Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.1 KB, 78 trang )

Ộ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN BẢO YẾN

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ, KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC
TRONG CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS. TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI- 2013


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô và các bạn ở trường Đại
học Luật Hà Nội. Tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám
hiệu, Khoa Sau Đại học, Khoa Pháp luật Kinh tế Trường Đại học Luật Hà Nội
đã tận tình dạy dỗ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian
qua. Đặc biệt, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS. Trần


Ngọc Dũng – người đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn
tốt nghiệp. Cuối cùng, xin cảm ơn ba mẹ, bạn bè đã luôn ở bên cạnh cổ vũ
động viên cả về vật chất lẫn tinh thần.

Học viên

Trần Bảo Yến


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DN

Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

GDP

Tổng sản phẩm nội địa

SCIC

States capital investment corporation
( Tổng công ty Đầu tư Kinh doanh vốn Nhà nước)

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

0

LỜI NÓI ĐẦU

3

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài:

2

3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:

3

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:


3

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài:

4

6. Những đóng góp mới của luận văn:

4

7. Kết cấu đề tài nghiên cứu:

5

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ, KINH DOANH
VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ĐẦU TƯ, KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC TỔ CHỨC
KINH TẾ

6

1.1.Khái niệm đầu tư kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế

6

1.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ
chức kinh tế

8


1.2.1. Chủ thể của hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ
chức kinh tế

8

1.2.2. Vốn nhà nước dùng cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong các tổ
chức kinh tế

12

1.2.3. Các nhóm hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ
chức kinh tế

16

1.2.4. Quản lý của nhà nước đối vốn nhà nước đầu tư trong các tổ chức kinh
tế

18

1.3. Khái niệm, hệ thống và nội dung của pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn
nhà nước trong các tổ chức kinh tế.

19


1.3.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ
chức kinh tế.

19


1.3.2. Hệ thống các quy định pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước
trong các tổ chức kinh tế.

20

1.3.3. Nội dung của pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các
tổ chức kinh tế.

21

1.4. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về đầu tư kinh doanh vốn
nhà nước trong các tổ chức kinh tế.

24

1.4.1 Giai đoạn trước đổi mới năm 1986

24

1.4.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2003

25

1.4.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay

26

1.5. Pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế ở
một số nước


28

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ,
KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ

32

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về hoạt động đầu tư kinh doanh vốn
nhà nước trong các tổ chức kinh tế

32

2.1.1. Quy định về chủ thể thực hiện quyền đầu tư kinh doanh vốn nhà nước
vào các tổ chức kinh tế

32

2.1.2. Quy định về vốn nhà nước được sử dụng đầu tư kinh doanh vào các tổ
chức kinh tế

37

2.1.3. Quy định về chính sách đầu tư của Nhà nước vào các tổ chức kinh tế 39
2.1.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước đối với hoạt
động đầu tư kinh doanh vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế

40

2.1.5 Quy định về cơ chế giám sát đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư kinh

doanh vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế

47

2.2. Thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư, kinh
doanh vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế

49


2.2.1. Ưu điểm của việc thi hành các quy định của pháp luật về hoạt động đầu
tư, kinh doanh vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế

49

2.2.2. Hạn chế của việc thi hành các quy định của pháp luật về hoạt động đầu
tư, kinh doanh vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế

53

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ, KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC
TRONG CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ

58

3.1. Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước
trong các tổ chức kinh tế

58


3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước
trong các tổ chức kinh tế.

60

3.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn
Nhà nước trong các tổ chức kinh tế

62

3.4. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành pháp
luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế.

66

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đến nay, 27 năm đã
trôi qua. Công cuộc đổi mới toàn diện và sâu rộng ở Việt Nam đã làm cho nền
kinh tế có những bước phát triển mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm
của Việt Nam ở mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đời

sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Đạt được những thành tựu này không thể
không kể tới những đóng góp to lớn của các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư của
Nhà nước. Các DN có vốn nhà nước hiện nay đang nắm giữ những lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế, đóng góp tỷ lệ không nhỏ vào ngân sách quốc gia, tạo công
ăn việc làm cho nhiều người lao động. Các DN có vốn đầu tư nhà nước, ngoài
việc hướng tới mục tiêu lợi nhuận, còn thể hiện vai trò trong việc phục vụ lợi ích
công cộng, điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần
quan trọng đưa nền kinh tế phát triển theo định hướng đã đề ra.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước
trong các tổ chức kinh tế đã bộc lộ những bất cập, hạn chế. Nhiều tổ chức kinh tế
có vốn đầu tư của Nhà nước kinh doanh thua lỗ, làm thiệt hại tài sản nhà nước
hàng nghìn tỷ đồng. Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt nam (Vinashin) có
hàng loạt sai phạm trong việc huy động vốn, quản lý và đầu tư vốn tuỳ tiện, thiếu
quy hoạch. Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam (Vinalines) cũng đã công bố số lỗ
660 tỉ đồng trong 6 tháng đầu năm 2011 (trong đó số lỗ của các đơn vị thuộc
Vinalines là 507 tỉ đồng, riêng 5 đơn vị chuyển từ Vinashin sang lỗ 153 tỉ đồng).
Những vụ việc điển hình này là những hồi chuông báo động cho tình trạng sử
dụng kém hiệu quả, thiếu trách nhiệm nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào các tổ
chức kinh tế, mà phần lớn nguồn vốn đó là tiền thuế của nhân dân đóng góp.
Vụ việc này đang được dư luận xã hội quan tâm rộng rãi. Nếu nó không được
giải quyết một cách kịp thời, thỏa đáng sẽ có ảnh hưởng xấu tới vai trò chủ đạo
của khu vực kinh tế nhà nước và gây bức xúc trong nhân dân. Hiện nay đã có
những quan điểm thể hiện thái độ không đồng tình với vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước.


