HAM KHẢO BÀI TẬP LỚN LÝ LUẬN CHUNG NHÀ NƯỚC
Thảo luận trong 'Bài tập nhóm, tiểu luận, luận văn...' bắt đầu bởi linhluat_vinh, 17 Tháng mười một 2009.
Theo dõi chủ đề
1.
linhluat_vinhNew Member
Mở
đầu
1.
Lý
do
chọn
đề
tài
Pháp luật nảy sinh từ lịch sử và phát triển theo tiến trình riêng. Pháp luật ra đời từ khi nhà nước
xuất hiện. Xét về phương diện khách quan, nhà nước và pháp luật cùng phát sinh từ một nguồn
gốc, là kết quả của sự phát triển kinh tế và phân hoá xã hội. Xét về phương diện chủ quan, pháp
luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và trở thành một phương tiện của nhà nước để bảo
vệ địa vị của lực lượng thống trị, điều hành và quản lý xã hội.
Trong các tổ chức cộng đồng nguyên thuỷ trước đây, quan hệ giữa các thành viên được điều
chỉnh bằng phong tục tập quán, điều chỉnh các quan hệ bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội,
gọi là luật tục. Nhưng đến khi xã hội có sự phân hố về giai cấp, nhà nước được hình thành,
quốc gia được xác lập, thì luật tục khơng cịn khả năng điều hành các quan hệ xã hội vốn ln
phát striển cả về phạm vi, mức độ, và tính chất. Để đáp ứng nhu cầu khách quan của xã hội đó,
một
loại
quy
phạm
mới
đã
ra
đời,
đó
là
pháp
luật
.
Tuy nhiên, trong lịch sử nhà nước và pháp luật luật tục được sử dụng nhiều trong hệ thống pháp
luật của nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Trong nhà nước tư sản, luật tục vẫn tồn tại
nhiều,
nhất
là
ở
các
nước
có
chế
độ
quân
chủ.
Riêng ở Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, luật tục tồn tại khá nhiều ở các cộng đồng dân tộc
ít người nhưng là nguồn của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật mang đậm bản sắc văn hóa
truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Hệ thống luật tục giữ vai trị vơ cùng quan trọng trong
việc gắn kết cộng đồng, trong tự quản ở cộng đồng dân cư, điều hịa xã hội, trong việc giữ gìn
bản
sắc
dân
tộc.
Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em với hơn 2000 năm hình thành và phát triển nên có nền văn
hóa dân tộc rất phong phú và đa dạng. 54 dân tộc là 54 giá trị và sắc thái văn hóa riêng nhưng
lại cùng chung một tình đồn kết gắn bó trong việc bảo vệ Tổ quốc từ xưa đến nay.
Nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, người Việt Nam đặc biệt là cộng đồng các dân
tộc ít người đã chịu sự tác động rất lớn từ những mặt trái của xã hội, công tác tự quản của cộng
đồng bản làng, thơn xóm cũng chịu sự tác động đó. Qua những khảo sát sơ bộ cho thấy, cộng
đồng bản làng, thơn xóm cũng như cơng tác tự quản trong cộng đồng có nhiều hạn chế, tệ nạn
xã hội phát triển nhanh và nhiều hơn, an ninh trật tự ngày càng phức tạp, đồn kết cộng đồng
khơng cịn được như trước nữa, tài nguyên môi trường bị xâm hại....
Đứng trước những thách thức về những ảnh hưởng không tốt của nền kinh tế thị trường đối với
thuần phong mỹ tục của các dân tộc, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: "Bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chư viết và
thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử , văn hóa. Tiếp thu tinh hoa và
góp phần làm phong phú thêm văn hóa của nhân loại" [14]. Đến Đại hội X một lần nữa Đảng ta
lại khẳng định: "Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế-xã hội, làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội" [15].
Vấn đề vận dụng phong tục tập quán, luật tục của các dân tộc vào quản lý xã hội, quản lý cộng
đồng là yêu cầu khách quan, phù hợp với định hướng lãnh đạo của Đảng Cùng với vai trò gắn
kết cộng đồng và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một bản làng, thơn xóm hay một tộc
người, tuy nhiên luật tục chưa được coi trọng để kết hợp với pháp luật quản lý và tự quản trong
cộng
đồng.
Từ vị trí và vai trị ý nghĩa và quan trọng của luật tục trong hệ thống pháp luật nêu trên, tôi xin
chọn đề tài "Mối quan hệ của luật tục với pháp luật trong tự quản cộng đồng" cho bài tiểu luận
của
mình.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa luật tục và pháp
luật
trong
tự
quản
cộng
đồng.
Phạm
vi
nghiên
cứu
của
đề
tài
gồm:
+
Luật
tục
trong
tự
quản
cộng
đồng.
+
Giải
pháp
để
vận
dụng
luật
tục
trong
tự
quản
cộng
đồng.
2.
Mục
đích
và
nhiệm
vụ
của
đề
tài
Mục đích của đề tài này là phân tích trên cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất các giải pháp
vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng phù hợp với tình hình hiện nay.
Phù
hợp
với
mục
đích
trên,
đề
tài
có
nhiệm
vụ
sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng, cụ thể là khái niệm, đặc
điểm, vai trò của luật tục trong tự quản cộng đồng; khái niệm cộng đồng, tính cộng đồng; mối
quan
hệ
giữa
luật
tục
và
luật
pháp.
- Phân tích các yêu cầu vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng, sử dụng luật tục trong hệ
thống
luật
pháp.
