Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Thủ tục giải quyết vụ án ly hôn và thực tiễn giải quyết tại các tòa án nhân dân tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.61 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN NGHĨA

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN LY HÔN VÀ THỰC TIỄN
GIẢI QUYẾT TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: Luật Dân sự - Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

HÀ NỘI - 2013


2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Nguyễn Văn Nghĩa


3

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS

:Bộ luật tố tụng dân sự

HN&GĐ

:Hôn nhân và gia đình

HĐTPTANDTC

:Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

HĐXX

:Hội đồng xét xử

LSĐBSBLTTDS :Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự
TAND

:Tòa án nhân dân

TANDTC


:Tòa án nhân dân tối cao

VKS

:Viện kiểm sát


4

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. KHÁI QUÁT THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN LY HÔN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ..................................................................................... 5
1.1. Thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ án ly hôn................................................................... 5
1.1.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án ly hôn ............................................................... 5
1.1.1.1. Khởi kiện vụ án ly hôn: ......................................................................... 5
1.1.1.2. Thụ lý vụ án ly hôn: .............................................................................. 7
1.1.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn:....................................................... 8
1.1.3. Phiên tòa sơ thẩm vụ án ly hôn: .............................................................. 18
1.1.3.1. Quy định chung về phiên tòa sơ thẩm. .................................................. 18
1.1.3.2. Thủ tục bắt đầu phiên tòa .................................................................... 20
1.1.3.3. Thủ tục hỏi tại phiên tòa ...................................................................... 20
1.1.3.4. Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm .......................................................... 20
1.1.3.5. Nghị án và tuyên án ............................................................................ 22
1.1.3.6. Những việc tiến hành sau phiên tòa ...................................................... 23
1.2. Thủ tục giải quyết phúc thẩm vụ án ly hôn ............................................................ 24
1.2.1. Kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm ........................................ 24
1.2.2. Xét xử phúc thẩm .................................................................................. 27
Chương 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN LY HÔN TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC ....................................................................... 31

2.1. Thực tiễn giải quyết sơ thẩm vụ án ly hôn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh
Phúc .................................................................................................................................... 31
2.1.1. Khái quát thực tiễn giải quyết sơ thẩm vụ án ly hôn tại các Tòa án nhân dân ở
tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................................................... 31
2.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại trong việc giải quyết sơ thẩm vụ án
ly hôn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc ............................................... 33
2.2. Thực tiễn giải quyết phúc thẩm vụ án ly hôn tại TAND tỉnh Vĩnh Phúc........... 44


5

2.2.1. Khái quát thực tiễn giải quyết phúc thẩm vụ án ly hôn tại TAND tỉnh Vĩnh
Phúc .............................................................................................................. 44
2.2.2. Những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại trong việc giải quyết phúc thẩm vụ
án ly hôn tại các TAND ở tỉnh Vĩnh Phúc ......................................................... 46
Chương 3. YÊU CẦU VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN LY HÔN ................................................................................... 53
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án ly hôn .............................................. 53
3.1.1. Yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội đối với việc nâng cao hiệu quả giải
quyết vụ án ly hôn .......................................................................................... 53
3.1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án
ly hôn ............................................................................................................ 53
3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án ly hôn ................................ 55
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án ly hôn .............. 55
3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án ly hôn ................ 59
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 68


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo định hướng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là chủ trương lớn của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trong Nhà nước pháp quyền, tư
pháp có vai trò đặc biệt quan trọng, đảm bảo cho các đặc trưng của Nhà nước pháp
quyền được thể hiện đầy đủ, toàn diện. Vì vậy, kiện toàn và nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động tư pháp được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Trong
nền tư pháp nước nhà, hoạt động của Tòa án được xác định là trung tâm. Vì vậy, để
cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng các hoạt động tư pháp thì trước hết nâng cao
chất lượng hoạt động xét xử, khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp trong tiến
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực tế hoạt động xét xử
của ngành Toà án nhân dân (TAND) trong những năm gần đây cho thấy các vụ án
ly hôn ngày càng tăng, nội dung đa dạng và phức tạp. Để góp phần làm duy trì các
quan hệ hôn nhân và gia đình bền vững, giữ gìn kỷ cương pháp luật, ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội đòi hỏi trách nhiệm hết sức nặng nề đối với ngành Toà án.
Tuy vậy, hoạt động giải quyết các vụ án ly hôn của Tòa án trong những năm qua
vẫn còn nhiều bất cập như quá thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán nghiên cứu văn
bản chưa đầy đủ dẫn đến đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện, bản án
tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự v.v…làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của công dân. Trong đó, hoạt động của các Tòa án nhân
dân của tỉnh Vĩnh Phúc cũng không là một ngoại lệ. Vì vậy, việc nghiên cứu “Thủ
tục giải quyết vụ án ly hôn và thực tiễn giải quyết tại các Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc” là cần thiết, góp phần giải quyết những bất cập, nâng cao hiệu quả giải
quyết các vụ án ly hôn và thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nói chung và thủ tục giải quyết các vụ án
ly hôn nói riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm
công tác xét xử của ngành Toà án quan tâm nghiên cứu. Trong thời gian qua đã có

