Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.42 KB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÝ THỊ THANH XUÂN

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA CHA MẸ VÀ CON
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI - HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ: 60380103

LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN : TS. NGUYỄN PHƯƠNG LAN

HÀ NỘI 2013


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy cô khoa Dân sự, khoa Sau
đại học…trường Đại học Luật Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt
quá trình học tập. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến cô Nguyễn Phương Lan người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên
ngành Dân sự.

HỌC VIÊN

Lý Thị Thanh Xuân



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là hoàn toàn của riêng tôi, được hoàn
thành dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung và kết quả của
đề tài là trung thực và chưa từng được công bố.

Hà Nội, ngày 26 tháng 01 năm 2013.

Lý Thị Thanh Xuân


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ Luật Dân sự

BLTTDS:

Bộ Luật tố tụng dân sự

Bộ LĐ-TB&XH:

Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CSĐT:


Cảnh sát điều tra

LHQ:

Liên hiệp quốc

Luật BVCSGDTE:

Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ

em
Luật NCT:

Luật Người cao tuổi

Luật HN&GĐ:

Luật Hôn nhân và Gia đình

Luật PCBLGĐ:

Luật Phòng chống bạo lực gia đình

NĐ:

Nghị định

NQ:


Nghị quyết

NXB:

Nhà xuất bản

TP:

Thành phố

UBND:

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
Mở đầu ..........................................................................................

3

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA CHA MẸ VÀ CON

1.1 Khái niệm chung về quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con: .

8

1.2 Khái niệm và đặc điểm về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con:

9


1.3 Cơ sở để quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con:

10

1.4. Sự cần thiết quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con:

14

Chương 2: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA CHA MẸ VÀ CON

17

THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

2.1. Quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con:

17

2.2. Quan hệ tài sản giữa cha mẹ và con:

34

2.3. Vấn đề về hạn chế quyền giữa cha mẹ và con:

45

Chương 3: NHỮNG VI PHẠM VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA
CHA MẸ VÀ CON TRONG ĐIỀU KIỆN KT - XH HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ


48

3.1. Một số ảnh hưởng tiêu cực của điều kiện kinh tế - xã hội
hiện nay đến quan hệ giữa cha mẹ và con: ...................................

48

3.2. Một số dạng vi phạm điển hình về quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ và con: ......................................................................

50

3.3. Một số kiến nghị:

59

KẾT LUẬN: .................................................................................

65


3

MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài:
Từ trước tới nay quan hệ giữa cha mẹ và con được coi là một trong những
quan hệ thiêng liêng cao cả nhất, nó tồn tại bền vững lâu dài thậm chí trong suốt
cuộc đời mỗi con người. Quyền và nghĩa vụ cũng theo đó gắn liền với cha mẹ
và con trong suốt thời gian tồn tại.

Có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh về quan hệ giữa cha mẹ và con
cũng như quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con - song trong điều
kiện kinh tế - xã hội nước ta ngày càng phát triển, các quy định đó đã bộc lộ một
số bất cập, không còn phù hợp và theo kịp với xu thế phát triển của xã hội cũng
như sự thay đổi về nhận thức của con người. Chính vì điều đó Nhà nước đang
sửa đổi Hiến pháp; Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em; Luật Hôn nhân
và Gia đình… nên việc nghiên cứu về vấn đề này là hết sức cần thiết, đáp ứng
được về mặt khoa học cũng như thực tiễn.
Trong thời gian qua, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con còn nhiều bất cập. Có những vụ việc vi phạm xảy ra rất nghiêm trọng như
vụ cháu Nguyễn Thục Phi ở Quảng Ngãi, đã bị cha mẹ nuôi hành hạ, đánh đập
dã man khiến cháu phải nhập viện trong tình trạng hoảng loạn; hay trường hợp
bà Nguyễn Thị Tung ở Vĩnh Phúc bị con trai đánh đến “ thập tử nhất sinh ” vì
để xổng ba con chim chào mào…Những hành vi vi phạm này đã xâm phạm đến
quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con, trà đạp lên những đạo lý cơ bản của
con người, làm tổn hại đến chuẩn mực đạo đức xã hội, nên cần có biện pháp xử
lý, ngăn chặn một cách có hiệu quả.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội ngày một phát triển thì hệ thống pháp
luật cũng ngày càng phải hoàn thiện hơn để phù hợp tình hình thực tế. Trong bối
cảnh đất nước ta đang mở rộng giao lưu và hợp tác với các nước trên thế giới,


4

hệ thống pháp luật cũng cần được quy định hài hòa, trên cơ sở tôn trọng nguyên
tắc bình đẳng và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Với những lý do đó tôi đã chọn đề tài “ Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ
và con trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay ” để nghiên cứu và mong
muốn sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào chương trình sửa đổi các văn bản pháp
luật có liên quan trong thời gian tới.