- Đề xuất các giải pháp vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng, sử dụng luật tục tiến bộ
trong
pháp
luật
hiện
nay.
3.
Cơ
sở
lý
luận
và
phương
pháp
nghiên
cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, về dân tộc và các quan điểm của Đảng về đổi mới Nhà nước và pháp
luật.
Phương pháp nghiên cứu là các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử Mác-Lênin trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp xã hội học và luật học so sánh.
Với quá trình lịch sử phát triển lâu dài và phong phú, đề tài luật tục đã được nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu có một số cơng trình nghiên cứu sau:
- "Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam", (kỷ yếu hội thảo khoa học), NXB Chính
trị
quốc
gia,
Hà
Nội
2000.
- "Tìm hiểu luật tục các dân tộc ở Việt Nam", GS Ngô Đức Thịnh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
2003.
- "Luật tục Thái ở Việt Nam", GS Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
2003.
- "Luật tục và vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên; những gợi ý nhăm hòa hợp luật thành văn
và luật tục châu á", John Ambler - Mỹ, Luật tục và phát triển nông thơn hiện nay ở Việt Nam,
NXB
Chính
trị
quốc
gia,
Hà
Nội
2000.
4.
Kết
cấu
đề
tài:
Bài
tiểu
luận
được
chia
như
sau:
APhần
mở
BNội
Chương
1:
Khái
qt
về
luật
1.1
Khái
niệm
luật
1.2
Đặc
điểm
của
luật
1.3
Vai
trị
của
luật
tục
trong
tự
quản
cộng
Chương 2: Mối quan hệ của luật tục trong tự quản công đồng và các giải pháp để van
2.1 Mối quan hệ của luật tục và pháp luật trong tự quản cộng
2.2
Khắc
phục
những
hạn
chế
của
luật
2.3
Vận
dụng
luật
tục
tiến
bộ
dưới
hình
thức
hương
ước
đầu
dung
tục:
tục.
tục.
đồng.
dụng.
đồng.
tục.
mới.
2.4
2.5Đa
CDChương
Khái
Kết
dạng
hợp
hóa các
Danh
chặt
chẽ
giữa
luật
tục
hình thức giáo dục pháp luật, luật
Kết
mục
tài
liệu
qt
về
và
pháp
tục trong nhân
tham
luật
luật.
dân.
luận
khảo
1:
tục
1.1
Khái
niệm
về
luật
tục
Luật tục hay tập quán pháp là một hình thức pháp luật cổ xưa nhất , giữ vai trò thống trị trong
các xã hội tiền nhà nước . Trên thế giới , từ kiểu nhà nước chủ nô đến kiểu nhà nước phong
kiền, hay ở các nước có chế độ quân chủ trong nhà nước tư sản, luật tục đã được sử dụng khá
nhiều trong hệ thống pháp luật với vai trò là một nguồn luật cơ bản.
Đối với Việt Nam, ngay từ nhà nước đầu tiên thời đại Văn Lang - Âu Lạc, luật chung của người
Lạc Việt căn cứ theo lời tâu của Mã Viện với vua Hán Quang Vũ ("luật Việt khác luật Hán mười
điều") thì rất có thể đó chính là một thứ luật tục hay tập quán pháp. Tài liệu dân tộc học cũng
cho biết, ở xã hội các cư dân Tây Nguyên cũng như ở các xã hội sơ khai khác, mỗi cộng đồng tộc
người đều có luật tục (hoặc thành văn, hoặc truyền miệng ). Trong xã hội sau này, kể cả dân tộc
đa số như dân tộc Kinh cũng có luật tục (hương ước) và các dân tộc khác đều có luật tục để điều
chỉnh
quan
hệ
trong
cộng
đồng
mình.
"Luật tục là những qui tắc xử sự chung mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng làng xã xây
dựng nên và được truyền từ đời này sang đời khác".[1, tr 528] Luật tục phần lớn mang tinh thần
bình đẳng của cả cộng đồng trên các phép tắc tín ngưỡng cổ truyền cho nên khi có nội dung phù
hợp với tiến bộ xã hội, trật tự xã hội thì được Nhà nước thừa nhận, cịn nếu cổ hủ , lạc hậu, mê
tín dị đoan thì sẽ bị Nhà nước cấm đốn. Luật tục có thể tồn tại bằng truyền miệng hoặc có thể
được ghi bằng văn bản. Văn bản luật tục có thể tồn tại dưới hình thức đơn giản như hương ước,
nhưng cũng có thể được xây dựng dưới dạng bộ luật như bộ luật tục của dân tộc ÊĐê 11
chương, 236 điều. Luật tục khác với tập qn thơng thường ở tính bắt buộc thực hiện bởi vì đó
chính là pháp luật của các cộng đồng làng xã hoặc của cả một dân tộc thiểu số.
Luật tục hay tập quán pháp là một hiện tượng phổ biến của nhân loại ở thời kì phát triển tiền
cơng nghiệp và còn tồn tại đến ngày nay ở nhiều tộc người trên thế giới, châu á và châu Phi. ở
Việt Nam, luật tục của các dân tộc thiểu số và hương ước của người Việt còn tồn tại khá phổ biến
và được nhà nước quan tâm phát triển những bản sắc truyền thống tốt đẹp cùng với việc thừa
nhận
chúng
là
một
hình
thức
pháp
luật.