nhiều công trình nghiên cứu được công bố có đề cập đến các khía cạnh khác nhau


2

liên quan đến đề tài. Tuy nhiên, những công trình này thường theo khuynh hướng
nghiên cứu về đường lối giải quyết về mặt nội dung hoặc thực trạng xã hội của vấn
đề ly hôn như Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Cừ: “Chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2005; Luận văn thạc sĩ Luật học của Bùi Văn Thuấn: “Phụ nữ và pháp
luật, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng và chung”, Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2002; bài “Ly hôn có yếu tố nước ngoài và vấn đề về thẩm
quyền của Tòa án Việt Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) số 9/2009; bài “áp dụng thủ tục hòa giải trong quá
trình giải quyết yêu cầu thuận tình ly hôn” của Hoàng Việt Anh đăng trên Tạp chí
nghề Luật. Học viện tư pháp số 1/2011; bài “Một số vấn đề về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn” của tác giả Đỗ Văn Nhật đăng trên Tạp chí Dân chủ và
pháp luật số 3/2012 v.v…Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống thủ tục giải quyết các vụ án
ly hôn và thực tiễn giải quyết tại các Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là các quy định của pháp luật về thủ tục giải
quyết các vụ án ly hôn và thực tiễn áp dụng các quy định đó để giải quyết các vụ án
ly hôn tại các Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Phạm vi nghiên cứu đề tài tập trung vào những quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết các vụ án ly hôn và thực tiễn
giải quyết sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án ly hôn tại các Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc từ năm 2008 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm đường lối

của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp ở
nước ta.


3

Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lịch sử cụ thể. Bên cạnh đó, cũng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như thống kê , so sánh v.v…để giải quyết các vấn đề một cách
toàn diện.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết các vụ án ly hôn; đánh giá
thực trạng áp dụng các quy định này trong hoạt động giải quyết các vụ án ly hôn
của các Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm qua, trên cơ sở đó tìm ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án ly hôn.
Để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ phân
tích những quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục
giải quyết vụ án ly hôn của Toà án nhân dân; khảo sát thực tiễn áp dụng các quy
định này trong việc giải quyết các vụ án ly hôn của các Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc từ năm 2008 đến nay, đánh giá đúng những ưu điểm, hạn chế và những
nguyên nhân của những hạn chế đó; đối chiếu giữa lý luận với thực tiễn để tìm ra
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trong giải quyết các vụ án ly hôn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về thủ tục giải quyết vụ
án ly hôn và thực tiễn giải quyết tại các Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Vì vậy, có
thể đóng góp khoa học mới ở những góc độ sau:
- Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt

Nam hiện hành về thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết vụ án ly hôn;
- Đánh giá đúng thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành về thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết vụ án ly hôn tại
các Tòa án tỉnh Vĩnh Phúc; chỉ ra được những hạn chế, bất cập của các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực hiện chúng đồng thời
làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó;


4

- Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết
vụ án ly hôn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát thủ tục giải quyết vụ án ly hôn theo pháp luật Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn giải quyết vụ án ly hôn tại các Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc
Chương 3: Yêu cầu và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án ly
hôn


5

Chương 1
KHÁI QUÁT THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN LY HÔN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT SƠ THẨM VỤ ÁN LY HÔN
1.1.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án ly hôn

1.1.1.1. Khởi kiện vụ án ly hôn
Thủ tục giải quyết vụ án ly hôn là thủ tục tố tụng dân sự được áp dụng cho
trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu. Trong trường hợp ý chí chấm
dứt quan hệ vợ chồng xuất phát từ một bên người vợ hoặc người chồng thì chủ thể
chỉ có thể thực hiện mong muốn của mình bằng cách thực hiện quyền khởi kiện vụ
án ly hôn. Mặc dù quyền khởi kiện vụ án ly hôn là quyền của công dân được pháp
luật Việt Nam ghi nhận song công dân muốn khởi kiện vụ án ly hôn phải đáp ứng
các điều kiện sau:
Một là, đáp ứng điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án ly hôn.
Chủ thể khởi kiện trong vụ án ly hôn nói riêng và vụ án dân sự nói chung
phải có năng lực tố tụng dân sự, bao gồm năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng
lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng pháp luật
quy định cá nhân, tổ chức có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Năng lực hành
vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự hoặc ủy
quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
Đối với vụ án ly hôn, chủ thể khởi kiện chỉ có thể là cá nhân. Theo Điều 85
Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000 quy định: “Vợ/chồng hoặc cả hai
người có quyền yêu cầu Tòa án xin ly hôn”[15], tuy nhiên, người vợ hay người
chồng chỉ có thể thực hiện quyền này khi có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự,
tức không thuộc trường hợp bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Nếu
như trong các vụ án dân sự, lao động, thương mại,…khác, chủ thể khởi kiện có thể
ủy quyền cho người có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thay mình khởi kiện
thì trong khởi kiện vụ án xin ly hôn, quyền ủy quyền khởi kiện không được áp
dụng. Điều 73 Bộ Luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 về người đại diện có
quy định: “Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay


6

mặt mình tham gia tố tụng dân sự”[18] do đó chủ thể có quyền khởi kiện chỉ có thể

là một bên người vợ hoặc người chồng.
Một mặt khác, quyền khởi kiện xin ly hôn có đặc trưng khác so với khởi kiện
trong các vụ án dân sự khác ở điểm: quyền khởi kiện của chủ thể là bên người
chồng còn bị hạn chế trong trường hợp người vợ đang có thai hoặc nuôi con dưới
mười hai tháng tuổi (Điều 85 Luật HN&GĐ) nhằm bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo vệ
phụ nữ có thai và thai nhi, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của pháp luật và tính trách
nhiệm cao của nhà nước ta.
Hai là, vụ án ly hôn được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Tòa án chỉ thụ lý vụ án ly hôn để giải quyết khi vụ án đúng thẩm quyền xét
xử của mình. Do đó để đơn khởi kiện xin ly hôn được thụ lý thì yêu cầu pháp luật
đặt ra là việc khởi kiện phải đúng thẩm quyền xét xử về dân sự của Tòa án, được thể
hiện ở ba phương diện: Thứ nhất, vụ án ly hôn mà chủ thể nộp đơn khởi kiện phải
thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa quy định tại Điều 27 BLTTDS. Thứ
hai, vụ án ly hôn được khởi kiện phải đúng với cấp Tòa án có thẩm quyền giải
quyết quy định tại Điều 33, Điều 34 BLTTDS. Thứ ba, vụ án ly hôn được khởi kiện
phải đúng thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều 35 BLTTDS. Nếu
Tòa án nhận được đơn khởi kiện là Tòa án do các bên thỏa thuận lựa chọn Tòa án
giải quyết thì ngoài việc gửi đơn khởi kiện còn phải kèm theo văn bản thỏa thuận
lựa chọn Tòa án giải quyết vụ án ly hôn giữa hai bên người vợ và người chồng.
Ba là, việc xin ly hôn của chủ thể làm đơn khởi kiện phải chưa được giải
quyết bằng một bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan nhà nước đã
có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp có bản án, quyết định của Tòa án bác đơn xin
ly hôn.
Bốn là, việc khởi kiện vụ án ly hôn không thuộc những trường hợp pháp luật
hạn hế. Đối với các vụ án ly hôn không áp dụng thời hiệu khởi kiện vì quan hệ hôn
nhân và gia đình là quan hệ nhân thân gắn liền với bản thân mỗi con người, chỉ
thuộc riêng về mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác. Tuy nhiên, theo
điểm c mục 10 Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của



7

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) thì người chồng
không được làm đơn xin ly hôn khi vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới mười hai
tháng tuổi hoặc bị Tòa án bác đơn xin ly hôn trong thời hạn một năm kể từ ngày bản
án, quyết định của Tòa án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật.
1.1.1.2. Thụ lý vụ án ly hôn
Thụ lý vụ án ly hôn là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện vụ án ly hôn của
người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án để giải quyết. Cũng như các vụ án dân sự nói
chung, theo Điều 167 và Điều 168 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng dân sự (LSĐBSBLTTDS), thụ lý vụ án ly hôn thuộc trách nhiệm của Tòa án
nơi nhận được đơn khởi kiện xin ly hôn. Sau khi nhận được đơn khởi kiện xin ly
hôn của đương sự, Tòa án phải tiến hành các qui trình tố tụng trong thời hạn nhất
định bao gồm:
Thứ nhất, Tòa án tiến hành nhận đơn khởi kiện và nghiên cứu trong thời hạn
5 ngày làm việc kể từ khi nhận được đơn để ra một trong các quyết định sau: Tiến
hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc Chuyển đơn
khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác hoặc trả lại đơn khởi kiện. Nếu thấy nội
dung đơn khởi kiện không đáp ứng các nội dung cơ bản phải có được quy định tại
Điều 164 BLTTDS thì Tòa án phải thông báo cho người khởi kiện biết để họ sửa
đổi, bổ sung trong một thời hạn do Tòa án ấn định nhưng không quá 30 ngày, trong
trường hợp đặc biệt Tòa án có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày. Sau khi người
khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định thì Tòa án tiếp tục
làm thủ tục thụ lý vụ án. Nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án,
Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
Thứ hai, Tòa án sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo,
nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết thì Tòa án cần xác định tiền tạm
ứng án phí và thông báo ngay cho người khởi kiện để họ làm thủ tục nộp tiền tạm

ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí,
người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.


