN thành lập để hoạt động đầu tư tại Việt
Nam hoặc doanh nghiệp Việt Nam nhưng nhà ĐTNN mua cổ phần, sáp nhập
và mua lại. Đối với doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu chi phối của bên nước ngoài
(ví dụ: trên 49%) sẽ trùng với định nghĩa về nhà ĐTNN đã phân tích phía
trên. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài
dưới 49% sẽ được định nghĩa theo loại hình doanh nghiệp nào?
Việc quy định không thống nhất khái niệm “nhà ĐTNN” và thiếu sót
cho loại hình “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” khiến cho các cơ quan
áp dụng còn nhầm lẫn hai khái niệm này với nhau. Cách hiểu và áp dụng sai
sẽ tạo ra tâm lý lúng túng, quan ngại từ phía cơ quan Nhà nước và các nhà


9

ĐTNN khi thực hiện các thủ tục đăng ký đầu tư, hưởng ưu đãi theo từng loại
hình loại hình mà nhà ĐTNN hoạt động tại Việt Nam.
♦ Vị trí của nhà ĐTNN đối với nền kinh tế Việt Nam
Trong suốt 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã
không ngừng được mở rộng và phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ ngày càng
quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc

đổi mới đất nước. Nhà ĐTNN tham gia vào sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam theo các hướng tích cực sau:
Thứ nhất, hoạt động của nhà ĐTNNN khi tiến hành đầu tư kinh doanh
trên lãnh thổ Việt Nam tạo ra lợi nhuận cho các DNVN và đóng góp một phần
không nhỏ cho Nhà nước. Con số này có xu hướng ngày một tăng và qua đó
vị trí của nhà ĐTNN ngày càng được khẳng định trong quá trình phát triển
của nền kinh tế. Hiện nay các nhà ĐTNN đã đóng góp vào Ngân sách Nhà
nước. Tính riêng 3 năm 2006, 2007 và 2008, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN
đã nộp ngân sách đạt gần 5 tỷ USD, gấp hơn 3 lần thời kỳ 1996-2000 và bằng
1,4 lần thời kỳ 2001-2005 [40]. Lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài đã nộp ngân
sách nhà nước năm 2010 là 3,1 tỷ USD gần bằng 3,5 tỷ USD của cả 5 năm
(2001 - 2005) [41]. Đầu tư nước ngoài đã có tác động nhất định đến các cân
đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cân đối xuất nhập nhẩu, ảnh
hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt
Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua tiền thuê đất, tiền mua
nguyên, vật liệu.. tại Việt Nam. Nguồn thu ngân sách nhà nước từ khu vực
đầu tư nước ngoài, cùng với đóng góp của khu vực này vào bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô, đã tạo điều kiện để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa
đói giảm nghèo.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể thấy rõ sự tác động của chủ thể này đối
với các doanh nghiệp của một đất nước đang trên đà phát triển thông qua các


10

hoạt động thúc đẩy về công nghệ, nhân lực, vốn trong nhiều lĩnh vực như tài
chính, dầu khí, cơ khí, hóa chất, điện tử, viễn thông,…Các kinh nghiệm quý
báu về phương thức quản lý, đầu tư được truyển tải qua các nhà ĐTNN từ
những nước phát triển trên thế giới giúp cho Việt Nam dần bắt kịp với tiến
trình hội nhập toàn cầu. Với các chính sách, hành lang pháp lý hiện tại, chúng

