Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật điều chỉnh người đại diện vốn của tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.86 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN VỐN
CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH
VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN VÀ CAM ĐOAN
Sau khi kết thúc chương trình Cao học tại Trường Đại học Luật Hà Nội,
được sự quan tâm và giúp đỡ của các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy cũng như
trong bộ môn Pháp luật kinh tế, trải qua một quá trình tìm tòi nghiên cứu em đã
hoàn thành xong luận văn Thạc sĩ luật học.
Qua luận văn này em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô đặc biệt
là TS. Vũ Đặng Hải Yến - người đã luôn quan tâm, giúp đỡ tận tình trong những
ngày em bắt đầu tìm hiểu đề tài cho đến lúc em hoàn thành xong công trình nghiên


cứu.
Đồng thời, qua đây, em cũng xin cam đoan tác phẩm này là công trình
nghiên cứu của bản thân và chưa từng được công bố trước đây.
Do thời gian tìm hiểu chưa nhiều, kiến thức còn chưa thật sâu rộng, công
trình không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy, cô xem xét để em
có thể hoàn thiện thêm kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN VÀ CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH
DOANH VỐN NHÀ NƯỚC & NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA TỔNG CÔNG TY
ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN TẠI DOANH NGHIỆP ............................... 5
1.1 Tổng quan về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) . 5
1.1.1 Các cơ sở hình thành của SCIC............................................................. 5
1.1.1.1 Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 5
1.1.1.2 Cơ sở pháp lý......................................................................................... 7
1.1.2 Sự ra đời và đặc điểm của SCIC ............................................................ 8
1.1.3 Vai trò của SCIC .................................................................................. 13
2.1 Người đại diện vốn của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước tại doanh nghiệp ...................................................................................... 16
2.2.1 Cơ sở lý luận của sự ra đời chế định Người đại diện vốn………….…16
2.2.2 Khái niệm, đặc điểm ............................................................................. 18
2.2.3 Vai trò của Người đại diện vốn nhà nước của Tổng công ty đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước .............................................................................. 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN VỐN CỦA TỔNG CÔNG TY
ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP. 23
2.1 Nguyên tắc và hình thức ủy quyền Người đại diện ................................. 24
2.2 Tiêu chuẩn Người đại diện ....................................................................... 29
2.3 Quyền và nghĩa vụ của Người đại diện .................................................... 36
2.3.1 Quyền được tham gia ứng cử và bầu vào Hội đồng quản trị, Hội đồng
thành viên hoặc Ban kiểm soát của Người đại diện ....................................... 36
2.3.2 Quyền tham gia biểu quyết các vấn đề trong doanh nghiệp có vốn nhà
nước mà Người đại diện được ủy quyền ........................................................ 37
2.3.3 Cơ chế thông tin giữa SCIC và Người đại diện ................................... 42


2.3.4 Chế độ lương, thưởng và các quyền lợi khác đối với Người đại diện .. 44
2.3.5 Chế độ bồi thường vật chất và trách nhiệm kỷ luật đối với Người đại
diện .............................................................................................................. 50
2.4 Đánh giá Người đại diện ........................................................................... 54
2.5 Thôi làm Người đại diện và chấm dứt ủy quyền Người đại diện ............ 57
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
NGƯỜI ĐẠI DIỆN VỐN CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH
DOANH VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP ........................................ 59
3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về Người đại diện vốn của Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp ...................... 59
3.2 Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về Người đại diện vốn của
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp ............. 62
3.2.1 Cần quy định cụ thể các hình thức ủy quyền đại diện vốn nhà nước cho
Người đại diện ................................................................................................ 62
3.2.2 Điều chỉnh lại việc áp dụng luật cán bộ, công chức cho Người đại diện
một cách phù hợp hơn .................................................................................... 63
3.2.3 Phân định rõ trường hợp phải xin ý kiến chỉ đạo của Người đại diện đối
với từng loại doanh nghiệp ............................................................................. 64

3.2.4 Cần quy định một tỷ lệ cụ thể chế độ thưởng, phụ cấp cho Người đại
diện .............................................................................................................. 65
3.2.5 Phân định rõ mức độ của các tiêu chí trong hoạt động đánh giá Người
đại diện ........................................................................................................... 66

LỜI KẾT ..............................................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. BKS: Ban kiểm soát
2. CTCP: Công ty cổ phần
3. HĐQT: Hội đồng quản trị
4. HĐTV: Hội đồng thành viên
5. SCIC: Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước


1

LỜI MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài: Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
(SCIC) là mô hình quản lý vốn nhà nước tập trung khác biệt với mô hình quản lý
thông qua các bộ, ngành, địa phương mang tính chất hành chính trước đây. Trong
những năm đầu hoạt động, SCIC đã đạt được những thành tựu nhất định. Đặc biệt
trong những năm nền kinh tế thế giới đang chìm trong khủng hoảng và suy thoái
SCIC vẫn có những đường hướng đúng đắn đưa một số doanh nghiệp mà SCIC
quản lý vốn đại diện nhà nước phát triển, tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Đặc biệt trong năm 2011, con số đó đạt trên 20%, một số doanh nghiệp đạt tỷ suất

lợi nhuận vốn chủ sở hữu trên dưới 60% (CTCP FPT - 200%, CTCP Vận tải Biển
và Xuất nhập khẩu Quảng Ninh - 135%, CTCP Du lịch Việt Nam tại TPHCM 116%, CTCP Cơ khí Khoáng sản Hà Giang - 76%, CTCP Xây dựng và Phát triển
đô thị Tây Ninh - 68%, CTCP Điện tử - Ảnh màu Nha Trang - 62%, CTCP Viễn
thông FPT - 61%) [17].
Để đạt được những thành tựu đó, có vai trò rất lớn của những Người đại diện
vốn của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn tại doanh nghiệp. Họ là những đầu
mối thông tin, tạo ra cơ chế phối hợp một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất giữa
SCIC với doanh nghiệp. Tuy nhiên, với phương pháp quản lý này, SCIC trở nên thụ
động hơn khi phải phụ thuộc hoàn toàn vào thông tin mà Người đại diện cung cấp.
Chính vì thế, nếu như không có cơ chế phối hợp nhịp nhàng, không có những quy
định chặt chẽ để xác định rõ trách nhiệm của Người đại diện sẽ dễ dẫn đến mối
quan hệ giữa SCIC và Người đại diện trở nên lỏng lẻo, vốn đầu tư của nhà nước
không được đảm bảo để bảo toàn và phát triển.
Bên cạnh đó, những quy định hiện nay của pháp luật về Người đại diện vốn
của SCIC khi đưa vào áp dụng trong thực tiễn cũng đã bộc lộ những thiếu sót và sự
bất hợp lý nhất định ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của phương pháp quản
lý này.
Chính vì thế, dưới góc độ của người học luật và nghiên cứu pháp luật, mong
muốn tìm hiểu chuyên sâu và đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về cơ