2/ Tình hình nghiên cứu đề tài:
Từ trước đến nay có nhiều công trình nghiên nghiên cứu về các quy định
trong Luật Hôn nhân và gia đình như Luận án Tiến sỹ của tác giả Ngô Thị
Hường (2006) với đề tài “ Chế độ cấp dưỡng trong Luật Luật Hôn nhân và Gia
đình - Vấn đề lý luận và thực tiễn ”. Trong nội dung của đề tài, tác giả có đề cập
đến nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con như “ Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha
mẹ đối với con phát sinh khi cha mẹ không sống chung với con…” [26,tr.71].
Đây là một trong những nghĩa vụ của cha mẹ phải thực hiện đối với con. Quy
định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em chưa thành niên
hoặc đã thành niên nhưng mất khả năng lao động khi không sống chung cùng
với cha mẹ. Trong luận án còn đề cập đến nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với
cha mẹ khi cha mẹ không sống cùng với con.
Trong luận án Tiến sỹ của tác giả Nguyễn Phương Lan (2007) với đề tài
“Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi” cũng đề cập
đến quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi “Khi quan hệ nuôi con
nuôi được xác lập một cách hợp pháp thì cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các
quyền về nhân thân như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ… ” [27,tr.71]. Các quy định
điều chỉnh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi nhằm đảm bảo các
quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được thực hiện một cách
nghiêm túc trên thực tế.


5

Trên các tạp chí cũng có một số bài viết liên quan đến quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ và con. Trong đó có những bài viết của tác giả Nguyễn Phương
Lan: “Quyền làm mẹ của người phụ nữ theo quy định của pháp luật Việt Nam”
(Tạp chí Luật học, số đặc san phụ nữ 2004) và “ Vấn đề vi phạm về quyền trẻ
em trong lĩnh vực nuôi con nuôi” (Tạp chí Luật học số 1-2012); TS Nguyễn Thị
Lan có bài viết “ Một số vấn đề về lạm quyền của cha mẹ đối với con” ( Tạp

chí Luật học số 2-2012)…
Nói chung các đề tài nghiên cứu, các bài viết đã được công bố chủ yếu đề
cập đến một khía cạnh nào đó trong các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con.
Chưa có nhiều đề tài nghiên cứu một cách tổng thể về quyền và nghĩa vụ giữa
cha mẹ và con trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay.
3/ Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con.
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ và con
+ Xem xét đánh giá việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa cha và con
trên thực tế trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi nghiên cứu đề tài “Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay”chủ yếu được nghiên cứu theo Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Đồng thời đề tài còn nghiên cứu một số quy
định trong các văn bản pháp luật khác như: Bộ Luật Dân sự, Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục, Luật Nuôi con nuôi, Luật Người cao
tuổi… và một số các văn bản pháp luật hiện hành quy định về quyền và nghĩa
vụ giữa cha mẹ và con.


6

4/Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài “Quyền và nghĩa vụ giữa cha và con
trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay ” là dựa trên phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước pháp quyền. Đồng thời sử dụng các phương pháp như: Phân

tích tổng hợp, phân tích từng khía cạnh, dẫn chứng bằng những ví dụ cụ thể,
thống kê những số liệu mà các cơ quan chức năng và các phương tiện thông tin
đại chúng đã đưa tin. Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp so sánh giúp
người người đọc hiểu rõ hơn vấn đề cần nghiên cứu.
5/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
- Mục đích của đề tài là nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. Phân tích nghiên cứu một cách toàn diện và hệ
thống về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con trong hệ thống pháp luật nước
ta hiện nay. Tìm hiểu thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật về quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ và con đối với nhau. Qua đó tìm ra những bất cập, thiếu
sót của hệ thống pháp luật trong quá trình thực thi quyền và nghĩa vụ giữa cha
mẹ và con để đề xuất hướng giải quyết.
- Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật hiện hành, có sự so
sánh với các quy định trước đây và một số nước trên thế giới về vấn đề này.
Xem xét đánh giá việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
trong điều trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay nhằm chỉ ra được những mặt
tích cực, tiêu cực và đề xuất những kiến nghị để đảm bảo quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ và con được thực hiện một cách hiệu quả trong thực tế.
6/ Những điểm mới của đề tài:


7

- Đề tài là một trong những công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn
diện về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con trong điều kiện kinh tế - xã hội
hiện nay.
- Luận văn đã khắc họa một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa
vụ giữa cha mẹ và con dưới góc độ pháp lý, đồng thời có sự đánh giá, phân tích
từ các quy định của pháp luật hiện hành đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ

giữa cha mẹ và con trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay.
- Luận văn đã đưa ra một số nhận xét đánh giá và đề xuất có tính độc lập
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ
và con cũng như đảm bảo hiệu quả của việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
này trong thực tế.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn khi công bố có thể được sử dụng tham
khảo trong quá trình sửa đổi bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em… trong thời gian tới.
7/ Kết cấu của Luận văn:
Luận văn bao gồm có phần mở đầu, kết luận, phần danh mục các từ viết
tắt, phần danh mục các tài liệu tham khảo và phần nội dung.
Trong phần nội dung, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con.
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp
luật hiện hành.
Chương 3: Một số hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và một số kiến nghị.