2
Với mong muốn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động
đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, từ đó đưa ra một cái
nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về vấn đề này, cũng như đề xuất phương hướng và

những giải pháp cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về đầu tư, kinh
doanh vốn nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn nhà nước vào các
doanh nghiệp, tác giả đã chọn vấn đề: Pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà
nước trong các tổ chức kinh tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn làm đề tài
luận văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho tới nay, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề liên quan
đến nội dung đề tài như:
Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Hoàng Công Dũng nghiên cứu vấn đề:
“Những giải pháp tăng cường quản lý của Nhà nước đối với tài sản đầu tư trong
các doanh nghiệp”, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012. Kết quả nghiên cứu
của luận văn này đã chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động quản
lý của Nhà nước đối với tài sản đầu tư trong các DN và kiến nghị các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của Nhà nước trên cơ sở tập trung vào hoàn thiện thể
chế, kiện toàn thiết chế quản lý và các biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật trên
thực tế.
Luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn Thị Ngọc Hòa (2011, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội) nghiên cứu “Pháp luật về Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước ở Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu của luận văn này đã phân
tích làm rõ về một mô hình đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước trong các tổ chức
kinh tế mới được hình thành giai đoạn gần đây đó là Tổng công ty đầu tư kinh
doanh vốn nhà nước và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của Tổng công ty này trên thực tế.
Liên quan đến việc quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các tổ chức kinh tế, cũng
đã có những bài viết nhận xét về ưu điểm, hạn chế cũng như các giải pháp pháp
luật cho hoạt động này trên các báo, tạp chí, trang web điện tử.


3
Tuy nhiên, để nhìn nhận hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước dưới góc

độ một hình thức đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005 và các văn bản
pháp luật có liên quan, từ đó đưa ra phương hướng và những giải pháp cho việc
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, thì vẫn chưa được các tác giả đề cập và
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
Việc triển khai nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà
nước trong các tổ chức kinh tế- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” là nhằm mục
đích đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế.
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
-

Làm rõ các vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước

trong các tổ chức kinh tế và pháp luật về đầu tư kinh doanh vốn nhà nước trong
các tổ chức kinh tế.
-

Đánh giá một cách đầy đủ, cụ thể các quy định pháp luật về đầu tư, kinh

doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế và thực trạng của hoạt động này,
trong đó mạnh dạn chỉ ra những thành tựu và hạn chế, những nhược điểm, bất
cập của các quy định này, đồng thời cũng chỉ ra những khó khăn, vướng mắc gặp
phải trong quá trình thi hành các quy định pháp luật này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định pháp
luật về hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu là giới hạn các hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn của Nhà
nước trong các tổ chức kinh tế với tư cách là các DNNN và DN có vốn nhà nước.



4
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác-Lê nin: tác giả nghiên cứu sự phát triển của sự vật trong sự
tác động qua lại lẫn nhau, trong nhiều mối quan hệ. Tác giả cũng sử dụng
phương pháp duy vật lịch sử để thấy được sự phát triển của hoạt động đầu tư,
kinh doanh vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế, đánh giá hiệu quả của hoạt
động này trong bối cảnh tình hình phát triển kinh tế hiện nay.
Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể,
như: phân tích, diễn giải, hệ thống hoá, tổng hợp…Phương pháp phân tích, diễn
giải được tác giả sử dụng để đi sâu vào chi tiết, tìm hiểu từng vấn đề của pháp
luật về hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế,
thực trạng hiệu quả cũng như hạn chế của các quy định này trên thực tế. Tác giả
sử dụng phương pháp hệ thống để thống nhất các vấn đề nhằm đưa ra những
đánh giá và nhận định về tính phù hợp, và những điểm cần hoàn thiện và các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ
chức kinh tế. Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp khi trình bày các kết quả
nghiên cứu đề tài trong phần Kết luận của luận văn
6. Những đóng góp mới của luận văn:
Với các kết quả nghiên cứu của mình, tác giả luận văn đã:
- Đưa ra một cách nhìn toàn diện, đầy đủ về các vấn đề lý luận cũng như về
pháp luật về hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh
tế.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà
nước trong các tổ chức kinh tế; đưa ra kết luận về những ưu điểm và nhược điểm
của các quy định pháp luật về vấn đề này.
- Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước
trong các tổ chức kinh tế.
- Đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh

doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế; nâng cao hiệu quả hoạt động đầu
tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế.


5
7. Kết cấu đề tài nghiên cứu:
Kết cấu của luận văn được thể hiện ở Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo và ba chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong
các tổ chức kinh tế và pháp luật về về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các
tổ chức kinh tế về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong
các tổ chức kinh tế.
Chương 3. Phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư,
kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế.


6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ, KINH DOANH VỐN
NHÀ NƯỚC TRONG CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU
TƯ, KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ

1.1. Khái niệm đầu tư kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh
tế
Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế là hoạt động nhằm
thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước đã được tiến hành từ rất lâu, tuy nhiên
vẫn chưa có một định nghĩa chính thức nào về hoạt động này.
Trên thực tế, khái niệm đầu tư chung được hiểu là hoạt động thường xuyên
liên tục đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư.