2

chế quản lý vốn nhà nước trên, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh
Người đại diện vốn của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn tại doanh
nghiệp”.
Tình hình nghiên cứu đề tài: Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà
nước là một mô hình ra đời trên cơ sở sự học tập mô hình Temasek Holdings của
Singapore. Ngay từ khi chuẩn bị ra đời nó đã nhận được sự quan tâm tìm hiểu của
không ít học giả trong nhiều lĩnh vực. Về lĩnh vực pháp lý, có thể kể đến một số

công trình tiêu biểu như bài luận “Bản chất của cơ chế thực thi quyền đại diện chủ
sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung
đăng trên tạp chí luật học số 7/2009; Hay bài viết “Cơ chế quản lý tài chính của
tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước” của Phạm Thị Hương đăng trên
tạp chí Quản lý Nhà nước Số 202(11/2012). Nhà nghiên cứu luật học Lê Thị Thanh
cũng có một bài viết đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật có tựu đề “Hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước”. Và còn một số các công trình nghiên cứu khác của các học giả xoay quanh
phạm vi Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước SCIC.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chỉ dừng lại ở phạm vi rộng như
nghiên cứu toàn bộ quy định của pháp luật về hoạt động của SCIC hay cũng nghiên
cứu một mảng nhỏ nhưng chỉ mới tập trung vào các vấn đề như cơ chế quản lý tài
chính, bản chất đại diện vốn của SCIC. Chính vì thế với đề tài “Pháp luật điều
chỉnh Người đại diện vốn của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn tại doanh
nghiệp” tác giả mong muốn nghiên cứu một cách tập trung chủ thể Người đại diện
vốn của SCIC để làm rõ cơ chế quản lý vốn gần như chủ yếu hiện nay của SCIC có
hoạt động hiệu quả. Từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện cơ chế này để góp
phần “bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước”.
Phạm vi nghiên cứu cứu đề tài: Với đề tài trên, tác giả tập trung nghiên cứu
các quy định của pháp luật về Người đại diện vốn hiện nay được quy định trong
Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ về phân công, phân
cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với
doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là


3

Nghị định số99/2012/NĐ-CP) ; Thông tư số 117/2010/TT-BTC ngày 05/8/2010 của
Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu (sau đây gọi tắt là Thông tư số

117/2010/TT-BTC). Đặc biệt tác giả còn có sự liên hệ trực tiếp với Quy chế người
đại diện vốn nhà nước ban hành theo Quyết định số 06/QĐ-ĐTKDV.HĐTV ngày
06 tháng 02 năm 2013 của Hội đồng thành viên Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn nhà nước (sau đây gọi tắt là Quy chế người đại diện 2013) và các văn bản liên
quan dưới góc độ xem xét thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về Người
đại diện vốn. Đồng thời, tác giả còn có sự đối chiếu với hoạt động của Người đại
diện tại các doanh nghiệp mà SCIC cử đại diện từ 2009 đến nay.
Phương pháp và nội dung nghiên cứu đề tài: Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, ngoài việc sử dụng các biện pháp nghiên cứu chung mang tính định
hướng như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề
thì tác giả còn sử dụng một loạt các biện pháp khoa học khác. Cụ thể:
Chương I: Tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê và phân tích để làm rõ các
khái niệm Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước, Người đại diện của Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các đặc điểm của
hai khái niệm trên. Đồng thời bằng phương pháp phân tích và chứng minh, tác giả
cũng làm rõ vai trò của SCIC cũng như người đại diện của Tổng công ty này.
Chương II: Tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê, phân tích để làm rõ
những quy định hiện nay của pháp luật về Người đại diện vốn. Đồng thời bằng
phương pháp so sánh, chứng minh tác giả cũng làm rõ những điểm mạnh và những
điểm còn tồn tại hiện nay về pháp luật Người đại diện vốn.
Chương III: Bằng phương pháp phân tích và tổng hợp, tác giả đã đưa ra một
số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về Người đại diện vốn.
Cơ cấu của đề tài: Với nội dung như đã trình bày ở trên, đề tài được chia
làm 3 chương chính như sau:
Chương I: Khái quát về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
& Người đại diện của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn tại doanh nghiệp


4


Chương II: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về
Người đại diện của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn tại doanh nghiệp
Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về Người đại
diện của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn tại doanh nghiệp


5

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH
DOANH VỐN NHÀ NƯỚC & NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA TỔNG CÔNG TY
ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN TẠI DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)
1.1.1 Các cơ sở hình thành của SCIC
1.1.1.1Cơ sở thực tiễn
Nền kinh tế thế giới luôn vận động và biến đổi không ngừng. Ở một giai
đoạn nhất định, phụ thuộc vào những đặc điểm riêng, có những mô hình kinh tế tài
chính lại tỏ ra ưu việt hơn so với những mô hình kinh tế tài chính khác và ngược lại.
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế thế giới đánh dấu sự ra đời và phát triển của
những nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là một số nước ở khu vực châu Á và Mỹ La
Tinh, các chuyên gia kinh tế đánh giá một trong ba mô hình tài chính được xem là
có khả năng chi phối trong tương lai là Sovereign Wealth Fund – các quỹ tài chính
hình thành dựa trên tài sản dự trữ của quốc gia, không tham gia thị trường chứng
khoán. Mô hình này ra đời do hiện tượng bùng nổ của cải trong vài thập niên qua
nên tài sản của nhiều quốc gia (đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi) tăng vọt. Khác
với thông lệ cũ, tiền bạc dư thừa thường được đổi thành kim loại quý như vàng hay
ngoại tệ mạnh rồi cất trong ngân khố phòng khi "hoạn nạn", thường gọi là dự trữ
quốc gia, thì nay các quốc gia đã thành lập các quỹ nhằm kinh doanh khai thác
nguồn dự trữ đó, hoặc gây ảnh hưởng kinh tế, chính trị phục vụ các mục tiêu quốc
gia... Các quỹ này hoạt động như các quỹ đầu tư tài chính. Tính đến năm 2007, trên
thế giới đã có nhiều quốc gia có giá trị quỹ này trên 20 tỷ đô la. Điển hình như:

1/Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất với Quỹ ADIA, trị giá 875 tỷ; 2/ Singapore:
Quỹ GIC (Goverment of Singapore Corp), trị giá 330 tỷ; và Temasek, trị giá 100 tỷ;
3/ Ả Rập Saudi: Với nhiều quỹ khác nhau, trị giá 300 tỷ;…….. [18]
Bắt kịp xu thế chung của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng vận dụng mô
hình Sovereign Wealth Fund và đưa nó vào hoạt động trong thực tiễn. Tuy nhiên,
mô hình mà Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước được trực tiếp căn cứ
vào để xây dựng và học hỏi là mô hình Tập đoàn Temasek Holdings của Singapore


6

– một loại quỹ Sovereign Wealth Fund. Temasek là một công ty tư nhân thành lập
vào ngày 25 tháng 6 năm 1974 và thuộc sở hữu của Bộ Tài chính Singapore . Công
ty này sở hữu và quản lý tài sản dựa trên nguyên tắc thương mại, cụ thể hơn là Luật
công ty Singapore. Theo Hiến pháp và pháp luật của Singapore, Tổng thống cũng
như Chính phủ không được tham gia vào các quyết định đầu tư của Temasek, ngoại
trừ liên quan đến việc bảo vệ dự trữ quá khứ của công ty này. Mọi hoạt động của
Temasek chỉ tuân theo quyết định của Hội đồng quản trị công ty. Hoạt động chính
của Temasek đầu tư, kinh doanh và thoái vốn, trong đó Temasek hình thành danh
mục đầu tư bằng cách tăng, giữ hoặc giảm cổ phần đầu tư và tham gia vào doanh
nghiệp được đầu tư với tư cách cổ đông. Temasek không trực tiếp ra quyết định cho
hoạt động của công ty đầu tư mà thực hiện thông qua quyền cổ đông bằng cách biểu
quyết tại cuộc họp cổ đông. Để thực hiện quyền cổ đông đó, Temasek sẽ tiến hành
ủy quyền cho một số cá nhân có năng lực và đạt yêu cầu mà Temasek đề ra. [ ]
Như vậy, hoạt động đầu tư của Temasek hoàn toàn mang tính thương mại, tách rời
cơ chế quản lý hành chính của nhà nước mang tính chất áp đặt. Đồng thời, vị thế
của Temasek khi tham gia đầu tư vào doanh nghiệp cũng không có bất cứ sự ưu tiên
nào mà hoàn toàn ngang bằng với các cổ đông khác. Điều này tạo nên một cơ chế
công bằng, làm tăng sự hấp dẫn đầu tư của công ty này.
Với mô hình quản lý vốn ưu việt như trên, Temasek đã đạt được những thành

tựu nhất định. Tính đến năm 2009, Temasek đã có hơn 170.000 nhân viên với 32
công ty con, trong đó 9 công ty ở nước ngoài. Trong nước, Temasek nắm giữ
khoảng 1/5 tổng giá trị thị trường chứng khoán nội địa. Trong số 10 công ty niêm
yết lớn nhất của Singapore thì Temasek kiểm soát tới 7 công ty. Tập đoàn này đang
là cổ đông lớn nhất của Singapore Airlines – một trong những hãng hàng không
hàng đầu thế giới. Ngoài ra, trong danh sách địa chỉ đầu tư của Temasek còn có rất
nhiều tập đoàn công nghiệp và dịch vụ lớn khác như Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông Sing Tel, Tập đoàn Kinh tế CMS, Tập đoàn Keppel hay Ngân hàng DBS, Tập
đoàn Điện lực Singapore Power… Các công ty có Temasek là cổ đông đóng góp
hơn 15% GDP của cả nước. Cụ thể, từ số vốn ban đầu 354 triệu đôla Singapore
nhận từ Bộ Tài chính, sau hơn 30 năm, hiện tổng giá trị danh mục đầu tư ròng của


7

Temasek đạt 164 tỷ đôla Singapore [19]. Đây là một mức tăng trưởng mơ ước
nhưng không dễ thực hiện đối với hầu hết các quỹ đầu tư trên thế giới.
Vì vậy, bên cạnh những điểm tương đồng nhất định về điều kiện kinh tế giữa
Singapore và Việt Nam như thành phần kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, một
trong những lý do quan trọng khác để Việt Nam tham khảo mô hình Temasek, xây
dựng mô hình tài chính của riêng mình là xuất phát từ tham vọng đạt được những
thành công như công ty này. Do đó, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập
một mô hình tài chính tương tự có tên là Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước.
1.1.1.2 Cơ sở pháp lý
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước được ra đời dựa trên Quyết
định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành
lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước. Tiếp đó, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 152/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 về phê duyệt
điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước

để tạo cơ sở pháp lý cho việc hoạt động của tổng công ty này. Lúc mới ra đời và đi
vào hoạt động, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước còn chịu sự điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003, được hưởng những ưu đãi nhất định
đối với một doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, sau năm 2010, Luật Doanh nghiệp
nhà nước 2003 hết hiệu lực, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước chịu
sự điều chỉnh chung của Luật doanh nghiệp 2005, Luật đầu tư 2005 với tư cách
pháp lý độc lập và ngang bằng với bất cứ doanh nghiệp nào khác hoạt động theo các
luật này.
Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 09/2009/NĐ-CP ngày 5/2/2009 quy
định về Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước
đầu tư vào doanh nghiệp khác và Thông tư số 117/2010/TT-BTC hướng dẫn cơ chế
tài chính của công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu. Các văn
bản này đã góp phần tạo nên khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động tài chính
của các doanh nghiệp nhà nước nói chung và SCIC nói riêng. Đến năm 2010, để
phù hợp với quy định tại Nghị định số 25/2010/NĐ-CP của Chính phủ Về chuyển