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA CHA MẸ VÀ CON

1.1.

Khái niệm chung về quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con
Quan hệ giữa cha mẹ và con là một quan hệ thiêng liêng trong xã hội


được nhà nước bảo vệ và điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật.
- Thông thường quan hệ giữa cha mẹ và con được phát sinh từ sự kiện
sinh đẻ. Khi một đứa trẻ ra đời, quan hệ huyết thống là căn cứ phát sinh quan hệ
giữa cha mẹ và con. Tuy nhiên việc người phụ nữ sinh con mới chỉ là sự kiện
trên thực tế. Từ việc sinh con đến việc hình thành quan hệ giữa cha mẹ và con
cần có sự công nhận và điều chỉnh của pháp luật. Quan hệ giữa cha mẹ và con
chỉ phát sinh khi đứa sinh ra được đăng ký khai sinh. Đây là một sự kiện pháp lý
xác lập quan hệ giữa cha mẹ và con, xác định quan hệ huyết thống tự nhiên giữa
người cha, người mẹ và đứa trẻ.
Trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp, đứa trẻ được sinh ra dựa trên sự kiện
sinh đẻ của người vợ. Nhưng cũng có trường hợp người phụ nữ mang thai trước
khi thực hiện đăng ký kết hôn thì pháp luật quy định việc xác định quan hệ giữa
cha mẹ và con bằng phương pháp suy đoán nhưng phải phù hợp vào từng hoàn
cảnh cụ thể. Ví dụ đăng ký kết hôn được sáu tháng mà người phụ nữ sinh con và
người chồng công nhận đứa trẻ đó là con mình thì có thể suy đoán trước thời kỳ
hôn nhân hợp pháp, hai người đã chung sống với nhau như vợ chồng.
Trong trường hợp sinh con ngoài giá thú thì việc tiến hành xác định quan
hệ giữa cha mẹ và con phải tuân thủ theo trình tự pháp luật. Trường hợp người
phụ nữ đơn thân sinh con và đứa trẻ sinh ra mà chưa xác định được ai là cha thì
việc đăng ký khai sinh chỉ xác lập quan hệ pháp lý với người mẹ và đứa trẻ. Nếu
muốn xác lập quan hệ cha con của người cha và đứa trẻ người cha phải có yêu


9

cầu và được thực hiện thông qua thủ thục xác định quan hệ cha con. Việc xác
định quan hệ cha mẹ và con được thực hiện theo thủ tục do pháp luật quy định
làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa người được xác định là cha mẹ với
đứa trẻ.

- Ngoài sự kiện sinh đẻ, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con còn được
phát sinh từ việc nhận nuôi con nuôi. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha
mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trên cơ sở tuân thủ
đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật.
Trong quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi cũng phát sinh đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ như trong quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đẻ. Người nhận
nuôi và người được nhận nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con mà
pháp luật quy định và được thực hiện đầy đủ trong thực tế.
Như vậy, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con là quan hệ giữa cha mẹ
và con được hình thành dựa trên sự kiện sinh đẻ hoặc sự kiện nuôi con nuôi
được nhà nước công nhận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa
cha mẹ và con theo quy định của pháp luật.
1.2. Khái niệm và đặc điểm quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
1.2.1. Khái niệm
Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là một bộ phận cấu thành của
quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con. Đây là bộ phận quan trọng nhất vì nó
chính là nội dung của quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con
Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con có thể được xem xét từ hai góc
độ:
- Góc độ quyền con người: Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là
quyền tự nhiên của con người, thể hiện tình cảm trong mối quan hệ huyết thống
và mối quan hệ nuôi dưỡng giữa thế hệ cha mẹ và thế hệ con cái, là tất cả những
việc mà cha mẹ và con có thể làm được cho nhau để cùng nhau tồn tại và phát


10

triển, thỏa mãn những nhu cầu tình cảm và vật chất của hai bên đối với nhau
trong đời sống.
- Góc độ pháp lý: Là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà cha mẹ và con

được hưởng và phải thực hiện đối với nhau theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm
Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con vừa là quyền tự nhiên, vừa là
quyền pháp lý của con người.
- Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con có tính chất tác động qua lại với
nhau, quyền của cha mẹ là nghĩa vụ của con cái và quyền của con cái chính là
nghĩa vụ của cha mẹ.
- Pháp luật ghi nhận nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa
các con ( con trai - con gái; con nuôi - con đẻ; con trưởng - con thứ ) khi tiếp
nhận quyền và thực hiện nghĩa vụ đối với cha mẹ.
- Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ là quyền và nghĩa vụ đặc biệt, không
thể chuyển giao cho người khác và gắn liền với nhân thân của cha mẹ và con.
Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ không thể thỏa thuận thay đổi được, nó gắn liền
với quan hệ giữa cha mẹ và con trong một thời gian dài, thậm chí đến suốt cả
cuộc đời. Quyền và nghĩa vụ này phần lớn được thực hiện một cách tự giác, thể
hiện tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con. Điều này phù hợp quy luật tự
nhiên và chuẩn mực đạo đức xã hội.
- Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con không phụ thuộc vào hôn nhân
hợp pháp hay không hợp pháp của cha mẹ. Trong mọi trường hợp quyền và
nghĩa vụ không thay đổi vì yếu tố hôn nhân nhưng phương thức thực hiện có thể
khác nhau sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể giữa cha mẹ và con.
1.3. Cơ sở để quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
1.3.1.Cơ sở lý luận