Thuật ngữ “đầu tư” theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ
học là việc:“bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì trên cơ sở tính toán
hiệu quả kinh tế, xã hội”[17,tr.301].
Dưới góc độ pháp lý giáo trình Luật Đầu tư của Trường Đại học Luật Hà Nội
quan niệm “đầu tư”: “là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và
cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi
nhuận hoặc mục đích kinh tế xã hội khác”. Một cách cụ thể hơn, khái niệm “đầu
tư” được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005 như sau: “Đầu tư
là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”[1,tr.16].
Dưới góc độ này, hoạt động đầu tư có các đặc điểm sau đây:
- Phải có sự bỏ ra hoặc hi sinh một nguồn lực (Khoản chi phí dưới hình thức
vốn, tài sản.v.v.) nào đó của hiện tại nhằm đạt tới một mục tiêu hoặc một kết quả
nào đó.
- Kết quả thu được từ hoạt động đầu tư có thể là các khoản lợi nhuận, sự gia
tăng vốn, tăng thêm tài sản, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc đạt
được một mục tiêu, một kết quả nào đó được chủ thể đầu tư được coi là có giá trị
lớn hơn so với giá trị của nguồn lực đã bỏ ra.


7
- Hoạt động đầu tư hướng tới các kết quả trong tương lai. Nghĩa là nhà đầu tư
bỏ chi phí đầu tư, hi sinh nguồn lực hiện tại để thu lại kết quả trong một khoảng
thời gian sắp tới.
Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư có thể là cá nhân, pháp nhân, các tổ
chức và nhà nước. Trong đó, nhà đầu tư Nhà nước thường được coi là nhà đầu tư
lớn, chiếm tỷ trọng đầu tư đáng kể trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội.
Khái niệm kinh doanh theo Từ điển Thuật ngữ Luật học được định nghĩa như
sau: Kinh doanh là: các hoạt động đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ
cho các chủ thể kinh doanh tiến hành một cách độc lập, thường xuyên trên thị

trường nhằm mục đích lợi nhuận [14, tr450-451].
Cụ thể hơn, theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005
thì: Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Qua các định nghĩa trên có thể hiểu “đầu tư kinh doanh” là hoạt động bỏ vốn,
tài sản dưới các hình thức khác nhau và các cách thức do pháp luật quy định
nhằm mục đích lợi nhuận.
Cũng như nhiều chủ thể khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, Nhà
nước cũng tham gia hoạt động đầu tư kinh doanh nhằm mục đích sinh lời và trên
một phương diện nào đó hoạt động này của Nhà nước có những điểm tương đồng
với các chủ thể khác. Tuy nhiên có một vấn đề quy định đặc thù của hoạt động
đầu tư kinh doanh vào các tổ chức kinh tế của Nhà nước đó là hoạt động đầu tư
này sử dụng vốn nhà nước.
Vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời. Từ góc độ của nhà đầu tư, đó là số tiền tệ ứng trước để
đầu tư hình thành các tài sản cố định, tài sản lưu động sử dụng trong kinh doanh
của DN. Vốn nhà nước đầu tư tại các DN là số vốn thuộc sở hữu nhà nước mà
chủ sở hữu là Nhà nước và đối tượng sở hữu là vốn được pháp luật hiện hành
thừa nhận thuộc chủ quyền của quốc gia, của Nhà nước.


8
Như vậy, có thể hiểu hoạt động đầu tư kinh doanh vốn nhà nước vào các tổ
chức kinh tế là việc Nhà nước bỏ vốn, tài sản dưới các hình thức khác nhau và
các cách thức do pháp luật quy định vào các tổ chức kinh tế để thực hiện hoạt
động nhằm mục đích lợi nhuận hoặc mục đích kinh tế xã hội khác.
Theo quy định tại Điều 22, Luật Đầu tư thì nhà đầu tư được đầu tư để thành
lập các tổ chức kinh tế sau đây:
a) DN tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;

b) Tổ chức tín dụng, DN kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ chức tài
chính khác theo quy định của pháp luật;
c) Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở dịch
vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
d) Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, vấn đề chính được tác giả quan tâm
và tập trung phân tích đó là việc nhà nước đầu tư vốn vào các tổ chức kinh tế là
DN được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Đây là “địa điểm” đầu
tư chính được Nhà nước bỏ vốn vào thực hiện hoạt động kinh doanh với mục tiêu
tăng cường vốn Nhà nước và định hướng, điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Trong luận
văn này, thuật ngữ: “doanh nghiệp” có giá trị tương đương như thuật ngữ: “tổ
chức kinh tế”.
1.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các
tổ chức kinh tế
1.2.1. Chủ thể của hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ
chức kinh tế
Trong hoạt động đầu tư vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế, Nhà nước đóng
vai trò là chủ đầu tư. Khác với các chủ đầu tư thông thường (nhất là các nhà đầu
tư tư nhân), Nhà nước bên cạnh tư cách là chủ sở hữu những nguồn lực đầu tư
còn mang trong mình vai trò tổ chức đại diện cho quyền lực công cộng. Nhà
nước có quyền sử dụng pháp luật để quản lý các hoạt động đầu tư của mình. Đây
là điều mà các chủ đầu tư khác không thể có được.