8

Thứ ba, khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí,
Tòa án quyết định thụ lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án. Trong trường hợp người khởi
kiện xin ly hôn thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án
phí thì Tòa án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo.
Quy định về việc thụ lý vụ án có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt trách nhiệm
cho Tòa án phải giải quyết vụ án trong thời gian luật định. Việc thụ lý vụ án còn
nhằm bảo vệ kịp thời những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, giải quyết
kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân.
1.1.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn
Chuẩn bị xét xử vụ án ly hôn là một giai đoạn độc lập trong thủ tục giải
quyết vụ án ly hôn tại Tòa án bao gồm các hoạt động từ sau khi thụ lý như phân
công thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án, tiến
hành hòa giải, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, ra các quyết định tạm đình
chỉ, đình chỉnh giải quyết vụ án ly hôn hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Có thể
thấy, đây là giai đoạn tố tụng rất quan trọng, trong giai đoạn này Tòa án sẽ nghiên
cứu, xem xét hồ sơ vụ án để xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định
đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, thu
thập chứng cứ phục vụ cho việc ra một phán quyết, quyết định đúng đắn về vụ án
trong phiên tòa sơ thẩm. Nhìn chung, giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly
hôn là giai đoạn rất quan trọng, làm tiền đề, cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho
việc xét xử và ra các phán quyết của Tòa án được khách quan, toàn diện và đúng
pháp luât.
Theo quy định tại Điều 179 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ

án ly hôn là 4 tháng, kể từ ngày thụ lý. Quy định này của pháp luật tố tụng dân sự là
hợp lý bởi lẽ rất nhiều các vụ án ly hôn có tính chất phức tạp cần quy định thời hạn
chuẩn bị xét xử tương đối dài để đảm bảo thực hiện đầy đủ các công việc chuẩn bị
xét xử tốt. Đối với những vụ án ly hôn có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách
quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng
không quá 2 tháng.


9

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn, các công việc chuẩn bị
xét xử chủ yếu được tiến hành bao gồm:
Thứ nhất, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.
Vì Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng nên trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử, sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công giải quyết vụ
án. Việc phân công này là cơ sở để Thẩm phán toàn tâm toàn ý với vụ án đã được
giao, đồng thời để Thẩm phán thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được quy định
tại Điều 41 BLTTDS, đảm bảo giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan, đúng
pháp luật.
Theo quy định tại Điều 172 BLTTDS thì: “Trong thời hạn ba ngày làm việc
kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ
án. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể
tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác
tiếp tục nhiệm vụ, trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ
án được xét xử lại từ đầu”[18].
Thứ hai, thông báo việc thụ lý vụ án.
Sau khi đã tiến hành các công việc thụ lý, Tòa án phải thông báo bằng văn
bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
giải quyết vụ án để họ biết được vụ án đã được thụ lý. Tòa án cũng phải thông báo
cho Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án để VKS

thực hiện chức năng kiểm sát của mình đối với việc giải quyết vụ án của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 174 BLTTDS, trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ
ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải gửi thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan đến việc giải quyết vụ án dân sự. Văn ản thông báo phải có các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
- Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án;
- Tên, địa chỉ của người đã khởi kiện;
- Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;


10

- Thời hạn người được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa
án đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo nếu có. Thời
hạn này được pháp luật quy định là 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Trong
trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho
Tòa án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn có căn cứ thì Tòa án phải gia hạn nhưng
không quá 15 ngày nữa.
- Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Tòa án văn
bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu.
Pháp luật quy định về việc thông báo việc thụ lý cho bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là nhằm bảo đảm quyền lợi cho đương sự. Thông báo thụ lý
để bị đơn biết được nguyên đơn khởi kiện những vấn đề gì, biết được những tài liệu,
chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp từ đó mà bị đơn sẽ chuẩn bị những tài liệu,
chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện kèm theo các tài
liệu chứng cứ ra Tòa án thì họ sẽ phải chuyển một bộ hồ sơ đó cho bị đơn, sau đó
Tòa án mới tiến hành thụ lý giải quyết vụ án.
Thứ ba, lập hồ sơ vụ án.

Để lập hồ sơ vụ án, căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, Tòa
án xác định các tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu của đương sự khởi kiện xin
ly hôn. Khi nhận được các chứng cứ, tài liệu kèm theo Tòa án phải đưa chúng vào
hồ sơ vụ án. Thủ tục giao nhận chứng cứ tài liệu được thực hiện theo đúng quy định
tại Điều 84 BLTTDS. Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án phải sắp xếp theo thứ tự nhất
định để thuận tiện cho việc nghiên cứu, sử dụng và phải có danh mục ghi lại các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án.
Trong tố tụng dân sự, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình. Tòa án có trách nhiệm xem xét mọi tình tiết của vụ án,
căn cứ vào pháp luật để giải quyết yêu cầu của đương sự. Điều 85 BLTTDS quy
định : “Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ
cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ.
Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu


11

cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để tiến hành
thu thập chứng cứ: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; trưng cầu giám
định; quyết định đinh giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập chứng
cứ; yêu cầu các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”[18].
- Về lấy lời khai của đương sự:
Các đương sự là người trực tiếp liên quan đến các tình tiết của vụ án. Vì vậy
việc lấy lời khai của các đương sự có ý nghĩa quan trọng trọng việc làm sáng tỏ nội
dung vụ án, yêu cầu của các đương sự là cơ sở để xác định đường lối giải quyết vụ
án. Về nguyên tắc, lời khai của đương sự do đương sự tự cung cấp, tự viết và ký
tên. Điều 86 BLTTDS quy định: “Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương
sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng.
Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự

không thể tự mình viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự”[18].
Trong quá trình lấy lời khai của đương sự trong vụ án ly hôn phải hỏi những
vấn đề để làm rõ: Thứ nhất, vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay
không; thứ hai, kiểm tra tính chất pháp lý của cuộc hôn nhân vì mỗi loại quan hệ
hôn nhân sẽ được giải quyết khác nhau; thứ ba, thu thập chứng cứ tập trung giải
quyết ba mối quan hệ là: tình cảm, con cái và tài sản.
- Về lấy lời khai của người làm chứng:
Người làm chứng là người không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
họ là người biết những tình tiết liên quan đến vụ án. Trong lời khai của người làm
chứng chứa đựng những tình tiết cần về vụ án giúp cho Tòa án tìm ra sự thật khách
quan của vụ án. Do đó, cần phải lấy lời khai của người làm chứng. Điều 87
BLTTDS quy định những trường hợp cần phải lấy lời khai của người làm chứng là
trường hợp “theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết”. Tuy vậy, lời
khai của người làm chứng có thể bị sai lệch và không phù hợp với sự thật khách
quan chẳng hạn như trong trường hợp bị mua chuộc, dụ dỗ, đe dọa, cố tình khai báo
sai sự thật, không nhớ rõ sự việc. Các lời khai của người làm chứng lúc đó phải


12

được đánh giá cùng các chứng cứ khác của vụ án để đánh giá độ xác thực của lời
khai từ người làm chứng.
- Về xem xét thẩm định tại chỗ:
Những vụ án ly hôn mà các đương sự có tranh chấp về tài sản là các bất động
sản, vật không thể di chuyển được nếu đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại
chỗ và xét có căn cứ thì Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ. Theo Điều 89
BLTTDS, việc xem xét thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có
mặt của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng
cần xem xét, thẩm định tại chỗ. Đối với đương sự, Tòa án cần thông báo việc xem
xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến.

- Về trưng cầu giám định:
Trong trường hợp việc đánh giá chứng cứ cần phải sử dụng các kiến thức
chuyên môn như xác định chữ viết, chữ ký, xác định AND,.v.v. và có yêu cầu của
đường sự về việc trưng cầu giám định, Tòa án cần trưng cầu giám định khoa học.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người
đưa ra chứng cứ có quyền rút lại chứng cứ; nếu không rút lại, người tố cáo có quyền
yêu cầu Tòa án tiến hành trưng cầu giám định xác định tính hợp pháp của chứng cứ.
Trong trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì chuyển cho cơ
quan điều tra và người đưa ra chứng cứ giả mạo có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác.
Tòa án chỉ tiến hành trưng cầu giám định theo sự thỏa thuận lựa chọn của các
đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự (Điều 90 BLTTDS).
- Về định giá tài sản:
Tại Điều 92 BLTTDS quy định, định giá tài sản là một trong các biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án được chính xác, nhất
là khi có tranh chấp tài sản chung của vợ, chồng như nhà, đất, xe,… Nghĩa vụ nộp
tiền tạm ứng chi phí định giá, xử lý tiền tạm ứng chi phí định giá và nghĩa vụ nộp tiền
chi phí định giá được quy định tại các điều: Điều 140, Điều 141, Điều 142 BLTTDS.
Định giá tài sản là một biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án
trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án nên Tòa án phải ra quyết định thành lập Hội


13

đồng định giá tài sản. Thành phần của Hội đồng định giá tài sản và thủ tục thực hiện
định giá tài sản được quy định tại Điều 92 BLTTDS và Nghị quyết số 04/2005/NQHĐTP. Các đương sự được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định
giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc định giá. Đương sự ở nước ngoài
có thể ủy quyền cho người khác tham gia buổi định giá nếu không có ai đại diện cho
họ thì cần mời đại diện thân nhân của họ đến chứng kiến về buổi định giá và đề
nghị họ báo cáo cho đương sự ở nước ngoài biết kết quả định giá.

Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án quyết định trưng cầu giám định theo
sự đề nghị của các bên đương sự hoặc theo đề nghị của một bên đương sự. Nếu
trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng thì Toà án ra
quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Đối với những vụ án mà các đương sự không thoả thuận được với nhau về tài
sản, giá của tài sản mà yêu cầu Toà án định giá tài sản hoặc thoả thuận giá thấp hơn
nhằm trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí thì Toà án sẽ quyết định thành lập Hội
đồng định giá tài sản.
Thứ tư, hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Ly hôn là loại án dân sự có tính đặc thù riêng so với các loại án dân sự khác
còn lại. Dưới góc độ xã hội, ly hôn là một hiện tượng bất bình thường đặt ra cho xã
hội không ít những vấn đề cần giải quyết. Do đó, trong giải quyết ly hôn, cần tích
cực trong công tác hòa giải, giúp hai bên đương sự có điều kiện hóa giải những mâu
thuẫn, xung đột đi đến hàn gắn những rạn nứt trong mối quan hệ hôn nhân, để quay
lại với nhau, gia đình được đoàn tụ, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi
dưỡng con cái trưởng thành. Trong trường hợp không hòa giải được để hai bên hàn
gắn những rạn nứt trong quan hệ vợ chồng thì việc hòa giải vẫn rất cần thiết để giúp
các đương sự thỏa thuận được những vấn đề cơ bản về con chung và tài sản.
Theo Điều 10 BLTTDS quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải
và tạo điều kiện thuận lợi để đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
việc dân sự theo quy định của BLTTDS” và khoản 1 Điều 180 BLTTDS quy định:
“Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các
đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được


14

hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 181 và Điều
182 của Bộ Luật này”[18]. Như vậy hòa giải trong giải quyết vu án ly hôn là một
thủ tục bắt buộc trừ trường hợp quan hệ hôn nhân là không hợp pháp (Điều 181

BLTTDS). Nếu vụ án ly hôn thuộc trường hợp phải tiến hành hòa giải song đã được
Tòa án giải quyết bằng một bản án, quyết định mà không có thủ tục hòa giải thì đã
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và bản án, quyết định đó có thể bị hủy.
Trước khi tiến hành phiên hòa giải, Tòa án phải thông báo cho các đương sự
biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa
giải ( Điều 183 BLTTDS).
Thành phần tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 184 BLTTDS bao
gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải; Thư ký ghi biên bản hòa giải; các đương sự
hoặc người đại diện hợp pháp của họ; Người phiên dịch nếu đương sự không biết
tiếng việt; Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan tham gia phiên hòa giải.
Trình tự tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 185a BLTTDS. Trong hòa
giải ly hôn, việc hòa giải là cả một nghệ thuật, người Thẩm phán không chỉ là người
chủ trì pháp lý của phiên hòa giải mà còn là một nhà tâm lý học. Trong suốt quá
trình tiến hành hòa giải, thái độ cảm thông, chia sẻ, biết lắng nghe kết hợp với
những lý lẽ thấu tình đạt lý từ kiến thức xã hội, truyền thống đạo đức, tình cảm gia
đình được Thẩm phán vận dụng linh hoạt nhằm hóa giải những mâu thuẫn giữa hai
bên, xoa dịu những xung đột để người vợ, người chồng có thể bình tĩnh ngồi lại với
nhau nhìn nhận về cuộc hôn nhân của mình. Rất nhiều các trường hợp, nhờ có hòa
giải giải quyết ly hôn, các bên đương sự đã trở về với nhau, cùng chung sống và vun
đắp hạnh phúc gia đình.
Việc quy định bắt buộc hòa giải trong giải quyết vụ án ly hôn tại Tòa án là
xuất phát từ nguyên tắc chung được quy định tại Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự
về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, trong đó quy định các đương sự
có quyền thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức
xã hội nên trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn trước khi đưa vụ án ra xét xử Toà


15


án phải tiến hành hoà giải để các đương sự tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án.
Về nội dung hòa giải trong giải quyết ly hôn, vấn đề cốt lõi cần được các bên
thỏa thuận với nhau giải quyết chính là quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người
chồng. Đây là mâu thuẫn chính giữa các bên cần được thỏa thuận. Ngoài ra, vấn đề
con cái, tài sản và án phí cũng sẽ được các bên bàn bạc, thương lượng với nhau.
Về kết quả hòa giải, đối với vụ án ly hôn, hòa giải thành được xác định là
hòa giải đoàn tụ thành. Kết quả hòa giải dẫn đến việc xác lập các quyết định pháp lý
đối với từng trường hợp ly hôn khác nhau là khác nhau. Cụ thể:
Trường hợp hai bên cùng yêu cầu xin ly hôn nhưng hòa giải đoàn tụ không
thành và thỏa thuận được về tài sản, con chung Tòa án lập biên bản về việc tự
nguyện ly hôn và hòa giải đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày
lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai không có sự thay đổi ý kiến cũng như
VKS không có sự phản đối thỏa thuận đó thì Tòa án ra quyết định công nhận thuận
tình ly hôn mà không mở phiên tòa. Cũng trong trường hợp cả hai bên cùng yêu cầu
xin ly hôn nhưng hòa giải đoàn tụ không thành và không thỏa thuận được các vấn
đề về con chung, tài sản hoặc các thỏa thuận này không đảm bảo được quyền lợi
chính đáng của vợ, con thì Tòa án lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành đồng
thời tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
Trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu, nếu hòa giải đoàn tụ thành mà
nguyên đơn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án. Nếu nguyên đơn không rút đơn thì Tòa án lập biên bản hòa giải đoàn
tụ thành, sau thời hạn 7 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có
đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa
giải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong thời hạn 5 ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa
án phải gửi ngay quyết định này cho đương sự và VKS cùng cấp. Trường hợp hòa
giải đoàn tụ không thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, đồng
thời tiến hành mở phiên tòa theo thủ tục chung.