Tuy nhiên, luật tục trên thế giới cũng như ở Việt Nam khơng hồn tồn giống nhau mà có nét
riêng biệt về tín ngưỡng, tơn giáo, các quan hệ xã hội và tục lệ của mỗi cộng đồng làng xã và
dân tộc mình.Chính vì thế, khi thừa nhận luật tục, nhà nước ln phải có sự tìm hiểu về văn hóa
cũng như tục lệ của địa phương để có sự quản lí tốt hơn về việc tự quản cộng đồng, bảo vệ môi
trường,
phát
triển
kinh
tế
xã
hội.
1.2.
Đặc
điểm
của
luật
tục
Luật tục là sản phẩm của những xã hội cổ truyền, phản ánh những điều kiện, đặc điểm riêng của
xã hội đó. Nội dung của luật tục cũng phản ánh những đặc trưng của xã hội cổ truyền ấy. Đó là
các hình thức sở hữu đất đai, rừng núi, mà phổ biến nhất là hình thức sở hữu của cộng đồng,
bản
làng.
Luật tục có sự hình thành và phát triển trước luật pháp, các nhà nước chủ nô và phong kiến
trước đây thường sử dụng nó làm tiền đề để xây dựng pháp luật. Hiện nay, luật tục tiến bộ được
coi là một hình thức pháp luật (tập quán pháp) nếu được Nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên, luật
tục có những điểm khơng đồng nhất với luật pháp, thậm chí có những điểm cịn trái ngược với
luật
pháp.
Giữa luật tục và pháp luật có những điểm tương đồng và cũng có nhiều điểm khác biệt nhau :
Sự
tương
đồng
giữa
luật
tục
và
pháp
luật
:
Trước hết, cả luật tục và pháp luật về cơ bản đều có cùng mục đích là tạo ra sự trật tự và ổn
định cho xã hội, vì chúng điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cách cư xử của cá nhân
theo
khuôn
mẫu
chung.
Hai là, pháp luật và luật tục đều có nội dung điều chỉnh phong phú, liên quan tới nhiều mặt của
đời
sống
kinh
tế,
chính
trị,
xã
hội.
Ba là, cơ cấu, tính chất của luật tục có nhiều nét tương đồng với pháp luật như các quan niệm về
tội
phạm,
về
tang
chứng,
về
chế
tài...
Bốn là, cả luật tục và pháp luật được thực thi trong sự kết hợp với các yếu tố khác như: đạo đức,
dư
luận,
thiết
chế.
Sự
khác
biệt
giữa
luật
tục
với
pháp
luật
:
Một, tuy luật tục và pháp luật đều có mục đích chung là điều hoà các quan hệ xã hội , nhưng
phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội lại khác nhau. Pháp luật điều chỉnh trong phạm vi cả
nước, còn luật tục điều chỉnh trong phạm vi một cộng đồng hẹp hơn (như dân tộc Êđê hay bản
mường của người Thái). Do vậy, luật tục mang tính riêng, tính đặc thù trái với pháp luật bao giờ
cũng
mang
tính
phổ
quát.
Hai, luật tục thể hiện ý chí và sự đồng thuận của cộng đồng bản làng, cịn pháp luật mang tính
nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và có tính áp đặt cao.
Ba, luật tục có sự hình thành lâu dài trong lịch sử, chủ yếu là sự tích lũy, chắt lọc các kinh
nghiệm trong đời sống và sinh hoạt xã hội, không do một cá nhân nào qui định mà bao gồm tình
cảm, ý nguyện của cả một cộng đồng. Trái lại, mỗi văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
do một nhóm người soạn thảo, đề xuất, thể hiện ý chí giai cấp thống trị trong xã hội đó.
Bốn, về cơ bản, luât tục tồn tại dưới dạng truyền miệng hay các câu châm ngôn mang đậm
phong tục địa phương (như "Luật Mường" của dân tộc Thái) do vậy nó mềm dẻo,uyển chuyển
hơn trong thực thi; cịn pháp luật thì tồn tại dưới dạng văn bản, người dân phải học, phải đọc
mới
nhớ.
Năm, cơ cấu các điều luật cụ thể và việc thực thi pháp luật của nhà nước khác biệt nhiều so với
luật tục. Luật tục có các điều luật đơn giản, cơ động hơn so với pháp luật; các hình thức chế tài
của luật pháp khá chi tiết và chặt chẽ, cịn luật tục thì ngồi hình thức khun răn, giáo dục là
chính thì các hình phạt chủ yếu là đền bù tài sản và thực hành nghi lễ để tạ tội; pháp luật đi liền
với các công cụ tạo án, nhà tù, còn luật tục chủ yếu là hồ giải, khơng có hình phạt giam cầm và
nhà
tù...
Đặc trưng của luật tục đó chính là hình thức trung gian giữa hai yếu tố "luật" và "tục". Hay nói
cách khác, nó là hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ và là hình thức sơ khai, hình thức
tiền luật pháp. Chính vì thế, hình thức luật tục này phù hợp với xã hội tiền công nghiệp, phù hợp
với các cộng đồng nhỏ hẹp gắn với từng nhóm tộc người, từng địa phương cụ thể.