8

đổi công ty Nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức
quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 992/QĐ-TTg ngày 30/6/2010 về
việc chuyển Công ty Đầu tư SCIC thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Đây cũng là một căn cứ pháp lý quan trọng cho
tổ chức cũng như hoạt động của SCIC.
Bên cạnh những văn bản pháp lý trên, trong thẩm quyền của mình, Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước cũng đã ban hành một số văn bản pháp
lý khác mang tính nền tảng như Quy chế người đại diện vốn nhà nước ban hành
theo Quyết định số 20/QĐ-ĐTKDV.HĐQT ngày 09/6/2009 của Hội đồng quản trị
Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước nay đã được thay thế bởi Quy chế

người đại diện vốn mới ban hành kèm quyết định số 06/QĐ-ĐTKDV.HĐTV ngày
06/02/2013 của Hội đồng quản trị Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Các văn bản trên không chỉ là cơ sở pháp lý cho sự ra đời của Tổng công ty
đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước mà còn là khung pháp lý cơ bản để SCIC có thể
tiến hành các hoạt động của mình một cách chuyên nghiệp và chặt chẽ nhất.
1.1.2 Sự ra đời và đặc điểm của SCIC
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ra đời trong bối cảnh khá
đặc biệt, đó là lúc cơ chế các bộ, ngành, địa phương là cơ quan chủ quản đối với
doanh nghiệp nhà nước đang bộc lộ những mặt trái nhất định. Cơ chế hành chính
chủ quản có nguồn gốc hình thành từ quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa
sang nền kinh tế thị trường, theo đó, doanh nghiệp nhà nước từ chỗ là những đơn vị
được nhà nước cấp phát vốn giao chỉ tiêu kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh
sang cơ chế hạch toán kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đồng thời, với quá
trình này, cơ quan hành chính cấp trên của doanh nghiệp không can thiệp trực tiếp
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng vẫn nắm giữ vai trò “chủ quản”
về hai phương diện: chủ quản hành chính và đại diện chủ sở hữu nhà nước [ ].
Chính vì thế, mặc dù thực hiện cơ chế hoạch toán tự chủ nhưng đội ngũ quản lý vốn
ở những doanh nghiệp nhà nước trực thuộc bộ, ngành, địa phương này vẫn mang
nặng tư tưởng quan liêu, trì trệ của nền kinh tế bao cấp. Điều này khiến cho hiệu


9

quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa
bảo đảm được việc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, gây thất thoát lãng phí.
Trước thực tế đó, nhu cầu xây dựng một mô hình quản lý vốn nhà nước hiệu quả
được đặt ra đối với Chính Phủ Việt Nam. Qua quá trình tìm hiểu và rút kinh nghiệm
từ mô hình Temasek Holdings của Singapore, ngày 20/6/2005 Thủ tướng Chính phủ
đã ký Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và
Kinh doanh vốn Nhà nước. Tại Điều 2 Quyết định này, SCIC được định nghĩa như

sau: “Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (sau đây gọi tắt là Tổng
công ty) là một tổ chức kinh tế đặc biệt của nhà nước, hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp nhà nước và các luật khác có liên quan.
Tổng công ty có tư pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, có con dấu riêng,
được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại trong nước,
nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Tổng công ty có trụ sở chính đặt tại thành phố Hà Nội và có các công ty
thành viên, chi nhánh, văn phòng đại diện tại một số khu vực trong nước và ngoài
nước”.
Khái niệm trên đã lãm rõ loại hình tổ chức, tư cách pháp nhân và luật điều
chỉnh SCIC. Đó cũng chính là những đặc điểm cơ bản của SCIC.
Thứ nhất, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là một tổ
chức kinh tế đặc biệt của nhà nước.
Không giống những cơ quan khác do nhà nước lập ra nhằm thực hiện các
chức năng quản lý, điều tiết kinh tế - xã hội, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước được khẳng định ngay từ đầu là một tổ chức kinh tế. Điều này có nghĩa
hoạt động chủ yếu của tổ chức này là hoạt động kinh doanh – hoạt động có tính chất
nghề nghiệp, được tiến hành thường xuyên và có mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên,
SCIC không phải là một tổ chức kinh tế đơn thuần, bình thường như bất cứ một tổ
chức kinh tế nào khác mà nó là một tổ chức “kinh tế đặc biệt”. Tính chất đặc biệt
của nó được thể hiện ở những điểm sau:
Một là, SCIC là một tổ chức kinh tế với chức năng chính là đại diện quản lý
vốn nhà nước. Cụ thể hơn, SCIC không hoạt động kinh doanh dựa trên vốn tự có


10

mà chỉ là “thay mặt” cho chủ sở hữu - nhà nước để thực hiện chức năng này. Theo
Quyết định 151/2005/QĐ-TTg số vốn điều lệ của SCIC là 5000 tỷ và trong dự thảo
mới nhất con số đó lên tới 50.000 tỷ. Tương tự như chế định “đại diện” trong Bộ

luật dân sự, SCIC trong trường hợp này đã được nhận ủy quyền từ nhà nước, phạm
vi ủy quyền của SCIC được ghi nhận trong chính Điều lệ của SCIC.
Hai là, bên cạnh việc đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu SCIC còn thưc
hiện những chức năng xã hội nhất định. Chức năng đó là điều tiết nền kinh tế, phát
huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, duy trì sự chi phối của kinh tế nhà
nước đối với một số ngành và lĩnh vực nhất định. Sở dĩ có thể khẳng định được như
vậy vì một trong những chức năng, nhiệm vụ chính của SCIC là đầu tư vào những
ngành, lĩnh vực quan trọng mà nhà nước cần chi phối để thành lập doanh nghiệp
mới (điểm a khoản 3 Điều 3 Quyết định 151/2005/QĐ-TTg) và Thực hiện việc đầu
tư và quản lý vốn đầu tư của Tổng công ty vào các lĩnh vực, ngành kinh tế quốc dân
theo nhiệm vụ Nhà nước giao (khoản 3 Điều 3 Quyết định 151/2005/QĐ-TTg). Như
vậy, đặc điểm này có sự tương đồng nhất định với các doanh nghiệp nhà nước thông
thường khác.
Ba là, hoạt động chính của SCIC là đầu tư và kinh doanh vốn. Không giống
như bất cứ một doanh nghiệp thông thường khác, hoạt động chủ yếu của nó là để
tạo ra một loại hàng hóa hoặc cung ứng một dịch vụ nhất định. Nghiệp vụ chủ yếu
của SCIC là kinh doanh, đầu tư thông qua việc góp vốn, trở thành đại diện cổ đông
nhà nước. Không chỉ có hoạt động đầu tư, góp vốn, SCIC được quyền thoái vốn –
bán cổ phần, chuyển nhượng phần vốn góp trở lại thành tiền tệ đối với những doanh
nghiệp nhà nước không cần nắm vai trò chủ đạo. Đây cũng chính là một trong
những nghiệp vụ kinh doanh vốn hiện nay của SCIC. Bên cạnh hoạt động chính
này, SCIC còn có một số hoạt động đầu tư khác như đầu tư gián tiếp trên thị trường
vốn, thị trường chứng khoán thông qua việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các
công cụ tài chính khác; Cung cấp các dịch vụ tài chính: tư vấn đầu tư, tư vấn tài
chính, tư vấn cổ phần hoá, tư vấn chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; nhận uỷ thác
các nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước…