16

Nội dung biên bản hòa giải phải tuân theo quy định tại khoản 1 Điều 186
BLTTDS. Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có
mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của thư ký Tòa án, thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.
Thứ năm, các quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
- Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.
Trong trường hợp hai bên thỏa thuận thuận tình ly hôn và thỏa thuận được
các vấn đề về tình cảm, tài sản, con cái và cả án phí thì trong thời hạn 7 ngày kể từ
ngày lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành, nếu các đương sự
không thay đổi về ý kiến của mình về sự thỏa thuận đó thì Tóa án căn cứ vào các
Điều 187, Điều 188 BLTTDS và Điều 90 Luật Hôn nhân và gia đình ra quyết định
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.
- Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là việc Tòa án tạm ngưng việc giải quyết vụ án
khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Đặc điểm của quyết định này là cơ quan
tiến hành tố tụng chỉ tạm thời cho ngừng việc giải quyết vụ án chứ không phải
ngừng hẳn việc giải quyết vụ án. Tính chất gián đoạn tạm thời này sẽ được khắc
phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ được khôi phục khi nguyên nhân của việc tạm đình
chỉ không còn nữa. Mục đích của việc ra Quyết định này là đảm bảo giải quyết vụ
án không bị vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử.
Căn cứ để Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án ly hôn là Điều
189 BLTTDS. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 194 BLTTDS, trong thời hạn 5
ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, Tòa án phải gửi quyết định đó
cho đương sự và VKS cùng cấp.
- Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Đình chỉ giải quyết vụ án là việc Tòa án quyết định ngừng việc giải quyết vụ
án khi có nững căn cứ do pháp luật quy định. Đặc điểm của quyết định này là sau
khi ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án ly

hôn sẽ ngừng lại.
Các căn cứ để Tòa án ra quyết định giải quyết vụ án ly hôn:


17

Một là, các căn cứ được quy định tại Điều 192 BLTTDS.
Hai là, sau khi thụ lý vụ án mà có các căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS
như: Vụ án đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; hết thời hạn được thông báo theo
quy định tại khoản 2 Điều 171 BLTTDS; sự việc không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.
Ba là, trong trường hợp, khi người khởi kiện rút đơn khởi kiện thì Tòa án
xem xét trong vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không để quyết định có đình chỉ giải quyết vụ
án hay không (quy định giải quyết trường hợp này tại mục 10 phần II Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP).
- Quyết định đưa vụ án ra xét xử:
Vụ án sau khi tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật, nếu các đương
sự trong vụ án không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án mà hồ sơ
vụ án đã thu thập được đầy đủ tài liệu chứng cứ thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử đánh dấu kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét
xử chuyển sang giai đoạn xét xử tại phiên tòa. Do đó việc ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử phải trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Nếu quá thời hạn chuẩn bị xét xử mới ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử có nghĩa đã vi phạm tố tụng. Việc ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử có nghĩa là các chứng cứ đã thu thập đầy đủ và Tòa án đã ấn định
được ngày mở phiên tòa giải quyết vụ án ly hôn.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử có các nội dung quy định tại tại khoản 1 Điều
195 BLTTDS. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự,
VKS cùng cấp ngay sau khi ra quyết định. Trường hợp VKS tham gia phiên tòa thì

Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kể từ ngày ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa trong thời hạn một tháng,
tối đa là hai tháng khi có lý do chính đáng.
Các quyết định nêu trên đều phải được ban hành theo mẫu kèm theo Nghị
quyết số 02/2006/NQ-HĐTP.


18

1.1.3. Phiên tòa sơ thẩm vụ án ly hôn
1.1.3.1. Quy định chung về phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Mục 1 Chương XIV và một số điều
khác của BLTTDS bao gồm các vấn đề cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định các thủ tục buộc phải có trong phiên tòa sơ thẩm như: Nguyên tắc tiến hành
phiên tòa sơ thẩm, thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX), những người tham gia
phiên tòa sơ thẩm và hoãn phiên tòa sơ thẩm.
- Về nguyên tắc tiến hành phiên tòa sơ thẩm:
Để giải quyết đúng được các vụ án ly hôn, việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm
phải được thực hiện một cách chu đáo, nghiêm túc, phải tuân thủ đầy đủ những
nguyên tắc của tố tụng dân sự quy định tại các điều từ Điều 3 đến Điều 24 của
BLTTDS. Ngoài ra, vì sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa là rất quan trọng
cho nên phiên tòa sơ thẩm cần phải tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa trong
trường hợp hoãn phiên tòa ( Điều 196 BLTTDS). Từ đó, bảo đảm cho các đương sự
tham gia phiên tòa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài những yêu cầu trên, BLTTDS còn quy định phiên tòa sơ thẩm dân sự
phải được tiến hành theo phương thức xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục
(Điều 197 BLTTDS). Điều này là cần thiết nhằm giúp cho Tòa án thẩm định và xác
minh được đầy đủ, chính xác các tài liệu, chứng cứ của vụ án và đánh giá chứng