Mặt khác, luật tục cũng chính là tấm gương phản chiếu nhiều mặt của đời sống: môi trường thiên
nhiên và môi trường xã hội, thế giới trần tục và thế giới linh thiêng, quan hệ sản xuất và phân
phối trong xã hội, quan hệ xử lí trong gia đình và dịng họ, tổ chức chính trị xã hội, tín ngưỡng
và tơn giáo, luật pháp và đạo đức...Đặc biệt, luật tục tìm cách xử lý những mối qua hệ giữa xã
hội con người với xã hội linh thiêng. Có thể thấy điều đó ở khắp nơi trên thế giới như luật tục của
người theo đạo Do Thái được thể hiện theo kinh Talmud, luật tục của người theo đạo Kitô được
thể hiện trong kinh thánh, luật tục của người theo đạo Hồi được thể hiện theo kinh Coran...Qua
các luật tục ấy có thể thấy rằng luật tục không những chỉ quan tâm tới mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác trong xã hội loài người mà còn
quan tâm xử lý mối quan hệ giữa thế giới trần tục và thế giới linh thiêng, giữa con người và thần
linh.
1.3
Luật
tục
trong
tự
quản
cộng
đồng
1.3.1
Cộng
đồng
và
tính
cộng
đồng
Khái niệm cộng đồng (community) được sử dụng rộng rãi trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội (như cộng đồng kinh tế châu Âu, cộng đồng các quốc gia Đông Nam á, cộng đồng
các dân tộc Tây Nguyên...). Theo nghĩa này, cộng đồng vừa mang những giá trị chung mà mỗi
thành viên thừa nhận và tuân theo, vừa tôn trọng sự phát triển độc lập của mỗi thành viên trong
các quan hệ hợp tác với nhau. ở Việt Nam, khái niệm cộng đồng được dùng rộng rãi trong các
lĩnh vực văn hóa , xã hội như cộng đồng dân cư, cộng đồng làng xã, cộng đồng văn hóa....
Theo nhiều nhà khoa học, cộng đồng được hiểu: "là tập hợp người có tính chất một xã hội,
chung sống, có nhiều đặc tính của cải và quyền lợi chung" [5, tr.214]; "là một tập thể có nhiều
thành viên gắn bó với nhau bằng những giá trị chung. Cộng đồng có một sự cố kết nội tại không
phải do những qui tắc rõ ràng, những luật pháp thành văn, mà do những liên hệ sâu hơn: huyết
thống, truyền thống..."[2, tr.45]; "là khối người cùng chung một tổ chức" [3, tr.137]: "là toàn thể
những người sống thành một xã hội, nói chung có những điểm giống nhau, gắn bó thành một
khối
"
[4,
tr.205]
....
Như vậy, qua phân tích ở trên có thể rút ra khái niệm cộng đồng một cách khái quát nhất, chung
nhất như sau: Cộng đồng là một tập thể, có những thành viên gắn bó với nhau thành một tổ
chức
và
cơ
bản
có
chung
mục
đích.
Khái niệm cộng đồng có quan hệ với khái niệm tính cộng đồng. Tính cộng đồng là một yếu tố
gần như bẩm sinh của con người bởi vì con người có nguồn gốc bầy, cộng với một q trình tiến
hóa dài từ cuộc sống bầy đàn mới sang giai đoạn cá nhân. Tính cộng đồng cũng trải qua những
thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Lúc đầu, trong các xã hội cổ xưa, tính cộng đồng lấn át
tính cá nhân, khơng cơng nhận cá nhân như một thực thể độc lập. Trong xã hội có quan hệ hàng
hóa - tiền tệ phát triển, các quan hệ sở hữu tư nhân phổ biến, tính cộng đồng chỉ là một mặt của
đời sống con người, bên cạnh tính cá nhân phát triển ngày càng cao.
Mối quan hệ giữa tính cộng đồng và tính cá nhân ln mang những mâu thuẫn, thậm chí xung
đột, nhưng bao giờ cũng có tính hữu cơ, khơng thể có tính cá nhân thật sự mà khơng có tính
cộng đồng thật sự và ngược lại. Tìm kiếm một sự kết hợp tối ưu của tính cộng đồng và tính cá
nhân là một địi hỏi khơng thể thiếu đối với mọi học thuyết về sự phát triển xã hội. Người ta càng
thấy rõ rằng khơng có những cá nhân phát triển thì khơng thể có một cộng đồng tự do của con
người, cũng như khơng có tính cộng đồng (ý thức trách nhiệm với cộng đồng) thì cũng khơng
thể
có
các
cá
nhân
phát
triển.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều chương trình của nhiều tổ chức trong nước và quốc tế đã phải
dựa vào cộng đồng để làm cơ sở cho định hướng phát triển, Các mục tiêu phát triển cộng đồng ở
Việt Nam được thể hiện trong rất nhiều chính sách về văn hóa, xã hội và kinh tế. Đây là những
chính sách được xây dựng chung cho tồn xã hội và có mục tiêu khuyến khích sự tăng trưởng
kinh tế đồng thời duy trì tính cơng bằng, đồn kết, thống nhất của các mối quan hệ cộng đồng
trong tồn quốc. Với các khu vực nơng thơn nghèo của đất nước, từ lâu Chính phủ đã có những
chính sách, chương trình tập trung phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là đối với các khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Những chính sách, chương trình nói trên
là những cơ chế phân phối lại, trong đó hỗ trợ bộ phận còn yếu của xã hội, những khu vực
nghèo của đất nước qua việc chuyển giao tài chính từ ngân sách nhà nước và qua việc nâng cao
nhận
thức
của
xã
hội
với
vấn
đề
cộng
đồng.