9
Với vai trò đặc biệt của mình, mục tiêu của hoạt động đầu tư của Nhà nước
cũng có những điểm khác biệt nhất định. Các điểm khác biệt có thể kể đến như
sau:
Thứ nhất, với các nhà đầu tư tư nhân, mục tiêu lợi nhuận thường được xem là
mục tiêu duy nhất thì trong việc đầu tư của Nhà nước, mục tiêu lợi nhuận không

phải là mục tiêu duy nhất. Ngay cả trong trường hợp hướng tới mục tiêu lợi
nhuận thì mục tiêu này cũng phải nhìn từ góc độ mục tiêu lớn hơn của Nhà nước,
đó là mục tiêu phục vụ lợi ích công cộng.
Thứ hai, nguồn vốn nhà nước sử dụng trong hoạt động đầu tư thường trực tiếp
hoặc gián tiếp có nguồn gốc từ tiền thuế và các khoản đóng góp của dân. Chính
vì thế, hoạt động đầu tư của Nhà nước, bên cạnh chịu sự giám sát chặt chẽ của
người dân, công chúng với tư cách là chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước.
Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước. Quyền sở hữu nhà nước đối với tài sản
đầu tư trong các tổ chức kinh tế có các đặc điểm cơ bản sau:
(1) Quyền sở hữu của Nhà nước đối với tài sản đầu tư trong các DN chính là
quyền của chủ sở hữu Nhà nước đối với DN mà Nhà nước đã đầu tư. Biểu hiện
cụ thể của quyền sở hữu này chính là quyền tham gia quản lý DN để chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt và thu lợi đối với tài sản của DN.
(2) Nhà nước có quyền trong tổ chức, vận hành DN tương ứng với tỷ lệ phần
vốn đã góp vào DN.
(3) Nhà nước được chia lãi và chịu rủi ro từ hoạt động kinh doanh của DN.
(4) Nhà nước có thể chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn góp của mình
trong DN theo quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy rằng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới không phân biệt
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, Nhà nước đều thực hiện hoạt động can dự vào
nền kinh tế [7,tr.84]. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, sự tham gia của Nhà nước
trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng là phổ biến
và mang tính chất nguyên lý. Trong các quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, có trách nhiệm tổ chức và


10
quản lý nền kinh tế quốc gia, sử dụng hợp lý tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn
lực quốc gia.
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường lâu đời (còn gọi là các quốc gia tư

bản phát triển), trong giai đoạn phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản (còn gọi
là giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) Nhà nước hầu như để mặc các lực
lượng thị trường (khu vực tư nhân) tự do phát triển. Nhà nước tôn trọng, bảo hộ
quyền sở hữu tài sản (sở hữu tư nhân), quyền tự do cạnh tranh và tự do hợp đồng
của các chủ thể hoạt động kinh tế (các DN tư), và chỉ can thiệp khi có tranh chấp,
bất đồng giữa các chủ thể. Trong lĩnh vực đầu tư, Nhà nước chủ yếu chỉ tiến hành
các hoạt động đầu tư phát triển, đó là việc nhà nước đầu tư các hạng mục, công
trình, lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện đầu tư như cơ
sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế, cung cấp các dịch vụ công; đầu tư cho an
ninh, quốc phòng , hỗ trợ nền kinh tế như khai hoang, mở rộng lãnh thổ, đánh
thức các tiềm năng xã hội…( chức năng này thường được các nhà kinh tế gọi là
chức năng cung ứng hàng hóa, dịch vụ công cộng cho xã hội) [7, tr.84,85].
Những hoạt động đầu tư này cung cấp nền tảng chung cho sự phát triển kinh tế
xã hội. Nguồn lực thực hiện hoạt động đầu tư vượt ra ngoài khả năng của các
thành phần kinh tế khác do yêu cầu nguồn lực đầu tư rất lớn, khả năng thu hồi
thấp hoặc không thể thu hồi, những khoản đầu tư như vậy còn mang tính thường
xuyên, ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn ngân sách quốc gia. Kinh phí
để Nhà nước thực hiện chức năng này có nguồn từ các loại thuế, phí mà Nhà
nước thu được từ xã hội.
Tuy nhiên, với sự thất bại của mô hình kinh tế thị trường tự do (bằng sự trải
nghiệm của cuộc đại suy thoái và khủng hoảng giai đoạn 1929-1932) kinh tế thị
trường được coi là đã bộc lộ đầy đủ những khuyết tật cố hữu, mô hình nền kinh
tế hỗn hợp, trong đó ngoài “bàn tay vô hình” của thị trường, bàn tay hữu hình của
nhà nước thông qua các quy định của luật pháp, các công cụ thuế lũy tiến, các
chương trình an sinh xã hội, các DN công.v.v.cần được sử dụng để khắc phục các
khuyết tật của cơ chế thị trường, trở thành mô hình kinh tế phổ biến ở các nước
phát triển. Sự can thiệp này hướng tới các mục tiêu cơ bản là:


11

(1) Khắc phục các khuyết tật của thị trường (như kiểm soát độc quyền, phòng
ngừa ô nhiễm, hạn chế bất công, bình đẳng về thu nhập.v.v.),
(2) Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xã hội
(3) Ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (thông qua các chính
sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư công.v.v) [7, tr.84, 85].
Trong bối cảnh đó, hoạt động đầu tư của Nhà nước có sự thay đổi theo hướng
mở rộng hơn so với chức năng cung ứng các hàng hóa, dịch vụ công cộng truyền
thống, bao gồm cả hoạt động đầu tư kinh doanh. Nhà nước tham gia vào các hoạt
động kinh tế không chỉ với vai trò người thực hiện việc đầu tư phát triển kinh tếxã hội mà còn tham gia với vai trò của một nhà đầu tư kinh doanh với mục tiêu
lợi nhuận rất rõ ràng.
Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng Nhà nước chỉ nên thực hiện thiên chức của mình là
đầu tư phát triển và không nên cạnh tranh đầu tư vì mục đích lợi nhuận với xã
hội. Lý do là Nhà nước tham gia đầu tư kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc
Nhà nước “cạnh tranh” đầu tư với các nhà đầu tư khác trong xã hội. Đây là một
sự cạnh tranh đầu tư không công bằng do vị thế đặc biệt của Nhà nước (vừa là
chủ thể nắm trong tay những nguồn lực khổng lồ của quốc gia lại vừa là tổ chức
đại diện cho quyền lực công, có quyền quản lý các nhà đầu tư khác). Sự đầu tư,
kinh doanh này của Nhà nước có thể làm méo mó các quan hệ đầu tư và gây hại
cho nền kinh tế. Nhà nước tham gia đầu tư, kinh doanh có thể dẫn tới tình huống
xung đột lợi ích, Nhà nước “vừa đá bóng”, “vừa thổi còi” [9].
Tuy vậy, cũng có quan điểm cho rằng việc Nhà nước tham gia đầu tư kinh
doanh không chỉ vì mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động đầu tư này còn có ý nghĩa
trong việc giúp Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, dẫn dắt nền kinh tế theo đúng định hướng đã đề ra. Ban đầu, động cơ của Nhà
nước khi đầu tư kinh doanh là muốn tự tạo nguồn thu để trang trải cho các hoạt
động của Nhà nước, giảm bớt gánh nặng cho dân chúng (bởi lẽ nguồn đầu tư của
Nhà nước có nguồn gốc chủ yếu từ sự đóng góp của dân chúng). Tiếp theo, hoạt
động đầu tư của Nhà nước tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác,



12
cân bằng phát triển kinh tế giữa các vùng, các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh
tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo phát triển bền vững. Nghĩa là, kinh tế nhà
nước, đầu tư nhà nước đóng vai trò chèo lái con thuyền kinh tế quốc gia và việc
Nhà nước đầu tư kinh doanh hoàn toàn là đòi hỏi mang tính khách quan.
Mặc dù tính hợp lý, chính đáng của việc Nhà nước đầu tư kinh doanh có
nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tại thời điểm hiện nay, quan điểm chính thức của
Việt Nam là Nhà nước đồng thời có thể thực hiện cả hoạt động đầu tư phát triển
và hoạt động đầu tư kinh doanh [4, tr.147,148]. Nhà nước sử dụng tài sản do Nhà
nước quản lý đầu tư vào các DN với mục tiêu là tăng giá trị tài sản của Nhà nước
và thực hiện việc kiểm soát sự ổn định kinh tế trong những lĩnh vực chiến lược
[1, tr.204].
1.2.2. Vốn nhà nước dùng cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong các tổ
chức kinh tế
Vốn là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định tới mọi hoạt
động kinh doanh của DN nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Đối với sự phát triển của một quốc gia, vốn được coi là một trong bốn nguồn
lực của nền kinh tế quốc dân. Đó là nhân lực, vốn, kỹ thuật công nghệ, và tài
nguyên. Như vậy, xét trong một quốc gia, muốn phát triển nền kinh tế quốc dân,
ngoài nhân lực, kỹ thuật công nghệ và tài nguyên thì cần phải có vốn.
Vốn kinh doanh của một DN là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản dùng
cho kinh doanh: Về phương diện vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết
bị, nhà cửa, kho tàng, vật kiến trúc, vật tư hàng hoá…là các phạm trù gắn với nền
sản xuất hàng hoá. Vốn có thể là tiền như tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc đá
quý…Nhưng tiền chỉ có thể trở thành hàng hoá khi nó được đưa vào lưu thông,
sản xuất kinh doanh. Tiền có sự luân chuyển từ hình thái vật chất sang tiền tệ với
một lượng lớn hơn và ngày càng mở rộng. Ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất
vốn còn tồn tại dưới dạng những tài sản vô hình như quyền sở hữu công nghệ, uy
tín của DN, nhãn mác độc quyền, kinh nghiệm tay nghề, nguồn nhân lực, nguồn

chất xám…Những yếu tố này cũng được coi là vốn.