một cách toàn diện. Việc xét xử ở phiên tòa phải được tiến hành liên tục trừ thời
gian nghỉ. Các thành viên của HĐXX phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu đến khi kết
thúc, trừ trường hợp không thể tham gia xét xử được thì phải thay đổi thành phần
HĐXX. Trong trường hợp đặc biệt được BLTTDS quy định thì việc xét xử có thể
tạm ngưng không quá 5 ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án
được tiếp tục.
- Về thành phần Hội đồng xét xử:
Theo quy định tại Điều 52 BLTTDS, thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án ly
hôn gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì
HĐXX có thể gồm 2 Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.


19

Trong quá trình xét xử, nếu có một thành viên nào của HĐXX vì lý do đặc
biệt không thể tham gia xét xử vụ án nữa thì việc thay thế thành viên đó quy định tại
Điều 198 BLTTDS.
- Về những người tham gia phiên tòa sơ thẩm:
Những người tham gia phiên tòa sơ thẩm được quy định từ Điều 199 đến
Điều 207 của BLTTDS. Đáng chú ý nhất là các quy định về sự có mặt của VKS.
Theo LSĐBSBLTTDS năm 2011, sự tham gia phiên tòa sơ thẩm của kiểm sát viên
được quy định tại Điều 21 và Điều 207, theo đó: Kiểm sát viên tham gia phiên toà
sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu
nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án (khoản 2 Điều 21). Việc quy định này một
mặt nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt, tự do thỏa thuận của đương sự, một mặt
đảm bảo cho VKS hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình khi giám sát, kiểm tra
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án do hoạt động này có thể sai sót, thiếu minh
bạch hoặc vi phạm thủ tục tố tụng mà cơ sở của hành vi này là một bên đương sự
không có khả năng thu thập chứng cứ và yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
- Về hoãn phiên tòa:

Việc hoãn phiên tòa được quy định tại Điều 208 BLTTDS. Phiên tòa sơ thẩm
dân sự giải quyết vụ án ly hôn có thể bị hoãn khi phải thay đổi Thẩm phấn, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch
hoặc do sự vắng mặt của các bên đương sự, những người tham gia tố tụng khác
hoặc các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 72, các điều
199, 200, 201,203, 204, 205, 206, 207, 215 và khoản 4 Điều 203 BLTTDS. Thời
hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên
tòa. Việc hoãn phiên tòa do HĐXX quyết định.
Thủ tục hoãn phiên tòa được quy định tại Điều 210 BLTTDS. Quyết định
hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX ký tên và thông báo
công khai cho những người tham gia tố tụng biết; đối với những người vắng mặt thì
Tòa án gửi ngay cho họ quyết định đó đồng thời gửi cho VKS cùng cấp. Quy định
này có tác dụng tránh việc hoãn phiên tòa tùy tiện, không đúng các căn cứ do pháp
luật quy định.


20

1.1.3.2. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định từ Điều 213 đến Điều 216
BLTTDS, bao gồm các thủ tục sau:
Thứ nhất, thủ tục khai mạc phiên tòa: Thủ tục này bao gồm các công việc
sau: Khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử; Thư ký báo cáo với
HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu
tập phiên tòa, giấy báo của Tòa án và lý do vắng mặt; Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại
sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa
án và kiểm tra căn cước của các đương sự; Chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền, nghĩa
vụ của các đương sự và của người tham gia tố tụng khác; Chủ tọa phiên tòa giới
thiệu họ, tên của những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch;
Chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành

tố tụng, người giám đinh, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai hay không.
Thứ hai, Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch quy định tại Điều 214 BLTTDS.
Thứ ba, Xem xét quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt quy định
Điều 215 BLTTDS.
Thứ tư, Bảo đảm khách quan của người làm chứng quy định tại Điều 216
BLTTDS.
1.1.3.3. Thủ tục hỏi tại phiên tòa
Thủ tục hỏi tại phiên tòa được quy định từ Điều 217 đến Điều 231. Thủ tục
hỏi tại phiên tòa chính là hoạt động xác minh, thẩm tra công khai, trực tiếp tại phiên
tòa các chứng cứ đã được thu thập trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Thông qua việc
xét hỏi, các đương sự trình bày được ý kiến, nguyện vọng của mình trước HĐXX,
đại diện VKS. Mục đích của việc hỏi tại phiên tòa nhằm tìm ra tính chính xác,
khách quan, tính hợp pháp của vụ án để từ đó HĐXX ra một phán quyết đúng đắn
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
1.1.3.4. Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm là hoạt động trung tâm của phiên tòa, bảo
đảm cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án,


×