11

Quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con xuất phát từ những cơ
sở lý luận sau:
- Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là quyền tự nhiên của con người,

gắn liền với quyền được duy trì, tái tạo nòi giống, thực hiện chức năng giáo dục,
xã hội hóa của mỗi cá nhân. Nó gắn liền với mối quan hệ tình cảm, huyết thống
tự nhiên giữa cha mẹ và con do đó việc quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi nhà nước ra đời là một điều tất yếu khách
quan.
- Quan hệ giữa cha mẹ và con là quan hệ đặc biệt quan trọng trong mọi
chế độ xã hội. Cha mẹ là người có trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con cái. Vì vậy, việc điều chỉnh quan hệ giữa cha mẹ và con
bằng pháp luật không những đảm bảo các quyền của cả cha mẹ và con mà còn
vì sự phát triển của thế hệ trẻ, vì tương lai của đất nước.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con phải phù hợp đạo
đức xã hội, phải đảm bảo hài hòa quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong
gia đình cũng như trong xã hội, phù hợp với lợi ích của nhà nước trong việc bảo
vệ và xây dựng gia đình.
- Phong tục tập quán: Lựa chọn những mặt tích cực, cần giữ gìn bằng
cách quy phạm hóa thành các văn bản pháp luật. Những phong tục tập quán cổ
hủ, lạc hậu như trọng nam khinh nữ hay phân biệt đối xử với con trưởng - con
thứ…cần được xóa bỏ. Do đó cần có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ giữa cha mẹ và con để xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu này.
- Những truyền thống đạo đức tốt đẹp về quan hệ giữa cha mẹ và con cần
được gìn giữ và phát huy và đưa vào các văn bản quy phạm pháp luật như việc:
con cái có nghĩa vụ yêu thương kính trọng ông bà, cha mẹ; cha mẹ có nghĩa vụ
yêu thương, chăm sóc giáo dục con cái…
- Cơ sở pháp lý


12

Quy định của hệ thống pháp luật của nước ta từ trước đến nay là một
trong những cơ sở quan trọng để quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và

con trong điều kiện kinh - tế xã hội hiện nay.
+ Trong thời kỳ phong kiến, các quy định về hôn nhân và gia đình nói
chung và quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con nói riêng còn mang
tính áp đặt, không bình đẳng như nhau trước pháp luật. Các quy định còn mang
nặng tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ. Các chế tài xử phạt không mang
tính giáo dục mà thể hiện sự tàn bạo dã man đối với con người.
+ Đến thời kỳ cách mạng Tháng Tám thành công, miền Bắc đi lên xây
dựng XHCN, miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước. Dưới sự tác
động của tình hình chính trị lúc bấy giờ, mô hình gia đình thay đổi rất nhanh cả
về nội dung lẫn hình thức, nhà nước ta đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân lạc
hậu, mang tư tưởng phong kiến. Mô hình gia đình mới được hình thành và phát
triển.
Năm 1959, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời
và sau đó Luật HN&GĐ đầu tiên cũng được Quốc hội thông qua ngày
29/12/1959.Trong Luật HN&GĐ đầu tiên này những hủ tục lạc hậu đã được xóa
bỏ hoàn toàn, chế độ hôn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa được hình thành.
Luật HN&GĐ năm 1986 được ra đời trong bối cảnh đất nước đi lên xây dựng
XHCN, những truyền thống tốt đẹp được phát huy, đồng thời những mặt hạn
chế dần được thay đổi.
Trong gia đoạn này, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
hôn nhân gia đình cũng như quan hệ giữa cha mẹ và con vẫn còn nhiều hạn chế
vướng mắc, chưa sát với tình hình thay đổi thực tế, Nhà nước chưa kiểm soát
hết các thủ tục hành chính về lĩnh vực này dẫn đến việc áp dụng pháp luật vào
đời sống thực tế còn nhiều bất cập.