11


Thứ hai, Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước là một doanh
nghiệp. Cụ thể hơn theo quy định của Nghị định số 25/2010/NĐ-CP của Chính phủ
Về chuyển đổi công ty Nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu và Quyết định số 992/QĐ-TT ngày 30/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
về việc chuyển Công ty Đầu tư SCIC thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do Nhà nước làm chủ sở hữu thì loại hình doanh nghiệp hiện tại của SCIC là
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như vậy, điều này có nghĩa SCIC sẽ
mang tất cả các đặc điểm của một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
thông thường.
Một là, do một chủ thể làm chủ sở hữu. Khoản 1 Điều 4 Quyết định
151/2005/QĐ-TTg quy định rõ:
1. Vốn điều lệ ban đầu: 5.000 (năm nghìn) tỷ đồng, bao gồm:
a) Vốn ngân sách nhà nước cấp: 1.000 (một nghìn) tỷ đồng theo Quyết định số
92/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ;
b) Vốn tiếp nhận từ các công ty quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định này tại thời
điểm thành lập Tổng công ty (công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành
viên, công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, công ty cổ phần được
chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc lập hoặc mới thành lập).
Điểm đặc biệt của SCIC là một phần vốn điều lệ của Tổng công ty này lại
không trực tiếp được cấp phát mà lại tiếp nhận từ các doanh nghiệp có vốn nhà
nước. Tuy nhiên về sâu xa toàn bộ vốn điều lệ của SCIC đều xuất phát từ ngân sách
nhà nước. Do đó, chủ sở hữu duy nhất của SCIC chính là nhà nước.
Hai là, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi vốn điều lệ của công ty. Điều này có nghĩa, trong trường hợp
SCIC kinh doanh thua lỗ, có bất cứ khoản nợ nào vượt quá vốn điều lệ thì SCIC
cũng chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn điều lệ đã đăng ký.
Ba là, có tư cách pháp nhân. SCIC đáp ứng tất cả các quy định tại Điều 84 Bộ
luật dân sự:



12

- Ðược thành lập hợp pháp: Như đã nhắc đến ở trên, SCIC được thành lập bởi
Quyết định số 151/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng chính phủ. Quyết định này chính
là căn cứ pháp lý rõ ràng nhất ghi nhận sự ra đời hợp pháp của SCIC.
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ: SCIC được tổ chức dưới hình thức Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Căn cứ vào chương III Điều lệ doanh nghiệp ban
hành kèm theo Quyết định 152/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, bộ máy tổ
chức của SCIC bao gồm Hội đồng quản trị (nay là Hội đồng thành viên); Ban kiểm
soát; Tổng giám đốc; Phó tổng giám đốc; Kế toán trưởng; Bộ máy giúp việc. Ngoài
ra công ty còn được phép thành lập các công ty thành viên, chi nhánh và văn phòng
đại diện của Tổng công ty theo quy định chung của pháp luật. Mỗi chức danh đều
được quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quy trình bổ nhiệm cũng như bãi
miễn. Đồng thời Điều lệ SCIC cũng quy định rất rõ cơ chế giám sát lẫn nhau giữa
các cơ quan trong Tổng công ty tạo nên một cơ cấu hết sức chặt chẽ.
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó: tại Khoản 1 Điều 4 Quyết định 151/2005/QĐ-TTg và Khoản 1 Điều 3 Quyết
định 152/2005/QĐ-TTg có quy định rõ vốn điều lệ của SCIC là 5000 tỷ đồng. SCIC
lại được tổ chức dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Đối
với hình thức này pháp luật quy định rõ công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn điều lệ của mình.
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập: Theo quy
định của pháp luật, SCIC có con dấu riêng, được mở tài khoản ngân hàng để thực
hiện các giao dịch. Ngoài ra, các hoạt động của SCIC thực hiện chỉ phát sinh quyền
và nghĩa vụ cho SCIC mà không cho bất cứ một chủ thể pháp lý nào khác.
Bốn là, không được phát hành cổ phần. Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn
với đặc thù một chủ sở hữu nên pháp luật đã hạn chế quyền được phát hành cổ phần
của loại hình doanh nghiệp này nói chung và SCIC nói riêng để đảm bảo sự tồn tại
của hình thức này. Đặc biệt đối với SCIC không chỉ là một tổ chức kinh tế đơn

thuần mà là một tổ chức kinh tế đặc biệt của nhà nước, được thành lập còn nhằm
củng cố vị trí, vai trò của nền kinh tế nhà nước. Chính vì thế việc duy trì chủ sở hữu
duy nhất – nhà nước là cần thiết. Tuy nhiên, pháp luật lại cho phép SCIC phát hành


13

trái phiếu (Khoản 4 Điều 3 Quyết định 151/2005/QĐ-TTg) như là một phương thức
huy động vốn.
Thứ ba, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước hoạt động chịu
sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật liên quan. Đặc
điểm này là hệ quả tất yếu của đặc điểm thứ hai. Do SCIC được tổ chức dưới hình
thức một doanh nghiệp do đó nó phải tuân theo quy định của Luật doanh nghiệp
2005 và các văn bản liên quan. Tuy nhiên, khi ra đời SCIC không tuân theo sự điều
chỉnh của văn bản này mà chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp nhà nước
2003. SCIC chỉ chịu chung sự điều chỉnh với các doanh nghiệp tư nhân khác đến
năm 2010, khi Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 hết hiệu lực. Việc chịu sự điều
chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005 và các văn bản liên quan có nghĩa SCIC phải
được tổ chức, hoạt động cũng như chịu sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của luật này.
Tóm lại, qua những đặc điểm trên cho thấy SCIC vừa mang những đặc điểm
chung của một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thông thường vừa mang
những đặc điểm đặc thù riêng, đặc trưng cho tính chất “tổ chức kinh tế đặc biệt” của
mình.
1.1.3 Vai trò của SCIC
Với chức năng quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, sự ra đời của
SCIC nằm trong tiến trình cải cách kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà
nước nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước. Cụ thể hơn, SCIC
được thành lập để thực hiện mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp theo nguyên tắc tách bạch chức năng quản lý nhà nước của các Bộ,

ngành, địa phương với chức năng đầu tư, kinh doanh vốn thông qua một tổ chức tài
chính chuyên nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả,
quyền tự chủ của doanh nghiệp phù hợp với Luật Doanh nghiệp, đồng thời tăng
cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 2006, SCIC quản lý danh mục
đầu tư gồm các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền
kinh tế như: dịch vụ tài chính, năng lượng, công nghiệp, viễn thông, xây dựng, vận