ta đã và đang thu hút ngày một nhiều các quốc gia từ mọi miền trên thế giới
đầu tư tại một đất nước có nhiều tiềm năng như Việt Nam.
Thứ hai, bên cạnh yếu tố phát triển kinh tế, ổn định và hài hòa các mối
quan hệ xã hội cũng là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm khi xã hội
có sự tham gia của các nhà ĐTNN. Với dân số 88 triệu dân, độ tuổi dân số trẻ
chiếm tỷ lệ cao, việc làm là một vấn đề cấp thiết để có thể duy trì xã hội. Tính
đến hết tháng 7/2012, khu vực này đã tạo ra 1,7 triệu việc làm trực tiếp và
hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ
cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du nhập
phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến. Các doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài hoạt động trong một số lĩnh vực như lắp ráp ô tô - xe máy, điện
tử, may mặc, giầy da, chế biến nông sản… có nhu cầu sử dụng số lượng lớn
lao động, góp phần tạo nhiều việc làm cho người lao động Việt Nam.
Thông qua các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và tăng thu
nhập trực tiếp và gián tiếp cho người lao động, khu vực ĐTNN đã góp phần
xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân. Khu vực này còn
sản sinh được đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trình độ cao
(các nhà quản lý, chuyên gia và lao động lành nghề) phù hợp với kỹ thuật và
công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Một số
chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã có thể
đảm nhận các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình
công nghệ hiện đại thay cho các chuyên gia nước ngoài như trước đây. Ngoải
các lĩnh vực về sản xuất, các nhà ĐTNN cũng đã đầu tư vào các lĩnh vực xã


11

hội như giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng
đồng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện chất lượng
cuộc sống của người dân.

Với những tác động tích cực trên, sự tham gia của các nhà ĐTNN trên
thị trường kinh tế Việt Nam sẽ khiến cho hoạt động đầu tư trong nước tăng
tính cạnh tranh và phát triển. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày
càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội,
góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đồng thời là cầu nối quan trọng giữa nền kinh
tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch,
dịch vụ và tạo điều kiện để Việt Nam chủ động hội nhập ngày càng sâu hơn
vào đời sống kinh tế thế giới.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của mua bán doanh nghiệp
♦ Khái niệm mua bán doanh nghiệp
Bắt nguồn từ thực tiễn, “mua bán doanh nghiệp” cho đến nay vẫn là
một thuật ngữ sử dụng trong đời sống kinh tế mà không được định nghĩa
trong bất kỳ tài liệu chính thống nào. Tuy nhiên, với những đặc điểm và tính
chất của mua bán doanh nghiệp, chúng ta có thể định nghĩa thuật ngữ này, so
sánh thuật ngữ với các quy định của pháp luật trong nước cũng như quốc tế để
có thể hiểu được bản chất cũng như hành lang pháp lý điều chỉnh đối với hoạt
động này trên thực tế.
Theo tiến trình phát triển, mua bán doanh nghiệp không tự nhiên sinh ra
và xuất hiện ở Việt Nam. Mua bán doanh nghiệp được xuất hiện tại Việt nam
bằng việc các nhà ĐTNN đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp trong nước
và nước ngoài và có thể sở hữu một phần hoặc toàn bộ loại hình doanh nghiệp
trong nước/nước ngoài đó mà không phải hình thành doanh nghiệp mới. Vậy


12

trước khi du nhập vào Việt Nam, thuật ngữ này được quốc tế định nghĩa và
hiểu như thế nào?
Trên thế giới, hoạt động mua bán doanh nghiệp thường được hiểu với

thuật ngữ kinh tế “M&A”. “M&A” là ký hiệu được viết tắt bởi hai từ Tiếng
Anh: Mergers and Acquisitions (sáp nhập và mua lại). Đây là thuật ngữ để chỉ
việc mua bán và sáp nhập giữa hai hay nhiều công ty với nhau. Trong đó, từ
điển các khái niệm, thuật ngữ tài chính Investopedia, sáp nhập xảy ra khi hai
công ty ( thường là các công ty có cùng quy mô) đồng ý tiến tới thành lập một
công ty mới mà không duy trì sở hữu và hoạt động của các công ty thành
phần. Chứng khoán của các công ty thành phần sẽ bị xóa bỏ và công ty mới sẽ
phát hành chứng khoán thay thế. Mua lại (hay còn được gọi là thâu tóm) là
hoạt động thông qua đó các công ty tìm kiếm lợi nhuận kinh tế nhờ quy mô,
hiệu quả và khả năng chiếm lĩnh thị trường. Khác với sáp nhập, công ty mua
lại sẽ mua công ty mục tiêu, không có sự thay đổi về chứng khoán hoặc sự
hợp nhất thành công ty mới [37]. Mặc dù thuật ngữ “M&A” được sử dụng rất
thông dụng ở nhiều nước trên thế giới nhưng trong các văn bản, luật của các
nước chưa hướng tới sự thống nhất một định nghĩa pháp lý chung đối với
thuật ngữ này.
Theo Quy tắc về Sáp nhập của Cộng đồng Châu Âu số 139/2004 ngày
20/01/2004 (EC Merger Regulation)- quy tắc áp dụng định hướng chung cho
các quốc gia trong khối như sau: (i) sự sáp nhập giữa hai pháp nhân độc lập
hoặc hai bộ phận của hai pháp nhân; hoặc (ii) thâu tóm quyền kiểm soát trực
tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc mua lại chứng khoán hoặc tài sản của một
công ty khác; (iii) hoặc tạo ra một liên doanh mới [29, Đ3].
Theo quy định của Điều L430-1, Bộ luật Thương mại Pháp, M&A được
nhìn nhận dưới quan điểm về tập trung kinh tế, là việc hai hay nhiều doanh
nghiệp độc lập sáp nhập hoặc hợp nhất với nhau; một hoặc nhiều doanh nghiệp