1.3.2 Vai trò của luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng
- Pháp luật và luật tục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Làm rõ nội dung mối quan hệ đó có ý
nghĩa về nhiều mặt, vừa làm phong phú thêm pháp luật vừa đảm bảo hiệu lực điều chỉnh của
pháp luật, phát huy được pháp luật trong hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện luật tục. Tuy nhiên, vấn đề
này rất phong phú và phức tạp nên trong đề tài này tôi chỉ tập trung làm rõ các nội dung của
mối
quan
hệ
trên
như
sau:
Thứ nhất, luật tục và pháp luật là những yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, đều bị quy định bởi
cơ sở kinh tế nhất định trên nền tảng kinh tế xã hội phù hợp. Luật tục và pháp luật do vậy có
mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Pháp luật tác
động ở phạm vi rộng, bao quát các quan hệ quan trọng, cơ bản. Luật tục tác động ở phạm vi
hẹp nhưng cụ thể, vì thế mà luật tục như " cánh tay kéo dài" của pháp luật, hỗ trợ, bổ sung cho
pháp
luật.
Thứ hai, luật tục và pháp luật cùng có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cùng hướng đến
trật tự xã hội. Nếu pháp luật hướng đến trật tự xã hội chung thì luật tục hướng đến trật tự cộng
đồng; pháp luật tạo lập đồng thuận xã hội thì luật tục tạo lập, củng cố đồng thuận cộng đồng.
Song, trật tự xã hội chỉ có thể tồn tại trên cơ sở trật tự của các cộng đồng. Ngược lại, trậ tự xã
hội được xác lập sẽ làm cho trật tự cộng đồng thêm vững chắc, ổn định.
Thứ ba, trong điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật có vị trí ưu trội hơn luật tục về hiệu lực, về cơ
chế và hình thức. Pháp luật ra đời nhằm duy trì trật tự trong xã hội đã có sự phân chia thành các
giai cấp đối kháng, nên pháp luật có tính giai cấp. Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp
thống trị, đàn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp khác. Pháp luật được thi hành bằng
cưỡng chế của Nhà nước. Là luật thành văn nên Nhà nước có thẩm quyền ban hành pháp luật
theo một thủ tục, trình tự chung có tính quy phạm chặt chẽ cả về nội dung và hình thức. Pháp
luật có hiệu lực, hiệu quả cao, có tính thống nhất về nội dung và tính phổ biến rộng rãi. Do vậy,
trong mối quan hệ với luật tục, pháp luật có hiệu lực cao hơn, cơ chế điều chỉnh được định hình
chặt chẽ hơn. Trong trường hợp giữa pháp luật và luật tục có sự xung đột thì luật tục phải tuân
thủ pháp luật, thể hiện ra ở sự tn thủ pháp luật. Pháp lt có vai trị hướng dẫn, định hướng
luật tục, làm cho luật tục ngày càng tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Vai
trò
của
luật
tục
Từ mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng có thể thấy luật tục có vị trí
độc lập tương đối với pháp luật. Và từ đây, việc vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng đòi
hỏi một mặt phải coi trọng pháp luật, đề cao pháp luật, song phải biết phát huy tính độc lập
tương đối của luật tục, cụ thể là chú ý những vấn đề có tính chất phương pháp luận sau:
Một, luật tục trong điều kiện nhất định có khả năng thay thế pháp luật. Pháp luật có tính thống
nhất trong phạm vi quốc gia và phản ánh được trình độ páht triển chung của xã hội. Song, trình
độ phát triển ở từng vùng, từng địa phương là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn cả
về trình độ phát triển, đời sống văn hoá, tinh thần, do đó khơng phải ở lúc nào, ở đâu pháp luật
cũng thâm nhập được vào cuộc sống, cũng có tác dụng điều chỉnh. Đối với vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, những qui định của pháp luật trên nhiều khía cạnh còn xa lạ đối với cộng đồng của
họ. Trong khi đó, luật tục với những giá trị tích cực của nó lại có tác dụng thay thế cho pháp
luật, đóng vai trị quan trọng và chủ yếu trong q trình điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể.
Thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực khi mà pháp luật chưa thật
sự thâm nhập sâu vào trong thực tế thì vai trị của luật tục thay thế pháp luật là rất cần thiết,
nhất
là
trong
tự
quản
ở
cộng
đồng
dân
cư.
Hai, bên cạnh việc có thể thay thế pháp luật, luật tục trong nhiều trường hợp cịn có khả năng bổ
sung cho pháp luật. Trong điều kiện một quốc gia có nhiều sắc tộc cùng sinh sống với trình độ
phát triển khá chênh lệch nhau, vơi trình độ xây dựng luật pháp của các cơ quan nhà nước cịn
hạn chế thì pháp luật càng khơng thể điều chỉnh hết các tình huống xảy ra trong thực tiễn. Trong
khi đó, mỗi tộc người đã có một hệ thống luật tục được đúc kết, sàng lọc qua nhiều thế hệ, được
kiểm nghiệm qua thực tiễn điều chỉnh các quan hệ trong nội bộ tộc của người đó, và phần nào
đã khẳng định được vai trị điều hịa xã hội thì rõ ràng ở đây luật tục sẽ bổ sung các quy định
còn thiếu của pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật thực hiện được vai trị quản lý xã hội có hiệu
quả, đáp ứng các yêu cầu khách quan trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cộng
đồng.