13

+ Năm 1992, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ra đời đánh dấu một
bước tiến lịch sử trong thời kỳ đổi mới của đất nước ta. Đảng và Nhà nước đã có

những tư tưởng chỉ đạo cụ thể trong lĩnh vự hôn nhân và gia đình và Luật
HN&GĐ năm 2000 ra đời là một điều tất yếu. Trong giai đoạn này các quan hệ
trong gia đình cũng như trong xã hội đã được luật pháp điều chỉnh khá chặt chẽ,
quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con trong Luật HN&GĐ cũng được đề cập
tới.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn
- Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển và
hội nhập quốc tế, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì không thể tránh
khỏi những mặt tiêu cực. Tác động của nền kinh tế thị trường vào các quan hệ
xã hội cũng như quan hệ giữa cha mẹ và con ngày càng lớn, quan hệ truyền
thống gia đình ngày một mai một, chuẩn mực xã hội ngày xuống cấp những quy
định trước đây về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con không còn phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Nhà nước đang tiến hành cải cách, sửa
đổi…các văn bản quy phạm pháp luật để theo kịp với sự phát triển của thời đại
nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân nói chung và quyền và nghĩa vụ
của cha mẹ và con nói riêng được thực hiện một cách có hiệu quả trong thực tế.
Việc vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con xảy ra trong xã hội
hiện nay với nhiều mức độ khác nhau, từ việc con cái không kính trọng, biết ơn
dẫn đến có những hành vi xúc phạm hay ngược đãi cha mẹ…Hay cũng có
những trường hợp cha mẹ đánh đập, hành hạ con cái dẫn đến tổn thương cả về
thể chất lẫn tinh thần cho đứa trẻ…Đây là một thực tế cần được nghiên cứu và
đưa ra được những quy định pháp luật để ngăn chặn, răn đe, giáo dục những
người có hành vi vi phạm này.
Ngoài ra, tại các cơ quan chức năng của nhà nước, việc thực thi pháp luật
về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con vẫn còn nhiều bất cập: Như việc


14

những người mẹ đơn thân sinh con bằng phương pháp khoa học, về vấn đề

mang thai hộ, pháp luật nước ta chưa công nhận nhưng trên thực tế đã xảy ra.
Nếu sau này có tranh chấp thì các cơ quan chức năng căn cứ vào sự kiện sinh đẻ
hay căn cứ vào giám định gien để xác định cha mẹ - con cho đứa trẻ…đây là
một thực tiễn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn đang lúng túng, chưa
tìm ra cách giải quyết triệt để.
* Việc quy định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ con là dựa trên những cơ
sở lý luận và thực tiễn ở trên, đây là lý luận và thực tiễn đã xảy ra trong xã hội
và tồn tại trong lịch sử, nó là căn cứ để quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha
mẹ và con trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay.
1.4. Sự cần thiết quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
Việc quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ trong hệ thống pháp luật
là hết sức cần thiết vì nó duy trì trật tự trong xã hội, phát huy những truyền
thống tốt đẹp vốn có của gia đình Việt Nam, tránh những tranh chấp đáng tiếc
xảy ra trong thực tế, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội.
- Trước tiên, việc quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ và con, để các chủ thể trong
mối quan hệ này xác định quyền và nghĩa vụ của mình. Cha mẹ được thực hiện
những quyền gì và phải thực hiện những nghĩa vụ gì. Ngược lại, con cái cũng
vậy, cũng xác định được quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với cha mẹ.
Như việc con cái có quyền sống chung với cha mẹ - đây là nội dung quy định tại
Điều 13 của Luật BVCSGDTE. Việc quy định con cái có quyền sống chung với
cha mẹ là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đứa trẻ vì chỉ khi sống chung
với cha mẹ thì con cái mới có điều kiện để phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh
thần. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được nhà nước bảo vệ và bình
đẳng, không phân biệt đối xử trước pháp luật.


15

- Việc quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con còn đảm bảo sự

gắn bó giữa các thành viên trong gia đình. Những tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường đã dần đẩy lùi những tình cảm tốt đẹp vốn có của gia đình,
tình yêu thương giữa ông bà, cha mẹ và con cháu ngày càng bị chủ nghĩa vật
chất chi phối, nên việc các văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ và con sẽ tạo cho các chủ thể gắn bó và có trách nhiệm với nhau
nhiều hơn, giúp quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không bị ảnh hưởng
bởi điều kiện kinh tế - xã hội đang ngày một thay đổi.
- Bên cạnh đó, việc quy định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con còn