13

hoặc những người đang nắm quyền kiểm soát những doanh nghiệp đó tiến hành
nắm lấy quyền kiểm soát đối với một phần hoặc toàn bộ một hoặc nhiều doanh

nghiệp khác, một cách trực tíêp hoặc gián tiếp, dưới hình thức góp vốn, mua lại
tài sản, ký kết hợp đồng hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác [29, tr8].
Theo Điều 91 Luật Cạnh tranh liên bang (Điều 45 Bản sửa đổi Luật
Cạnh tranh liên bang), sáp nhập được hiểu là việc mua hoặc thiết lập, trực tiếp
hay gián tiếp, bởi một hay nhiều người, bằng cách mua hay thuê mua cổ phần
hoặc tài sản, sự kiểm soát đối với hoặc một lợi ích đáng kể trong toàn bộ hay
một phần của hoạt động kinh doanh của một đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp,
khách hàng hoặc người nào khác bằng cách kết hợp hay liên kết hoặc hình
thức khác [29, tr15].
Luật Công ty Nhật Bản năm 2006 (Companies Act) tại Điều 2 (xxviii
và xxvii) quy định khái niệm sáp nhập được chia ra thành hai loại: sáp nhập
(hay còn gọi là “sáp nhập nuốt” (absorption-type merger) và hợp nhất (hay
còn gọi là “sáp nhập-hợp nhất”) (Consolidation-type Merger). Sáp nhập có
nghĩa là một công ty sáp nhập với một công ty khác thì công ty tồn tại sẽ kế
thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập (bị nuốt). Còn hợp
nhất là việc hai hay nhiều công ty hợp nhất lại với nhau và tạo thành một công
ty mới. Công ty mới sẽ kế thừa toàn bộ mọi quyền và nghĩa vụ của các công
ty bị hợp nhất [30].
Nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia cho thấy hầu hết các khái
niệm pháp lý về sáp nhập và mua lại vẫn còn có những điểm chưa đồng nhất.
Tuy nhiên, các giao dịch sáp nhập và mua lại thường được cơ cấu theo mô
hình chung thành giao dịch mua cổ phần hoặc mua tài sản và xem xét mua
bán doanh nghiệp dưới góc độ là một hình thức tập trung kinh tế chịu sự điều
chỉnh của pháp luật cạnh tranh. Mua bán doanh nghiệp cũng có thể bao gồm
sáp nhập, mua lại, hợp nhất theo quan điểm của một số quốc gia.


14

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, mua bán được định nghĩa là: “hành