Ba, luật tục có khả năng hỗ trợ cho pháp luật. Thực tế trong nhiều trường hợp các qui định của
pháp luật chưa hẳn được áp dụng và chấp hành chính xác, đầy đủ trong một cộng đồng dân tộc
thiểu số. Trong trường hợp này, pháp luật và sự thực hiện pháp luật chỉ có thể diễn ra nếu có sự
hỗ trợ của luật tục bởi vì luật tục có khả năng cố kết cộng đồng, khả năng cụ thể hóa, chi tiết
hóa các qui định của pháp luật thành chuẩn mực đạo đức, cách cư xử của cộng đồng. Tuy nhiên,
điều cần lưu ý là mối liên hệ của luật tục với pháp luật, những khả năng thay thế, bổ sung, hỗ
trợ của nó đối với pháp luật là mối quan hệ chặt chẽ, khơng thể rách rời, có giá trị to lớn, có ý
nghĩa quan trọng trong q trình xây dựng và áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay.
Bốn, những giá trị tích cực trong hệ thống luật tục của các tộc người thiểu số đã được đúc kết
qua nhiêù thế hệ, là tinh hoa văn hóa dân tộc, có giá trị xây dựng, cố kết cộng đồng lớn lao. Do
đó, trong q trình nghiên cứu xây dựng hồn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, bên cạnh khả
năng thay thế, bổ sung và hỗ trợ cho pháp luật thì luật tục cịn có thể thành nguồn trong hoạt
động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm phong phú pháp luật. Luật hóa luật tục trở
thành một trong các phương thức xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam mà ĐCS
Việt Nam đã và đang chú trọng tại Nghị quyết 48/NQ - Nghị quyết của bộ Chính trị khóa IX.
Từ sự trình bày trên có thể khẳng định, trong suốt q trình hình thành và phát triển, hệ thống
luật tục của các dân tộc đã được chắt lọc trở thành tinh hoa, sắc thái riêng của mỗi tộc người,
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Với những đặc điểm riêng, hệ
thống luật tục của các tộc người thiểu số ln có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật, tạo nên
một cơ chế điều chỉnh hồn chỉnh, đóng vai trị quan trọng trong q trình điều chỉnh các quan
hệ xã hội, góp phần điều hòa và cân bằng xã hội, giúp cho xã hội luôn ổn định và phát triển.
Chương
2
Các
giải
pháp
để
vận
dụng
luật
tục
trong
tự
quản
cộng
đồng
2.1 Mối quan hệ của luật tục và pháp luât trong tự quản của cộng đồng.
Pháp luật và luật tục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Làm rõ nội dung mối quan hệ đó có ý
nghĩa về nhiều mặt, đó là vừa làm phong phú thêm pháp luật vừa đảm bảo hiệu lực điều chỉnh
pháp luật phát huy được vai trò của pháp luật trong hỗ trợ bổ sung, hoàn thiện luật tục. Tuy
nhiên, đây là vấn đề lý luận quan trọng, phức tạp, do khn khổ có hạn, bài tiểu luận chỉ tập
trung
làm
rõ
các
nội
dung
của
mối
quan
hệ
như
sau:
Thứ nhất, luật tục và pháp luật là những yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, đều bị quy định bởi
cơ sở kinh tế nhất định trên nền tảng kinh tế xã hội phù hợp. Luật tục và pháp luật có quan hệ
bổ sung, hỗ trợ nhau trong q trình điều chỉnh hành vi con người . Pháp luật tác động ở một
phạm vi rộng, bao quát cá quan hệ quan trọng , cơ bản. Luật tục tác động ở phạm vi hẹp nhưng
cụ thể, vì thế mà luật tục “như cánh tay kéo dài” của pháp luật, hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật.
Thứ hai, luật tục và pháp luật cùng có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cùng hướng đến
trật tự xã hội. Nếu pháp luật hướng đến trật tự xã hội chung thì luật tục hướng đến trật tự cộng
đồng, pháp luật tạo lập đồng thuận xã hội thì luật tục tạo lập, củng cố đồng thuận cộng đồng.
Song, trật tự xã hội chỉ có thể tồn tại trên cơ sở trật tự của các cộng đồng. Ngươc lại, trật tư xã
hội được xác lập sẽ làm cho trật tư cộng đồng thêm vững chắc, ổn định.
Thứ ba, trong điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật có vị trí ưu trội hơn luật tục về hiệu lực, về cơ
chế và hình thức. Pháp luật ra đời nhằm duy trì trật tự trong xã hội đã có sự phân chia thành các
giai cấp đối kháng, nên pháp luật có tính giai cấp. Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp
thống trị đàn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp khác. Pháp luật được thi hành bằng
sự cưỡng chế của nhà nước. Là luật thành văn được nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
một thủ tục, trình tự và quy phạm chặt chẽ cả về nội dung và hinh thức, pháp luật có hiệu lực,
hiệu quả cao, có tính thống nhất về nội dung và phổ biến rộng rãi. Do vây, trong mối quan hệ
luật tục, pháp luật có hiệu lực cao hơn, cơ chế điều chỉnh đươc định hình chặt chẽ hơn. Trong
trường hợp giữa pháp luật và luật tục có sự sung đột thì luật tục phải tuân thủ pháp luật, thể
hiện ra ở sự tn thủ pháp luật. Pháp luật có vai trị hướng dẫn, định hướng luật tục, làm cho
luật tục ngày càng tiến bộ hơn, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Từ mối quan hệ giưa luật tục và pháp luật trong tự quản của cộng đồng có thể thấy luật tục có vị
trí độc lập tương đối với pháp luật. Và từ đây, việc vận dụng trong tự quản của cộng đồng đòi
hỏi một mặt phảI coi trọng pháp luật, đề cao pháp luật, song phải biết phát huy tính độc lập
tương đối của luật tục, cụ thể là chú ý những vấn đề có tính chất phương pháp luận như sau:
Một, luật tục trong điều kiện nhất định có khả năng thay thế pháp luật. Pháp luật có tính thống
nhất trong phạm vi quốc gia và phản ánh được trình độ phát triển chung của xã hội. Song, trính
độ phát triển ở từng vùng, từng địa phương là khác nhau, them chí chênh lệch nhau rất lớn cả
về trình độ phát triển, đời sống văn hố, tinh thần, do đó không phảI lúc nào ở đâu pháp luật
cũng thâm nhập được vào cuộc sống, cũng có tác dụng điều chỉnh. Đối với vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, những quy địng của pháp luật trên nhiều khía cạnh cịn xa lạ đối với cộng đồng của
họ. Trong khi đó, luật tục với những giá trị tích cực của nó lại tác dụng thay thế cho pháp luật,
đóng vai trị quan trọng và chủ yếu trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể. Thực
tiễn trong giai đoạn hiện nay, ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực khi mà pháp luật chưa thâm nhập
sâu vào trong thực tế thì vai trị của lt tục thay thế pháp luật là rất cần thiết, nhất là trong tự
quản
ở
cộng
đồng
dân
cư.