14

tải, hàng tiêu dùng, y tế, công nghệ thông tin… Thực hiện vai trò cổ đông năng
động, SCIC còn chủ động triển khai các hoạt động tái cơ cấu đối với một số doanh
nghiệp đặc biệt như: Vinaconex, Constrexim, Nhựa Tiền phong, Tổng công ty Ðiện
tử tin học (VEIC), Bảo Minh, Vinamilk, Công ty cổ phần du lịch Kim Liên,
Traphaco...; giúp doanh nghiệp tìm kiếm cổ đông chiến lược (Domesco; Bảo Minh;
Vinare; Muối Ninh Thuận); hỗ trợ doanh nghiệp xử lý các vấn đề bất cập về quản
trị, tài chính, đặc biệt là việc xử lý các khoản nợ xấu của doanh nghiệp như:
Vinaconex; Xuất nhập khẩu Tổng hợp II; Công ty Ðầu tư phát triển giao thông vận
tải...[20]
Nguồn thu được từ bán vốn và lợi nhuận qua các năm, SCIC đã tiến hành
đầu tư vào các doanh nghiệp/dự án thuộc ngành nghề lĩnh vực quan trọng của nền
kinh tế. Ngoài việc đầu tư hiện hữu khoảng 5.500 tỷ đồng (tăng vốn đối với các
doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ chi phối hoặc hoạt động có hiệu quả), SCIC đã
trực tiếp đầu tư vào các lĩnh vực như năng lượng, viễn thông, cảng biển... và tham
gia góp vốn thành lập doanh nghiệp mới với số vốn hơn 3.500 tỷ đồng. Sau sáu năm
hoạt động, các chỉ tiêu tài chính như doanh thu, lợi nhuận, tổng tài sản, vốn chủ sở
hữu của SCIC đều tăng trưởng với tốc độ khá. Tính đến ngày 30-9-2012, tổng tài
sản của SCIC tăng hơn chín lần so với năm 2006 (từ 5.900 tỷ đồng lên hơn 54.000
tỷ đồng) do tăng vốn chủ sở hữu, tập trung đôn đốc thu nợ Quỹ Hỗ trợ sản xuất

doanh nghiệp trung ương. Tổng nguồn vốn chủ sở hữu tăng gần bảy lần (từ 3.600 tỷ
đồng lên hơn 25.000 tỷ đồng) do bổ sung vốn điều lệ, lợi nhuận tích lũy thông qua
đầu tư kinh doanh, thặng dư bán vốn. Lợi nhuận sau thuế năm 2011 đạt hơn 2.900
tỷ đồng tăng gần 27 lần so với năm 2006. Chín tháng đầu năm 2012, lợi nhuận sau
thuế hơn 2.700 tỷ đồng, đạt 66% kế hoạch năm 2012, tăng 15% so cùng kỳ năm
2011. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước đầu tư tại SCIC năm 2011 đạt 17% [21].
Với những đóng góp to lớn đó, SCIC đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Lao động hạng ba.
SCIC ra đời là sự đáp ứng tốt nhất giữa yêu cầu quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp có vốn nhà nước và các đặc thù của nền kinh tế thị trường nhằm đảm
bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp này không quá khác biệt và chệch hướng


15

khỏi các nguyên tắc vận hành của nền kinh tế thị trường. Đó cũng là hệ quả tất yếu
vì hình thức “bộ chủ quản” trước đây ngày càng không phù hợp với sự phát triển
của các tổng công ty. Các tổng công ty càng ngày càng bành trướng sang các lĩnh
vực kinh doanh không thuộc thẩm quyền của bộ chủ quản, ví dụ tổng công ty Hàng
hải tham gia lĩnh vực ngân hàng; tổng công ty Điện lực “chen chân” vào lĩnh vực
bất động sản hay tổng công ty dầu khí bổ sung thêm một loạt các ngành nghề mới
khác xa nghiệp vụ chính như ngân hàng, bảo hiểm... Bên cạnh đó, bản thân các hoạt
động kinh doanh cốt lõi của các tổng công ty cũng phức tạp lên rất nhiều, đòi hỏi
phải có đội ngũ quản lý chuyên sâu chứ không phải các quan chức hành chính như
trước. Xét trong bối cảnh đó, SCIC ra đời là một bước tiến trong quản trị công ty,
hiểu theo nghĩa là quá trình giám sát và kiểm soát nhằm thực thi quản trị bảo đảm
lợi ích của các cổ đông, cho các tổng công ty.
Như vậy, qua các thành tựu mà SCIC đã đạt được trong những năm qua, có
thể tổng kết vai trò chủ chốt của SCIC:
Thứ nhất, là cổ đông năng động, tích cực của doanh nghiệp, góp phần đưa

ra những phương hướng hoạt động đúng đắn, tích cực góp phần đưa doanh nghiệp
phát triển. Bên cạnh đó, SCIC còn góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa cho các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đảm bảo và củng cố vai trò của nền kinh
tế nhà nước.
Thứ hai, là nhà đầu tư chiến lược có hiệu quả. Hiện nay, SCIC chú trọng
chú trọng đến phát triển bền vững và gia tăng giá trị công ty thông qua việc đầu tư
linh hoạt, chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng giảm đầu tư với số lượng lớn, phân
tán để tập trung, chú trọng vào chất lượng, quy mô và hiệu quả đầu tư. Đặc biệt,
SCIC đã đổi mới cơ chế đầu tư vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp, phù hợp
với cơ chế thị trường, chuyển từ cơ chế bao cấp về vốn (cấp vốn không hoàn lại)
sang hình thức đầu tư tài chính vào doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư của SCIC còn
góp phần tạo công cụ để đẩy nhanh quá trình cải cách sắp xếp và chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển.
Thứ ba, là một nhà tư vấn tài chính chuyên nghiệp, tin cậy. Điều này được
thể hiện rất rõ ở những thành tựu cổ phần hóa doanh nghiệp mà SCIC đã thực hiện