vi trao đổi giữa người mua hàng nhận được quyền sở hữu hàng hóa từ người
bán hay người làm dịch vụ bằng cách trả một số tiền theo sự thỏa thuận hoặc
giá cả hợp pháp do nhà nước định chính trước”[24]. Với cách định nghĩa
này, mua bán là hoạt động diễn ra với hai chủ thể- Bên bán và Bên mua- xác
định và các bên tiến hành chuyển giao quyền sở hữu ngang giá với khoản tiền
Bên bán nhận được từ Bên mua. “Mua bán” đã được nhắc đến trong các thuật
ngữ khoa học pháp lý như mua bán hàng hóa trong pháp luật dân sự, thương
mại. Tuy nhiên, đối tượng của các hoạt động có liên quan đến mua bán chỉ
dừng lại ở hàng hóa, dịch vụ mà chưa có văn bản quy định đối tượng của giao
dịch là doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, mua bán doanh nghiệp không được ghi nhận đầy đủ và
thống nhất trong các văn bản pháp luật. Do hoạt động này xuất hiện còn khá
mới mẻ tại thời điểm xây dựng pháp luật nên các nhà làm luật đã dần tiếp cận
hoạt động này theo các hướng riêng rẽ như bán và mua lại doanh nghiệp,
chuyển nhượng vốn, mua bán các tài sản của doanh nghiệp, và các hình thức
sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp mà chưa kịp thời sửa đổi cho phù hợp với
thông lệ quốc tế cũng như điều chỉnh một cách thống nhất hoạt động mua bán
doanh nghiệp trên thực tế.
Trước hết, nhà làm luật đã đề cập đến mua bán doanh nghiệp trong
Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 về việc bán và cho thuê doanh nghiệp tư
nhân (Điều 24) và đến năm 2003 là hoạt động “chuyển nhượng vốn” trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, phải đến năm 2004 trở đi,
hoạt động sáp nhập và mua lại ở Việt Nam thực sự chỉ được “hợp thức hóa”
với sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2004, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu
tư 2005, Luật Chứng khoán 2006 và một số văn bản pháp luật chuyên ngành
về tài chính ngân hàng.


15


Tiếp cận theo hướng các hình thức tập trung kinh tế hạn chế cạnh tranh
lành mạnh, Luật Cạnh tranh 2004 đã chính thức đề cập đến mua bán doanh
nghiệp như một tín hiệu cảnh báo về các nguy cơ của các hoạt động này trên
thực tế. Theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam “Mua lại doanh nghiệp là
việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp
khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh
nghiệp bị mua lại” [8,Đ17].
Tiếp cận theo hướng cơ cấu, tổ chức lại công ty, Luật Doanh nghiệp
2005 đưa ra quy định về bán toàn bộ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) [1,
Đ145]. Tiếp cận theo hướng hình thức đầu tư, Luật Đầu tư 2005 đưa ra khái
niệm về mua lại là một hình thức đầu tư trực tiếp [2, Đ21K1].
Sau đó, Nghị định 80/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc giao bán,
khoán, kinh doanh công ty Nhà nước đã đề cập đến khái niệm “bán doanh
nghiệp Nhà nước” là chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp Nhà nước sang tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác. Nghị định này
đã được thay thế bởi Nghị định 109/2008/NĐ-CP với cách định nghĩa bán
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo hướng bán toàn bộ hoặc bộ phận doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước, công ty hạch toán độc lập và đơn vị phụ thuộc là
chuyển sở hữu có thu tiền toàn bộ doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp
sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác. Cách định nghĩa này cho
thấy việc chuyển đổi sở hữu có yếu tố thu tiền của Bên bán sang Bên mua
được coi là phản ánh được yếu tố đặc trung của hoạt động mua bán thường
thấy theo pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, các giao dịch mua bán doanh nghiệp có thể được cấu trúc
dưới nhiều hình thức khác như phát hành cổ phần mới, ưu tiên bán cổ phiếu
phát hành mới cho các cổ đông chiến lược với mức giá ưu đãi, tăng vốn điều
lệ, ký kết các thỏa thuận hợp tác chiến lược, trở thành hệ thống đại lý phân