13
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước can thiệp và kiểm soát trực
tiếp mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Nhà nước thâu tóm tất cả hoạt động
của nền kinh tế, quyết định các vấn đề trong kinh tế từ kế hoạch đến các bước
thực hiện. Nhu cầu về vốn hầu như không tồn tại.
Chuyển sang cơ chế thị trường mọi hoạt động đều thay đổi, Nhà nước chỉ
đóng vai trò điều tiết ở tầm vĩ mô, các DN tự quyết định sản xuất kinh doanh và
tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Trong quá trình
hoạt động ấy, đồng tiền thực hiện được đúng chức năng vai trò nhiệm vụ vốn có.
Khi đó vốn ngày càng trở thành nhu cầu bức xúc quan trọng đối với các DN.
Tài sản nhà nước hay tài sản thuộc sở hữu nhà nước rất đa dạng, có thể được
chia thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất, là những tài sản chỉ thuộc sở hữu nhà nước, không được dịch
chuyển quyền sở hữu cho chủ thể khác ngoài Nhà nước. Những tài sản này có
đặc điểm chung là chỉ có thể sử dụng vì mục đích công cộng, không thể được
giao cho ai sở hữu.
Nhóm thứ hai, là những gì trong khối tài sản nhà nước không thuộc nhóm
thứ nhất. Nhóm này gồm các tài sản có thể được chuyển nhượng, chuyển đổi để
trở thành hình thức sở hữu khác, thường được giao cho các cơ quan nhà nước,
dùng làm vốn đầu tư để phục vụ hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có các
tài sản được dùng để đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, việc phân nhóm tài sản như
vậy cũng mang tính tương đối bởi tùy theo pháp luật của mỗi nước mà phạm vi
nhóm thứ nhất và phạm vi nhóm thứ hai có thể khác nhau.
Trên phương diện pháp lý, tài sản của Nhà nước được hiểu là những tài sản
được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc ngân sách, tài
sản được xác lập quyền sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật. Các tài
sản, vốn của Nhà nước đầu tư trong các DN bao gồm vốn cấp trực tiếp từ ngân

sách nhà nước cho công ty nhà nước khi thành lập, trong quá trình hoạt động
kinh doanh, vốn nhà nước tiếp nhận từ nơi khác chuyển đến theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền; giá trị các khoản viện trợ, quà biếu, quà tặng;
tài sản vô chủ, tài sản dôi thừa khi kiểm kê công ty nhà nước; vốn bổ sung từ


14
nguồn lợi nhuận sau thuế; giá trị quyền sử dụng đất và các khoản được tính vào
vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
Mối quan hệ sở hữu giữa Nhà nước-các tổ chức kinh tế-tài sản đầu tư của Nhà
nước trong các tổ chức kinh tế được giải thích bằng mối quan hệ sở hữu giữa chủ
tài sản-Nhà nước và khách thể của nó-tài sản. Tài sản với tư cách khách thể của
quan hệ sở hữu, phải nằm trong mối quan hệ sở hữu nhất định, gắn liền với một
chủ sở hữu nhất định đó chính là Nhà nước. Nhà nước- thực hiện quyền năng của
chủ sở hữu- đầu tư bằng tài sản thì chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho các tổ
chức kinh tế, tài sản lúc này thuộc sở hữu của các tổ chức kinh tế và độc lập với
tài sản của chủ sở hữu Nhà nước. Nhà nước có quyền sở hữu của nhà đầu tư các
quyền lợi vật chất đối với tài sản của tổ chức kinh tế hình thành từ tài sản đem
góp vốn mà không sở hữu các tài sản cụ thể của tổ chức kinh tế. Sau khi Nhà
nước đầu tư tài sản vào tổ chức kinh tế thì tổ chức kinh tế có quyền sử dụng với
tư cách pháp nhân đối với tài sản đó. Tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có tài
sản riêng và đầy đủ các quyền của chủ sở hữu tài sản gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng, quyền định đoạt. Lúc này, giữa Nhà nước và tổ chức kinh tế được
Nhà nước đầu tư vốn vào đã có sự tách biệt về mặt chủ thể.
Trên phương diện đầu tư, mối quan hệ giữa chủ sở hữu với tài sản thường là
mối quan hệ trực tiếp về cả mặt hiện vật và mặt giá trị. Tuy nhiên, trong hoạt
động đầu tư, hình thái hiện vật của tài sản không phải là mối quan tâm của nhà
đầu tư. Thay vào đó mặt giá trị của tài sản được coi trọng. Nhà đầu tư quan tâm
đến sự bảo toàn về giá trị và lợi tức thu về từ việc đầu tư. Trong hoạt động đầu
tư, tài sản phải có giá trị đầu tư, hoặc có giá trị quy đổi thì mới dùng để đầu tư.

Tài sản dưới hình thái vật chất cụ thể cũng có thể quy đổi thành tiền vốn để đầu
tư vào DN thì chúng trở thành tài sản dưới hình thức giá trị. Giá trị tài sản của
Nhà nước đem vào đầu tư tạo thành vốn của DN. Đây chính là mối liên hệ giữa
tài sản và vốn. Có thể thấy vốn là một bộ phận của tài sản nhưng không phải bất
cứ tài sản nào cũng đều là vốn. Chỉ có tài sản đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh
thì mới gọi là vốn, tài sản không đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh thì không


15
phải là vốn. Vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đưa vào kinh
doanh nhằm mục đích sinh lời.
Từ những phân tích trên có thể thấy tài sản nhà nước đầu tư trong các DN
được biểu hiện thành vốn thuộc sở hữu nhà nước trong các DN. Như vậy, xét ở
góc độ nhất định khái niệm tài sản đầu tư trong DN và khái niệm vốn đầu tư vào
DN là trùng nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, hai khái niệm
vốn và tài sản đầu tư trong DN được sử dụng với ý nghĩa như nhau.
Vốn nhà nước có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, vốn nhà nước là một trong những tiền đề vật chất cho việc hình thành
và hoạt động của DN có vốn đầu tư nhà nước. Dù trong nhiều trường hợp, pháp
luật không quy định một mức vốn pháp định, nhưng trong thực tế, để tiến hành
hoạt động, chủ DN phải đầu tư hoặc huy động được một mức vốn nhất định mới
có thể tổ chức sản xuất kinh doanh, tham gia vào các giao dịch có tài sản để chịu
trách nhiệm về hoạt động của mình. Với các DN có vốn đầu tư của Nhà nước, tài
sản (vốn) góp của Nhà nước chính là một trong những phần cấu thành nên nguồn
vốn cho DN hoạt động.
Hai là, vốn đầu tư từ phía Nhà nước có khuyết tật cố hữu là khả năng bị xâm
phạm và bị thất thoát rất cao bởi sự thiếu rõ ràng về người chủ đích thực của
nguồn vốn này.
Ba là, vốn nói chung và vốn nhà nước nói riêng có chức năng sinh lời nhưng
không có khả năng tự sinh lời mà việc sinh lời là kết quả của việc vận hành DN