16

như đã trình bày ở trên. SCIC chính là cầu nối giúp nhà đầu tư trong và ngoài nước
tiếp cận với các dự án đầu tư; tư vấn giúp doanh nghiệp tìm kiếm đối tác chiến lược,
tiếp cận thị trường vốn, áp dụng các tiêu chí quản trị doanh nghiệp tốt nhất.
Với vai trò quan trọng như trên, việc xây dựng và củng cố sự lớn mạnh của
SCIC là rất cần thiết. Tuy nhiên, với đặc thù trong hoạt động – đầu tư và kinh doanh
vốn chủ yếu bằng việc góp vốn với các tổ chức kinh tế khác và đặc thù là một tổ
chức, việc thực hiện đại diện cổ đông, thành viên góp vốn của nhà nước sẽ khiến
SCIC gặp không ít khó khăn. Khó khăn thứ nhất đó là SCIC không thể trực tiếp
quản lý một số lượng các doanh nghiệp khổng lồ có vốn góp của nhà nước hiện nay.
Theo báo cáo tổng kết, đánh giá công tác đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp,
tính đến tháng 9/2012, SCIC đang thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà

nước tại 420 DN, trong đó có 412 công ty cổ phần, 3 công ty TNHH hai thành viên
trở lên và 5 công ty TNHH một thành viên với vốn nhà nước theo giá trị sổ sách là
13.928 tỷ đồng, giá thị trường ước đạt trên 40.000 tỷ đồng [22]. Khó khăn thứ hai,
nếu SCIC trực tiếp quản lý số vốn góp đó, hoạt động cũng không thể sâu sát với
doanh nghiệp, không thể kịp thời có những quyết sách đúng đắn. Chính vì thế, giải
pháp đặt ra đó là quản lý doanh nghiệp thông qua Người đại diện vốn.
2.1 Người đại diện vốn của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước tại doanh nghiệp
2.2 .1 Cơ sở lý luận cho sự ra đời của chế định Người đại diện
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước về bản chất chính là chủ
thể “Đại diện” vốn cấp một của Nhà nước. Về nguyên tắc SCIC sẽ tự mình thực
hiện quản lý và sử dụng số vốn đó trong phạm vi mà nhà nước ủy quyền và chỉ
được ủy quyền lại cho chủ thể khác khi được chủ sở hữu – Nhà nước đồng ý. Như
vậy, người đại diện vốn của Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước chính là người
đại diện cấp hai của Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng vốn Nhà nước. Dựa
trên nguyên tắc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự, SCIC có thể ủy quyền
toàn bộ hoặc một phần những quyền và nghĩa vụ mà Nhà nước đã ủy quyền cho
SCIC. Vậy tại sao SCIC lại tiến hành quản lý vốn tại doanh nghiệp thông qua cơ


17

chế “Người đại diện”. Có thể khẳng định, cơ sở sâu xa của việc áp dụng cơ chế
quản lý vốn này xuất phát từ lý luận về chủ sở hữu.
Đối với tài sản, chủ sở hữu là người có quyền quyết định cao nhất, bao gồm
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Người sở hữu tài sản sẽ được hưởng những
lợi ích nhất định mà tài sản đó mang lại chính vì thế họ không dễ trao quyền sở hữu
tài sản đó cho người khác. Đối với các chủ thể có nguồn vốn lớn và đầu tư trong
nhiều lĩnh vực như Nhà nước, việc tự mình thực hiện quản lý và đầu tư vốn để
mang lại hiệu quả kinh tế một cách tốt nhất là điều không phải dễ dàng. Chính vì

thế, việc cần đến một tổ chức chuyên nghiệp, hiểu biết chuyên sâu về kinh tế để
quản lý vốn đầu tư có hiệu quả là một việc hết sức cần thiết. Nhưng cần phải thông
qua cơ chế nào để Nhà nước có thể vận dụng sự quản lý và đầu tư vốn hiệu quả của
tổ chức chuyên nghiệp đó mà không phải chuyển giao quyền sở hữu vốn. Trong các
cơ chế hiện hành, có lẽ không có cơ chế nào tỏ ra hiệu quả bằng cơ chế đại diện.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và SCIC có thể thấy rõ điều này. SCIC có thể
được trao quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc thậm chí là định đoạt tài sản mà Nhà
nước giao nhưng chỉ trong phạm vi mà Nhà nước cho phép và Nhà nước luôn tạo cơ
chế để kiểm soát các hoạt động của SCIC liên quan đến nguồn vốn đó. Nhà nước
không mất đi quyền sở hữu tối cao mặc dù đã giao nguồn vốn của mình cho SCIC
quản lý và đầu tư.
Mối quan hệ giữa SCIC và Người đại diện vốn của nó lại càng thể hiện rõ
điều này. Bản thân SCIC không là chủ sở hữu của nguồn vốn mà nhà nước giao cho
nó. Chính vì thế, việc chuyển giao hoàn toàn quyền sở hữu nguồn vốn này sang cho
một chủ thể khác là điều hoàn toàn không thể. SCIC mặc dù là tổ chức kinh tế kinh
doanh và đầu tư vốn mang tính chất chuyên nghiệp, tuy nhiên việc tự mình quản lý
vốn ở hơn 400 doanh nghiệp, ở nhiều lĩnh vực khác nhau là một công việc không
phải đơn giản, bắt buộc SCIC phải thực hiện qua một cơ chế trung gian khác. Cơ
chế trung gian đó phải chịu sự giám sát chặt chẽ của SCIC, thực hiện trong phạm vi
SCIC cho phép. Và cơ chế tỏ ra hiệu quả, đáp ứng được tất cả các yêu cầu đó chính
là “Người đại diện của SCIC tại doanh nghiệp”.


18

2.2.2 Khái niệm, đặc điểm
Khái niệm về Người đại diện vốn được quy định một cách tổng quát nhất là
khoản 4 Điều 3 Nghị định số 99/2012/NĐ-CP: “Người đại diện theo ủy quyền đối
với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Người đại diện) là cá
nhân được chủ sở hữu ủy quyền bằng văn bản để thực hiện quyền, trách nhiệm,