16


phối hay bao tiêu sản phẩm, dịch vụ. Để thực hiện các hoạt động nói trên,
pháp luật Việt Nam cũng đã quy định trong nhiều văn bản pháp luật chuyên
ngành khác nhau quy định từng hoạt động riêng lẻ mà không khái quát thành
một phần của quá trình mua bán doanh nghiệp. Do vậy, khái niệm mua bán
doanh nghiệp không được đặt ra trong các văn bản này.
Từ những khái niệm trên, mua bán doanh nghiệp theo pháp luật Việt
Nam có phạm vi hẹp hơn khái niệm về M&A của các nước trên thế giới và
được hiểu như sau: Mua bán doanh nghiệp là hoạt động chuyển giao chuyển
giao toàn bộ hoặc phần các tài sản vật chất và phi vật chất và quyền sở hữu
tương ứng các tài sản đó từ Bên bán sang Bên mua. Kết quả, Bên mua sẽ trở
thành chủ sở hữu mới của doanh nghiệp hoặc có quyền điều hành, quản lý
nhất định đối với doanh nghiệp.
♦ Đặc điểm của mua bán doanh nghiệp
Về bản chất, mua bán là hoạt động chuyển giao quyền sở hữu đối tượng
được giao dịch từ Bên bán sang Bên mua. Trong mua bán doanh nghiệp,
doanh nghiệp - đối tượng giao dịch đặc biệt chưa được định nghĩa cụ thể theo
đặc điểm về một loại hàng hóa trong Bộ luật dân sự 2004, Luật Thương mại
2005. Mang bản chất là hoạt động thương mại phát sinh lợi nhuận, mua bán
doanh nghiệp mang các đặc điểm chung của loại hình mua bán hàng hóa
thông thường và đặc điểm riêng áp dụng cho loại hàng hóa đặc biệt “doanh
nghiệp” như sau:
Thứ nhất, mục đích mua bán doanh nghiệp không giống như mục đích
kinh doanh các mặt hàng thông thường. Bên bán xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau mong muốn bán lại doanh nghiệp của mình cho cá nhân, tổ
chức khác để tập trung kinh doanh với những ngành nghề còn lại, chuyển
sang kinh doanh ngành nghề khác hoặc chấm dứt hoạt động kinh doanh của
Bên bán. Đối với nhà ĐTNN là Bên bán, thương vụ được thực hiện do nhà



17

ĐTNN thoái vốn do giá trị doanh nghiệp mục tiêu đang ở mức cao, hoặc do
mục đích loại bỏ các lĩnh vực kinh doanh không hiệu quả tại Việt Nam, hoặc
chỉ đơn giản là chuyển sang đầu tư một loại hình kinh doanh khác. Bên mua
là nhà ĐTNN mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp để tiết kiệm được
thời gian, kinh phí gây dựng các tài sản, cơ sở vật chất, thương hiệu, mạng
lưới phân phối, khách hàng…mà doanh nghiệp mục tiêu đã có.
Thứ hai, về chủ thể tham gia giao dịch, hoạt động mua bán doanh
nghiệp được diễn ra giữa chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc các thành viên
công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH), cổ đông công ty cổ phần (CTCP),
DNNN, DNTN, công ty hợp danh (CTHD) tại Việt Nam. Trong đó, một hoặc
cả hai bên có sự tham gia của nhà ĐTNN.
Thứ ba, đối tượng giao dịch của mua bán doanh nghiệp là toàn bộ
doanh nghiệp hoặc một phần doanh nghiệp dưới dạng các tài sản như: Vốn,
Cổ phần, cổ phiếu hiện hữu; Cổ phần, cổ phiếu mới phát hành; Tài sản và các
quyền tài sản; Các nghĩa vụ và các tài sản khác..
Đối với mua bán một phần doanh nghiệp, đối tượng của giao dịch còn
bao gồm thỏa thuận về việc kiểm soát một bộ phận trong doanh nghiệp hoặc
một ngành nghề, hoặc mặt hàng, dịch vụ của doanh nghiệp. Thỏa thuận này sẽ
được các bên ghi nhận trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Thứ tư, nội dung của mua bán doanh nghiệp là yếu tố chuyển giao
quyền sở hữu, quyền kiểm soát hoặc chi phối đối với đối tượng được giao
dịch đã đề cập phía trên. Theo đó, để có được quyền hạn này Bên mua phải
trả các chi phí cho phần cổ phiếu, vốn góp có được, thương hiệu, mạng lưới
khách hàng, bí mật công nghệ, máy móc, nhà xưởng….chi phí này đôi khi
còn bao gồm cả chi phí để có được quyền kiểm soát, chi phối một phần doanh
nghiệp mục tiêu.