Hai, bên cạnh việc có thể thay thế pháp luật, luật tục trong nhiều trường hợp cịn có khả năng bổ
sung cho pháp luật. Trong điều kiện mơt quốc gia có nhiều sắc tộc cùng sống với trình độ phát
triển cịn khá trênh lệch nhau, với trình độ xây dựng pháp luật của cơ quan nhà nước cịn hạn
chế thì pháp luật càng khơng thể điều chỉnh hết các tình huống xảy ra trong thực tiễn.
Trong khi đó, mỗi người đã có một hệ thống luật tục được đúc kết, sàng lọc qua nhiều thế hệ,
được kiểm nghiệm qua thực tiễn điều chỉnh các quan hệ trong nội bộ tộc người đó, và phần nào
khẳng định được vai trị điều hồ xã hội có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu khách quan trong việc
điều
chỉnh
các
quan
hệ
phát
sinh
trong
cộng
đồng.
Ba, luât tục có khả năng hỗ trợ cho pháp luật. Thưc tế trong nhiều trường hợp các quy định của
pháp luật chưa hẳn được áp dụng và chấp hành chính xác, đầy đủ trong một cộng đồng dân tộc
thiểu số. Trong trường hợp này pháp luật, sự thực hiện pháp luật chỉ có khả năng cố kết cộng
đồng, khả năng cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy định của pháp luật thành chuẩn mực đạo đức,
cách xử sự của cộng đồng. Tuy nhiên , điều cần lưu ý là mối liên hệ của luật tục với pháp luật,
những khả năng thay thế, bổ sung, hỗ trợ của nó đối với pháp luật là mối quan hệ chặt chẽ
không thể tách rời, có giá trị to lớn , có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xay dựng và áp dụng
pháp
luật
ở
nước
ta
hiện
nay
Bốn, những giá trị tích cực trong hệ thống luật tục của các dân tộc người thiểu số đã đươc đúc
kết qua nhiều thế hệ, là tinh hoa văn hố dân tộc, có giá trị xây dựng, cố kết cộng đồng lớn lao.
Do đó, trong q trình nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, bên cạnh
khả năng thay thế, bổ sung và hỗ trợ cho pháp luật thì luật tục cịn trở thành nguồn trong hoạt
động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm phong phú pháp luật. Luật hoá luật tục trở
thành một trong những phương thức xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam mà
Đảng Cộng Sản Việt Nam chú trọng trong chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật
tại
nghị
quyết
48/
NQ
–
Nghị
quyết
của
Bộ
chính
trị
khố
IX.
Từ sự phát triển và hoàn thiện hệ thống luật tục của các dân tộc đã được chắt lọc trở thành tinh
hoa, sắc tháI riêng của mỗi tộc người, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc độc đáo của
dân tộc Việt Nam. Với những đạc điểm riêng, hệ thống luật tục của các dân tộc người thiểu số
ln có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật, tạo nên một cơ chế điều chỉnh hồn chỉnh, đóng góp
vai trị quan trọng trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, góp phần điều hồ và cân
bằng
xã
hội,
giúp
cho
xã
hội
ln
ln
ổn
định
và
phát
triển.
2.2
Khắc
phục
những
hạn
chế
của
luật
tục.
Để khắc phục chính xác, đầy đủ những hạn chế của luật tục nhất là trong điều kiện đa số các
luật tục đều đang ở dạng bất thành văn, địi hỏi chính quyền khi vận dụng luật tục trong tự quản
cộng
đồng
cần
chú
ý
những
vấn
đề
sau
:
Một là, tiến hành sưu tầm luật tục. Để tiến hành công tác này cần xây dựng chương tình, kế
hoạch,
trong
đó
xác
định
rõ
:
- Phạm vi sưu tầm là ở các cộng đồng dân tộc thiểu số trong cả nước, cần phải tiến hành trong
phạm vi nhỏ như bản, mường....rồi mới đúc kết thành những kho tư liệu lớn trong phạm vi cả
nước. Quá trình thực hiện cần lưu ý những bản gốc, những bản có niên đại càng lâu càng phải
sưu
tầm
kỹ
lưỡng
hơn.