là cơ sở pháp lý để phân biệt với các quyền và nghĩa vụ khác trong xã hội. Quan
hệ giữa cha mẹ và con là một quan hệ thiêng liêng mang tính đặc thù, quyền và
nghĩa vụ chỉ tồn tại và phát sinh khi các chủ thể được nhà nước công nhận có
quan hệ cha mẹ và con. Ví dụ như việc xác định họ tên của đứa trẻ luôn phụ
thuộc vào quan hệ với người được xác định là cha, mẹ của đứa trẻ ấy. Khi các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các chủ thể có quan hệ cha (mẹ) và
con với nhau thì đồng thời cũng phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con với các chủ thể đó. Lúc này, người con có quyền và nghĩa vụ về nhân thân
cũng như quyền và nghĩa vụ về tài sản đối với cha mẹ, ngược lại cha mẹ cũng
có quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền và nghĩa vụ của con.
Trong xã hội các mối quan hệ đan xen , chồng chéo lên nhau nên việc quy
định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con giúp các chủ thể trong quan hệ
này phân biệt được quyền và nghĩa vụ của mình với bên thứ ba, hoặc ngược
lại.Ví dụ như trường hợp cha hoặc mẹ qua đời thì con đẻ, con nuôi, con trong
giá thú, con ngoài giá thú là một trong những người ở hàng thừa kế thứ nhất, chỉ
khi những người ở hành thừa kế thứ nhất không còn thì những người ở hàng
thừa kế thứ hai mới được hưởng thừa kế. Đây là cơ sở pháp lý để giải quyết các
tranh chấp về thừa kế tài sản. Trên thực tế đã có rất nhiều vụ án tranh chấp về


16


tài sản xảy ra và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng phải căn cứ vào
quan hệ giữa các chủ thể để giải quyết các tranh cấp đó. Một vụ án điển hình về
tranh chấp tài sản thừa kế lên đến hàng nghìn tỷ đồng giữa anh em ruột của
người chết với con nuôi của người chết diễn ra tại TP Hồ Chí Minh trong suốt
hai năm ( 2011 - 2012 ), sự việc này đã được các phương tiện thông tin đại
chúng quan tâm khá “ chu đáo ”[40,tr.73].
Dựa trên quan hệ giữa cha mẹ và con thì đương nhiên người con nuôi là
người thừa kế theo quy định của pháp luật khi người mẹ chết không để lại di
chúc. Anh chị em ruột chỉ là người thừa kế khi người chết không còn ai ở hành
thừa kế thứ nhất.
Việc quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là hết sức cần
thiết vì nó tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa cha mẹ
và con; giữa cha mẹ và con đối với bên thứ ba.
- Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế nên các quy phạm pháp
luật cần đảm bảo hài hòa và tương đồng với pháp luật các nước trên thế giới là
điều cần thiết. Ví dụ như xác định dân tộc, quốc tịch cho trẻ khi có cha hoặc mẹ
là người nước ngoài, phải đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cả cha mẹ và con
nhưng cũng không đi ngược lại với những quy định của pháp luật các nước trên
thế giới.

* Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa cha mẹ và con cũng như đảm
bảo sự gắn bó giữa các thành viên trong gia đình, tránh xảy ra những tranh chấp
không đáng có xảy ra trong xã hội, đồng thời phát huy truyền thống tốt đẹp vốn
có của người Việt Nam nên việc quy định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con là điều vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, còn bắt kịp với những hệ thống
pháp luật văn minh tiến bộ của các nước trên thế giới cũng như tương đồng với
hệ thống pháp luật quốc tế, nên việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam là điều hết sức cần thiết.



17

Chương 2
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA CHA MẸ VÀ CON
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ
và con được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo quy định của pháp luật thì quan hệ giữa cha mẹ và con bao gồm
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản:

2.1. Quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con
Trong quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật
gồm những quyền và nghĩa vụ sau:
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con trong việc xác định họ
tên, quốc tịch, dân tộc của con
Mỗi một con người sinh ra đều có cha, có mẹ, cho dù là sinh ra tự nhiên
hay bằng phương pháp khoa học thì mọi đứa trẻ đều được hưởng các quyền cơ
bản về nhân thân mà pháp luật quy định. Những quyền mà người con được
hưởng thì cũng là nghĩa vụ của cha mẹ phải thực hiện.
“ Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền có
họ tên, quyền có quốc tịch ngay từ khi chào đời và trong chừng mực có thể,
quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc ”. Đây là nội
dung được quy định tại Điều 7 Công ước về Quyền trẻ em của LHQ, đã được
thông qua và ký kết ngày 20 tháng 11 năm 1989 và có hiệu lực từ ngày 2 tháng
9 năm 1990. Như vậy, quyền được khai sinh và có họ tên là một trong những
quyền nhân thân quan trọng của trẻ em không chỉ được pháp luật quốc tế quy
định và bảo vệ mà pháp luật nước ta cũng đã thể chế hóa bằng các quy định của
pháp luật. Tại Điều 11 của Luật BVCSGDTE năm 2004 quy định “Trẻ em có