sử dụng vốn [2, tr.19].
Vốn nhà nước đầu tư trong DN được xác định như thế nào cũng là một vấn đề
có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: vốn nhà nước đầu tư vào DN không bao gồm
vốn DN đó đầu tư vào DN khác.
Cơ sở lập luận của quan điểm này chính là tính độc lập giữa DN có vốn nhà
nước và chủ sở hữu nhà nước về tài sản. Như đã đề cập ở trên, tài sản nhà nước
đầu tư vào DN được tách rời khỏi khối tài sản của chủ sở hữu nhà nước, DN lúc
này có quyền sở hữu với tài sản này, Nhà nước nắm giữ quyền tài sản về mặt giá


16
trị. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khi cần thiết DN này thực hiện việc đầu
tư thành lập DN, vốn đầu tư thành lập DN mới là vốn của DN, không phải của
Nhà nước. Do đó, vốn DNNN đầu tư vào DN khác không phải là vốn nhà nước
[2, tr.19].
Quan điểm thứ hai cho rằng: vốn nhà nước đầu tư vào các DN bao gồm vốn
nhà nước đầu tư vào các DN và vốn DN đó đầu tư vào DN khác.
Quan điểm này được thể hiện trong pháp luật Việt Nam, theo đó tài sản vốn
của Nhà nước Việt Nam đầu tư trong các DN bao gồm vốn đầu tư vào công ty
nhà nước và vốn công ty nhà nước đầu tư vào DN khác. Với cách hiểu và quy
định như vậy, phạm vi vốn nhà nước đầu tư trong các DN được mở ra khá rộng.
Có lẽ quy định này xuất phát từ quan điểm cho rằng mọi nguồn vốn phát sinh từ
vốn có nguồn gốc từ Nhà nước đều phải coi là vốn nhà nước [2, tr.20].
1.2.3. Các nhóm hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ
chức kinh tế
Các tổ chức kinh tế mà luận văn này đề cập đến là DN hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 (đã hết hiệu
lực), cụ thể hơn đó là DN có vốn đầu tư của Nhà nước.
DN có vốn nhà nước vừa là địa điểm lại vừa là một trong những công cụ

phương tiện quan trọng, qua đó Nhà nước hiện thực hóa các mục tiêu đầu tư của
mình.
DN có vốn nhà nước là các DN được Nhà nước bỏ vốn tài sản thuộc sở hữu
của mình đầu tư thành lập hoặc góp vốn. Các DN có vốn đầu tư của Nhà nước có
thể chia ra thành DNNN- các DN do Nhà nước đầu tư 100% hoặc nắm quyền chi
phối và DN có một phần vốn của Nhà nước, Nhà nước không nắm vai trò chi
phối.
Theo quan niệm chung trên thế giới, DNNN được coi là một tổ chức kinh tế
do Nhà nước nắm toàn bộ vốn điều lệ hoặc nắm giữ quyền chi phối, các tổ chức
kinh tế này có thể có tên gọi là DN nhà nước, DN công (Public Enterprise), DN
thuộc sở hữu nhà nước (State Owned Enterprises hoặc Government Owned
Corporatinons) hoặc xí nghiệp quốc hữu …các DN này thường được tổ chức


17
dưới hình thức pháp lý là các công ty TNHH, công ty cổ phần hoạt động theo
pháp luật về công ty hoặc hoạt động theo đạo luật cơ chế riêng biệt.
Trong đó, các DN hoạt động theo cơ chế riêng thường chiếm tỷ lệ không lớn
và hiện có xu thế chuyển hóa sang DN hoạt động theo pháp luật về công ty. Các
DN này thường là các DN có quy mô lớn, hoạt động trong các lĩnh vực đóng vai
trò then chốt trong nền kinh tế quốc dân như khai khoáng, viễn thông, điện lực,
tài chính ngân hàng…
Các DN khác có vốn đầu tư nhà nước thường là các DN được thành lập, tổ
chức và hoạt động theo luật công ty và thường họat động dưới hình thức pháp lý
là các công ty TNHH nhiều thành viên, công ty cổ phần. Trong đó, Nhà nước
tham gia đầu tư vốn với tư cách là một cổ đông góp vốn thông thường và không
nắm giữ quyền chi phối đối với DN.
Tùy vào tiêu chí khác nhau, DN có vốn đầu tư nhà nước được phân loại thành
nhiều nhóm khác nhau, chẳng hạn:
- Dựa trên tiêu chí tỷ lệ vốn góp và quyền chi phối của Nhà nước đối với DN,