nghĩa vụ của chủ sở hữu tại doanh nghiệp”. Để cụ thể hóa khái niệm này cho phù
hợp với vai trò Người đại diện vốn của SCIC, tại Khoản 3 Điều 2 Quy chế người
đại diện vốn 2013 có định nghĩa như sau: “Người đại diện là người được Tổng công
ty ủy quyền làm đại diện một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của Tổng công ty tại
doanh nghiệp để thực hiện toàn bộ hoặc một số quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của
cổ đông Nhà nước hoặc thành viên góp vốn tại doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật và quy định của Tổng công ty, bao gồm:
a. Người đại diện là cán bộ doanh nghiệp: Là cán bộ làm việc chuyên trách
tại doanh nghiệp được Tổng công ty uỷ quyền làm Người đại diện vốn tại doanh
nghiệp.
b. Người đại diện là cán bộ Tổng công ty: Là cán bộ, nhân viên của Tổng
công ty được Tổng công ty uỷ quyền làm Người đại diện kiêm nhiệm hoặc làm
Người đại diện chuyên trách (biệt phái) tại doanh nghiệp.
c. Người đại diện là cán bộ cơ quan nhà nước: Là cán bộ hành chính nhà
nước được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử làm Người đại diện kiêm nhiệm tại
doanh nghiệp trước khi chuyển giao vốn cho Tổng công ty và được Tổng công ty kế
thừa làm Người đại diện theo quy định của pháp luật.
Như vậy, định nghĩa Người đại diện của SCIC đã giữ được tinh thần của khái
niệm chung về Người đại diện vốn nhà nước, làm rõ được địa vị pháp lý, chức
năng và phạm vi thực hiện chức năng của người đại diện. Ngoài ra, so với định
nghĩa về Người đại diện được quy định tại Điều 1 Quy chế người đại diện vốn của
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ban hành kèm theo quyết định
số 20/QĐ-ĐTKDV-HĐQT ngày 09 tháng 6 năm 2009 của Hội đồng quản trị Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước trước đây, khái niệm của văn bản hiện
hành còn phân loại cụ thể người đại diện. Có thể thấy, những tiêu chí mà khái niệm


19

trên làm rõ cũng chính là những đặc điểm cơ bản của người đại diện vốn nhà nước

của SCIC.
Thứ nhất, về địa vị pháp lý, người đại diện vốn của SCIC là người được
SCIC ủy quyền. Như vậy, SCIC đã ủy quyền lại quyền đại diện vốn nhà nước của
mình cho Người đại diện. Xét về bản chất, SCIC cũng là “Đại diện vốn nhà nước”
chính vì thế SCIC chỉ được ủy quyền lại cho Người đại diện những nội dung không
vượt quá phạm vi mà nhà nước đã uỷ quyền lại cho Tổng công ty này. Đặc điểm
này đã phân biệt Người đại diện của SCIC với những Người đại diện vốn nhà nước
khác, đơn cử như những Người đại diện của các bộ, ngành, UBND tỉnh tại doanh
nghiệp do Bộ, ngành, UBND tỉnh đó trực tiếp quản lý. Người đại diện vốn của
SCIC phải chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động đại diện của mình và chịu sự kiểm
soát của SCIC kể cả những Người đại diện là cán bộ cơ quan nhà nước được tổng
công ty kế thừa khi tiếp nhận chuyển giao vốn nhà nước. Với tư cách là Người đại
diện vốn của SCIC tại doanh nghiệp, chủ thể này thực hiện các hoạt động với tư
cách của chủ thể giao đại diện. Mọi hoạt động không vượt quá phạm vi ủy quyền
của Người đại diện đều làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho SCIC. Ngược lại, theo
quy định chung của Bộ luật dân sự, những hoạt động nào vượt ra ngoài phạm vi đại
diện thì SCIC không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm đối với phần nội dung vượt
quá đó.
Thứ hai, nội dung và phạm vi ủy quyền Người đại diện làm đại diện một
phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của Tổng công ty tại doanh nghiệp để thực hiện
toàn bộ hoặc một số quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của cổ đông Nhà nước hoặc
thành viên góp vốn tại doanh nghiệp. Như vậy phạm vi ủy quyền được quy định
tương ứng với nội dung ủy quyền của Người dại diện. Người đại diện sẽ được thực
hiện toàn bộ hay một số quyền và nghĩa vụ của cổ đông nhà nước phụ thuộc vào họ
được đại diện toàn bộ hay một phần vốn góp của SCIC tại doanh nghiệp. Từ quy
định này cũng có thể hiểu, SCIC có thể cử hơn một người làm Người đại diện tại
một doanh nghiệp cụ thể. Bên cạnh đó, phạm vi ủy quyền của những người này có
thể không giống nhau tùy thuộc vào trình độ, năng lực của họ.



20

Như vậy, có thể hiểu một cách tổng quát nhất Người đại diện của SCIC
chính là người được SCIC ủy quyền để thay SCIC thực hiện quyền và nghĩa vụ của
đại diện cổ đông, thành viên góp vốn nhà nước tại doanh nghiệp cụ thể, chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động trực tiếp với SCIC.
2.2.3 Vai trò của Người đại diện vốn nhà nước của Tổng công ty đầu tư
và kinh doanh vốn nhà nước
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là đầu mối quản lý một số
doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước hiện nay. Theo báo cáo tổng kết, đánh giá
công tác đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tính đến tháng 9/2012, SCIC đang
thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 420 doanh nghiệp, trong đó
có 412 công ty cổ phần, 3 công ty TNHH hai thành viên trở lên và 5 công ty TNHH
một thành viên với vốn nhà nước theo giá trị sổ sách là 13.928 tỷ đồng, giá thị
trường ước đạt trên 40.000 tỷ đồng. So sánh từ thời điểm tiếp nhận đến ngày 31-122011, quy mô vốn nhà nước theo giá trị sổ sách của các doanh nghiệp đã tăng hơn
88%. Lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng đạt gấp hơn ba lần so với thời điểm tiếp
nhận. Chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân tăng từ mức 15,8% (thời điểm
nhận bàn giao) lên 18,5% (ngày 31-12-2011). Những thành tựu đạt được đó của
SCIC nhờ một phần đóng góp rất lớn của đội ngũ những Người đại diện vốn. Hiện
nay, việc quản lý vốn nhà nước được thực hiện chủ yếu thông qua 492 Người đại
diện với cơ cấu 415 Người đại diện công tác tại doanh nghiệp, giữ các chức danh
lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp (chiếm 84,6%), 35 Người đại diện kiêm nhiệm là
cán bộ các đơn vị thuộc các Bộ, ngành, địa phương (chiếm 7,3%), 42 Người đại
diện là cán bộ của SCIC (chiếm 8,1%) [23]. Nhấn mạnh vai trò của những Người
đại diện, tại Hội nghị Đại diện vốn Nhà nước tại doanh nghiệp năm 2012 được tổ
chức tại Đà Nẵng, Tổng Giám đốc SCIC Lại Văn Ðạo khẳng định: Thông qua hệ
thống người đại diện, SCIC đã chủ động tham gia các Ðại hội cổ đông; nghiên cứu,
góp ý và biểu quyết các quyết định, các phương án kinh doanh của doanh nghiệp;
thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin và kiểm tra hoạt động của doanh
nghiệp; tham gia mua cổ phần phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu tại các doanh

nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có tiềm năng tạo ra giá trị gia tăng cho vốn nhà


×