quyền được khai sinh và có quốc tịch”; tại Điều 26 và Điều 29 BLDS năm 2005


18

cũng quy định “Cá nhân có quyền có họ, tên” ; về quyền được khai sinh “Cá
nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh”. Quyền khai sinh, quyền có họ tên
của cá nhân được quy định trong BLDS là việc khẳng định sự bảo vệ của Nhà
nước đối với quyền được khai sinh, quyền có họ và tên của mỗi con người.
Quyền được khai sinh là quyền đầu tiên khẳng định trẻ em là công dân một
quốc gia, là một công dân bình đẳng như mọi công dân khác và đây là cơ sở
phát sinh các quyền và nghĩa vụ liên quan.
Đăng ký khai sinh và có họ tên là quyền của trẻ em, thì trách nhiệm đi
đăng ký khai sinh là của cha, mẹ, ông, bà hoặc những người thân khác của các
em. Tại Điều 14 của NĐ số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của CP về đăng
ký và quản lý hộ tịch quy định trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha,
mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con… Trong trường hợp người có trách
nhiệm phải đi đăng ký khai sinh cho trẻ em không thực hiện việc đăng ký trong
thời hạn do pháp luật quy định thì sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền theo quy
định tại Điều 10 của NĐ số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/07/2009 của CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.
Khi đăng ký khai sinh thì trẻ em được cấp Giấy khai sinh, nội dung Giấy
khai sinh xác định những thông tin về bản thân người được đăng ký khai sinh
như: họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, nơi sinh và
thông tin về cha, mẹ của người được đăng ký khai sinh. Giấy khai sinh được ví
như “giấy thông hành” vào đời, nó gắn liền với mỗi cá nhân từ khi sinh ra lớn
lên và đến khi chết đi. Trong các loại giấy tờ thì Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch
gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi rõ về họ,
tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính, dân tộc; quốc tịch; quan hệ cha
mẹ - con phải phù hợp với Giấy khai sinh của người đó.

Các thông tin trên giấy khai sinh như dân tộc, quốc tịch, ngày tháng năm
sinh là rất quan trọng nên cần được xác định chính xác, cụ thể. Họ và tên cũng


19

sẽ gắn với người con trong suốt cuộc đời nên cần được cha mẹ quan tâm chú ý,
họ và tên cần phải rõ ràng gắn gọn, dễ nghe, dễ hiểu để tránh cho con gặp phiền
phức sau này. Đây cũng chính là thể hiện quyền và nghĩa vụ yêu thương, quan
tâm… đến con cái của các bậc làm cha làm mẹ.
Bên cạnh việc có quyền được đăng ký khai sinh và có họ, tên thì việc xác
định quốc tịch cho một công dân mới ra đời cũng hết sức quan trọng, vì ngay
trong tờ giấy khai sinh đã phải ghi nhận quốc tịch của đứa trẻ. Con sinh ra được
hưởng quyền có quốc tịch theo quốc tịch của người cha hoặc theo quốc tịch của
người mẹ.
Theo quy định tại Điều 45 BLDS năm 2005 thì mọi người sinh ra đều có
quyền có quốc tịch. Cũng theo Điều 15 Luật Quốc tịch thì trẻ em khi sinh ra có
cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam, không kể trẻ em
đó sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam. Trong trường trẻ em sinh ra có
cha hoặc mẹ có quốc tịch Việt Nam và người kia không có quốc tịch Việt Nam
thì được áp dụng theo Điều 16 của luật này.
Việc quy định chặt chẽ như vậy nhằm đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của
công dân quy định trong Luật Quốc tịch được thực hiện một cách có hiệu quả
trong thực tế. Đồng thời cũng thể hiện nguyên tắc tôn trọng ý chí, nguyện vọng
tự do thỏa thuận chọn quốc tịch Việt Nam cho con của cha mẹ - những người
có quốc tịch khác nhau, tránh những xung đột không cần thiết trong các quy
định của hệ thống pháp luật quốc tế về quốc tịch. Trong trường hợp này quốc
tịch của trẻ em sinh ra được pháp luật xác định dựa vào cơ sở kết hợp các
nguyên tắc “quyền huyết thống ”; nguyên tắc “ quyền nơi sinh ” và nguyên tắc “
tự do ”thỏa thuận chọn quốc tịch Việt Nam cho con của cha mẹ.

Dân tộc cũng là một trong những đặc điểm nhân thân cơ bản của cá nhân,
có tính bền vững và chỉ có thể được thay đổi trong những trường hợp đặc biệt
theo quy định của pháp luật.


20

Tại Điều 28 BLDS quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc
theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ…” Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ là người
của hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc
của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo phong tục tập quán hoặc theo thoả thuận
của cha và mẹ . Trong trường hợp thật cần thiết nếu phải xác định lại dân tộc
cho một người thì phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 37 của NĐ số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của CP về
đăng ký và quản lý hộ tịch thì: Ủy ban nhân dân cấp xã/phường, mà trong địa
hạt của quận/huyện có đương sự đã đăng ký khai sinh trước đây, có thẩm quyền
giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên và xác
định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho
mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi.
Bên cạnh việc cha mẹ đẻ và con đẻ có quyền và nghĩa vụ trong việc xác
định họ tên, quốc tịch, dân tộc thì cha mẹ nuôi và con nuôi cũng có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ này theo quy định của pháp luật.
Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của
cha mẹ nuôi (Khoản 3 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi).
Cha mẹ nuôi có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay
đổi họ tên cho con nuôi. Tại Khoản 2 Điều 24 trong Luật Nuôi con nuôi, việc
thay đổi họ tên cho con nuôi từ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người con
nuôi này. Đây là quy định tại nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quan hệ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, bên cạnh đó còn thể hiện sự tôn trọng ý kiến của
cha mẹ nuôi đối với con nuôi trong trường hợp con nuôi đã đủ 9 tuổi.