18

Thứ năm, hoạt động mua bán doanh nghiệp tạo ra giá trị cộng hưởng
mà theo đó các yếu tố về quản trị, nguồn vốn, chiến lược của Bên mua và Bên
bán sẽ được kết hợp và tạo ra giá trị lớn hơn giá trị riêng rẽ của mỗi bên trước
khi thực hiện giao dịch. Một thương vụ mua bán doanh nghiệp đích thực sẽ
cứu vãn các doanh nghiệp Việt Nam khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán
hay tăng trưởng chậm do có kinh nghiệm quản lý và kinh nghiệm phát triển
kinh doanh của các nhà ĐTNN. Đồng thời, các nhà ĐTNN cũng có được cơ
sở hạ tầng từ doanh nghiệp mục tiêu của các nhà đầu tư Việt Nam.
Thứ sáu, mua bán doanh nghiệp được thực hiện bằng hợp đồng. Hợp
đồng mua bán doanh nghiệp, với tính chất phức tạp của giao dịch, thường
được lập bằng văn bản dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Đây là loại hợp
đồng có tính chất song vụ quy định về các quyền và nghĩa vụ tương ứng của
các bên. Do đây là hợp đồng mua bán doanh nghiệp, các điều khoản trong
hợp đồng sẽ chú trọng vào việc xác định giá trị, khả năng rủi ro của doanh
nghiệp, các bảo đảm và việc chuyển giao nghĩa vụ khi hoàn thành giao dịch,
thanh toán...
Thứ bảy, một giao dịch thành công sẽ làm thay đổi chủ sở hữu đối với
toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp. Doanh nghiệp mục tiêu có thể được tiếp
tục kinh doanh với tên đăng ký và loại hình vốn có hoặc được khai sinh với
tên và loại hình doanh nghiệp mới. Đối với mua bán một phần doanh nghiệp,
chủ sở hữu mới cũng tiến hành đăng ký đối với từng loại tài sản tương tự mà
pháp luật quy định.
Với những đặc điểm nói trên, những hoạt động đơn thuần mua bán tài
sản doanh nghiệp như nhà xưởng, máy móc để phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của Bên mua mà không liên quan đến công việc kinh doanh hoặc quản
lý của Bên bán thì giao dịch này chỉ là mua bán tài sản thông thường. Các
hoạt động đầu tư tài chính (đầu tư cổ phần nhỏ lẻ) chỉ nhằm mục đích sinh lời



19

hiện tại mà không chú trọng đến hoạt động đầu tư cổ phần, vốn góp gắn với
sự thay đổi tích cực về mặt chiến lược và quán trị điều hành cũng không được
gọi là mua bán doanh nghiệp. Điều 17 Khoản 3 Luật Cạnh tranh 2004 đã quy
định “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một
phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc
một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại” có đề cập đến yếu tố giá trị của
tài sản đủ để chi phối, kiểm soát một ngành nghề, hoặc toàn bộ doanh nghiệp
phù hợp với những đặc điểm về mua bán doanh nghiệp nêu trên. Do vậy, dấu
hiệu về quyền kiểm soát, chi phối một phần, một ngành nghề hoặc toàn bộ
doanh nghiệp là yếu tố phân biệt mua bán tài sản thông thường với mua bán
doanh nghiệp.
♦ Phân loại mua bán doanh nghiệp
Với lý do hiện nay chưa có một văn bản nào quy định chính xác và
thống nhất về mua bán doanh nghiệp, việc phân loại dựa theo các tiêu chí về
đối tượng giao dịch, mối quan hệ giữa bên tiến hành mua bán, cấu trúc doanh
nghiệp sau mua bán mà có thể phân thành các như sau:
Theo đối tượng của giao dịch, mua bán doanh nghiệp được phân thành
mua bán toàn bộ hoặc mua bán một phần doanh nghiệp. Trong đó, mua bán
toàn bộ doanh nghiệp bao gồm mua bán toàn bộ vốn điều lệ và các tài sản và
có sự chuyển giao về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp từ Bên bán sang
Bên mua trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác [12, Đ10]. Khi ấy, Bên
mua sẽ là chủ sở hữu mới của doanh nghiệp mục tiêu. Mua bán một phần
doanh nghiệp được hiểu là mua bán cổ phiếu, phần vốn góp, các tài sản khác
của doanh nghiệp mà kết quả của thương vụ đó Bên mua có quyền hạn nhất
định đối với một bộ phận, ngành nghề của doanh nghiệp mục tiêu. Bên mua
sẽ cùng Bên bán quản lý các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mục tiêu
tùy vào sự thỏa thuận của các bên.



×