DNNN được chia thành DNNN và DN khác có vốn nhà nước.
- Dựa trên tiêu chí mục tiêu hoạt động của DN, DN có vốn nhà nước được
chia thành DN hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và DN có mục tiêu lợi
nhuận.
Trong đó, DN không có mục tiêu lợi nhuận thường là DN được Nhà nước đầu
tư toàn bộ số vốn để thành lập và hoạt động sản xuất, kinh doanh với sản phẩm
phục vụ lợi ích công cộng, an ninh, quốc phòng và những mục đích tương tự, lợi
nhuận có thể thấp, không có lợi nhuận hoặc thậm chí lỗ. Các DN này thường
mang tính đặc thù, thường được xác định rõ mặt hàng sản xuất, dịch vụ công
cộng thậm chí giá cả của sản phẩm. Đối với những DN này, đánh giá hiệu quả
sản xuất kinh doanh các tiêu chí về doanh thu, lợi nhuận không phải là tiêu chí
quan trọng nhất mà là việc các DN có hoàn thành tốt các yêu cầu đặc thù của
mình hay không, đó mới là tiêu chí quan trọng nhất.
Các DN có mục tiêu lợi nhuận là các DN được Nhà nước đầu tư vốn để tiến
hành sản xuất kinh doanh với mục tiêu thu lợi nhuận về cho Nhà nước. Đối với


18
những DN này, mục tiêu đặt ra là làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở
hữu nhà nước ngày càng tăng lên.
1.2.4. Quản lý của nhà nước đối vốn nhà nước đầu tư trong các tổ chức
kinh tế
Quản lý của Nhà nước đối với vốn nhà nước đầu tư vào các tổ chức kinh tế là
tổng thể các hoạt động quản lý của Nhà nước và các chủ thể được Nhà nước giao
phó để bảo đảm tài sản, vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển, được khai
thác và sử dụng có hiệu quả. Hoạt động quản lý của Nhà nước đối với tài sản nhà
nước đầu tư trong các DN có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, chủ thể quản lý ở đây là Nhà nước. Mặc dù về bản chất, đây là sự
quản lý của chủ sở hữu đối với tài sản của mình đã đầu tư vào một chủ thể khác
(DN) chứ không phải quản lý với tư cách là một tổ chức quyền lực công. Tuy

nhiên, do chủ thể quản lý trong trường hợp này là Nhà nước một chủ thể luôn
mang trong mình tư cách chủ thể thực hiện quyền lực công, nên sự phân tách
giữa quản lý nhà nước đối với tài sản đầu tư vào DN với tư cách là chủ sở hữu
với việc quản lý của nhà nước đối với các DN này với tư cách là chủ thể thực
hiện quyền lực công trên thực tế không hề dễ dàng. Là một chủ thể mang quyền
lực công nên các hoạt động quản lý của chủ thể Nhà nước rất dễ mang dấu ấn của
phương pháp mệnh lệnh hành chính điều này sẽ phần nào trở thành yếu tố gây trở
ngại cho hoạt động kinh doanh luôn đề cao sự nhanh nhạy và linh hoạt.
Thứ hai, đối tượng của quản lý nhà nước đối với tài sản đầu tư trong các DN
chính là các DN có vốn đầu tư của Nhà nước. Mục tiêu đầu tư của Nhà nước chỉ
có thể đạt được thông qua hoạt động đầu tư, kinh doanh của chính các DN này.
Xuất phát từ đặc điểm hoạt động của DN hướng tới việc sử dụng vốn hiệu
quả vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, có thể nói rằng quản lý của nhà nước đối
với tài sản do Nhà nước đầu tư trong các DN chính là để DN hoạt động tốt, có
hiệu quả, vốn nhà nước có thể được bảo toàn và phát triển.
Quản lý của Nhà nước đối với vốn nhà nước đầu tư vào DN bao gồm các nội
dung cơ bản sau:


19
- Quyền và trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu DN có vốn
nhà nước.
- Quyền và trách nhiệm của người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các
DN.
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong việc giám sát, đánh
giá hiệu quả hoạt động của DN.
1.3. Khái niệm, hệ thống và nội dung của pháp luật về đầu tư, kinh
doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế.
1.3.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các
tổ chức kinh tế.

Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước trong các tổ chức kinh tế là hoạt động thực
hiện chức năng kinh tế của Nhà nước, tuy nhiên, để thực hiện hoạt động này có
sự tham gia của rất nhiều chủ thể và làm phát sinh rất nhiều các quan hệ pháp
luật khác nhau.
Như trên đã phân tích, vốn nhà nước có một khuyết tật cố hữu là khả năng bị
xâm phạm và thất thoát rất cao bởi sự thiếu rõ ràng về người chủ đích thực của
nguồn vốn này. Bởi vậy, đối với hoạt động đầu tư kinh doanh vốn nhà nước vào
các tổ chức kinh tế thì vấn đề được quan tâm nhất là làm sao để việc nhà nước
đầu tư vốn vào các tổ chức kinh tế được thực hiện một cách hiệu quả, không
những bảo toàn mà còn mở rộng được quy mô vốn của chủ sở hữu. Các nhà lập
pháp đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật xoay quanh hoạt động
này. Các quy phạm pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh về các vấn đề như:
chủ thể đầu tư, phạm vi vốn được đem ra đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia hoạt động, các quy định về quản lý, giám sát việc sử dụng vốn…Các
quy định này được thể hiện dưới nhiều hình thức như: bộ luật, luật, nghị định,
quyết định…Các quy định này đã tạo thành một hệ thống pháp luật về đầu tư,
kinh doanh vốn nhà nước.
Vì vậy, có thể định nghĩa pháp luật về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước là
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước vào các tổ chức


×