Trong Luật Quốc tịch quy định: “ Trẻ em là người nước ngoài được công
dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam kể từ ngày được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi ”
(Điều 37). Điều này đem lại quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em người nước


21

ngoài được người Việt Nam nhận làm con nuôi, cũng như đảm bảo sự tương
đồng với quy định pháp lý của các nước trên thế giới.
* Quyền nhân thân cơ bản của trẻ em khi mới được sinh ra hay trẻ em
được nhận làm con nuôi trong việc xác định họ tên,quốc tịch, dân tộc là một
điều rất quan trọng, cha mẹ cần thực hiện nghĩa vụ đối với con cái một cách tự
nguyện. Điều này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con được thực
hiện trong thực tế.
2.1.2. Quyền được sống chung với cha mẹ của con
Quyền được sống chung với cha mẹ của con là một quyền tự nhiên,
không tách rời trong quan hệ giữa cha mẹ và con được pháp luật công nhận và
bảo vệ. Một trong những nội dung quy định tại Điều 9 của Công ước quốc tế về
Quyền trẻ em của LHQ: Các nước tham gia Công ước này phải đảm bảo trẻ em
không bị tách rời khỏi cha mẹ nếu không có sự đồng ý của họ. Trong trường
hợp phải để con cái sống xa cha mẹ vì quyền và lợi ích hợp pháp của con thì
phải được cơ nhà nước có thẩm quyền quyết định. Trên thế giới trẻ em là đối
tượng được quan tâm đặc biệt vì “ Trẻ em hôm nay chính là thế giới ngày mai
”.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trong khu vực tham gia vào
Công ước quốc tế của LHQ về Quyền trẻ em. Đảng và Nhà nước luôn chăm lo
đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nên quyền trẻ em đã được thể chế hóa
bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 13 của Luật BVCSGDTE có
quy định rõ: “Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc

trẻ em phải cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em ”. Pháp luật
quy định điều này vì hầu hết cha mẹ nào cũng yêu thương, chăm sóc, đem lại
những điều tốt đẹp nhất cho con mình. Chỉ khi được sống chung với cha mẹ thì
trẻ em mới được đảm bảo các quyền lợi cơ bản nhất, được hưởng trọn niềm yêu
thương và tình cảm thiêng liêng nhất của con người.


22

Khi một đứa trẻ sinh ra và lớn lên được sự chăm sóc chu đáo của cha mẹ
thì sẽ có điều kiện trở thành một công dân tốt của xã hội, được sự dạy dỗ chu
đáo và hướng nghiệp đúng đắn của cha mẹ thì con cái có cơ hội phát triển sự
nghiệp một cách tốt nhất, đóng góp cho đất nước những nhân tài trong tương lai.
Ngược lại, nếu con cái không được sống chung với cha mẹ thì những quyền lợi
cơ bản nhất cũng như những cơ hội phát triển sẽ rất khó thực hiện. Điều này sẽ
gây ra cho xã hội hội nhiều hệ lụy như: Tệ nạn bỏ học, nghiện hút, cờ
bạc…Chính vì vậy quyền được sống chung với cha mẹ của con cái cần được
chính những bậc làm cha làm mẹ thực hiện một cách nghiêm túc và tự nguyện,
bên cạnh đó các cơ quan chức năng cũng cần tuyên truyền rộng rãi để ai cũng
hiểu và thực hiện được quyền và nghĩa vụ này. Vì vậy quyền được sống chung
với cha mẹ của trẻ chính là đảm bảo thiết lập môi trường an toàn và tự nhiên
nhất đối trẻ em.
Quyền sống chung với cha mẹ chỉ bị hạn chế khi cha mẹ buộc phải bị
cách ly con cái như cha mẹ ly hôn, cha mẹ đang trong thời gian cải tạo giam
giữ…hay vì quyền lợi của trẻ khi cha mẹ có hành vi xâm hại đối với con cái.
* Quyền được sống chung với cha mẹ là quyền tự nhiên của con người.
Điều này cần được cha mẹ thực hiện một cách tự nguyện vì chỉ khi sống chung
với cha mẹ thì trẻ em mới có đầy đủ các điều kiện để hưởng các quyền lợi mà
pháp luật quy định.
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ trong việc yêu thương, trông nom, chăm sóc,

nuôi dưỡng, giữa cha mẹ và con
Quan hệ giữa cha mẹ và con là quan hệ tình cảm sâu sắc nhất trong mọi
quan hệ của xã hội dựa trên quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, vì vậy
cần cùng nhau thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
và phù với hợp truyền thống đạo đức của xã hội.


×