- Thời điểm sưu tầm theo phương châm thực hiện "càng sớm càng tốt", nếu làm chậm thì ngồi
những tài liệu thành văn vốn viết bằng chữ cổ lại chưa được bảo quản đúng cách sẽ hư hỏng, thì
những già làng, trưởng bản hay những người am hiểu tường tận về tập quán, luật tục, chữ cổ do
lớn tuổi nên khi họ mất đi việc sưu tầm sẽ càng gặp nhiều khó khăn.
- Các cơ quan chức năng cần phải vạch ra một kế hoạc hợp lý, lộ trình phù hợp, thời gian phải
phù hợp với khối lượng công việc. UBND cấp tỉnh phải kết hợp với Ban dân tộc miền núi, phòng
tư pháp phải kết hợp với phòng văn hóa thơng tin cùng điều hành phối hợp thực hiện.
- Thành phần nhóm sưu tầm, nghiên cứu: mời các nhà khoa học pháp lý ở Viện Khoa học pháp lý
TW, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, các nhà sử học, luật học để chủ trì; ở các tỉnh mời
các thành viên thuộc các cơ quan chuyên môn tham gia; mỗi huyện, mỗi xã cử những người có
trình độ văn hóa, sự am hiểu về luật tục của các dân tộc tại địa phương để tham gia nghiên cứu.
Ngoài ra, nhóm sưu tầm, nghiên cứu nên thơng qua chính quyền cơ sở và các Trưởng bản, già
làng, những người cao tuổi có vai vế trong làng, bản để tìm hiểu sâu hơn, cụ thể hơn luật tục
trong
vùng.
Hai là, tiến hành phân loại và đánh giá luật tục trên cơ sở kết quả sưu tầm:
Hệ thống luật tục ở Việt Nam được hình thành, phát triển trên cơ sở nền kinh tế thấp kém, xã hội
cịn lạc hậu.Vì vậy hệ thống luật tục đang còn chứa đựng nhiều hạn chế với những hủ tục lạc
hậu, khơng cịn phù hợp thậm chí cản trở sự phát triển của xã hội. Đó là các qui định về bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị (thể hiện tính bất bình đẳng của luật tục), các lễ nghi rườm rà, các
quan niệm lạc hậu....Do đó, vận dụng luật tục trong tự quản ở cộng đồng bản dân tộc và làng xã
nông thôn, vừa phải lược bỏ các hạn chế, các luật tục lạc hậu cịn tồn tại trong xã hội trong cộng
đồng đó, vừa phải tiếp thu, cải tiến những qui định mang tính tiến bộ cho phù hợp với điều kiện,
hồn cảnh mới, vừa phải xây dựng mới các qui định để có thể điều chỉnh các quan hệ mới nảy
sinh trong cộng đồng, đảm bảo cho luật tục luôn phát huy được vai trị trong điều kiện, hồn
cảnh mới. Đây là một cơng việc khó khăn, phức tạp, địi hỏi phải thực hiện trong một quá trình
lâu dài nhằm tiến tới mục đích là phải nâng cao hệ thống luật tục để tiếp cận được văn minh của
thời
đại.
Việc phân loại và đánh giá luật tục phải được tiến hành ngay sau khi kết thúc các hoạt động sưu
tầm. Luật tục được phân loại trên cơ sở các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh như: hơn nhân và
gia đình, tín ngưỡng tôn giáo, bảo vệ trật tự cộng đồng... Trên cơ sở đó , nhóm nghiên cứu và
sưu
tầm
đánh
giá
luật
tục
theo
ba
nội
dung
sau:
+ Những nội dung tiến bộ có thể vận dụng ngay vào cơng tác quản lý xã hội ở cộng đồng.
+ Những nội dung có thể vận dụng vào cơng tác quản lý nhưng cần phải loại bỏ những mặt hạn
chế,
chưa
phù
hợp
trong
nội
dung
đó.
+ Những nội dung đã lạc hậu của luật tục, không phù hợp với thời đại hiện nay, sẽ được loại bỏ
nhưng
có
thể
lưu
giữ
làm
tư
liệu
nghiên
cứư
lịch
sử.
Ba là, tổ chức lấy ý kiến góp ý kết quả phân tích, đánh giá luật tục :
Sau khi thu thập luật tục các cơ quan chức năng cần tổ chức những cuộc họp thảo luận để đưa
ra sự thống nhất cơ bản giữa quan điểm của các nhà khoa học và người đại diện nhân dân nhằm
rút ra những giá trị tích cực, trong đó lưu ý hai cuộc hội nghị và hội thảo sau:
+
Hội
nghị
nhân
dân
+
Hội
thảo
khoa
học
Sau khi tiến hành hội nghị, hội thảo, các nhà sưu tầm, nghiên cứu luật tục tiến hành tổng hợp ý
kiến, chắt lọc các ý kiến. Từ đó, so sánh các qui định của luật tục với các qui phạm pháp luật
hiện hành để làm cơ sở đánh giá, kết luận trước khi đưa các nội dung của luật tục vào vận dụng
trong
thực
tiễn.
2.3
Vận
dụng
luật
tục
tiến
bộ
dưới
hình
thức
hương
ước
mới
Để luật tục có thể đi vào đời sống nhân dân dưới hình thức hương ước mới, trước hết phải đối
chiếu giữa hệ thống luật tục được phê chuẩn với yêu cầu và nội dung hương ước mới để xác
định
những
luật
tục
nào
cần
"hương
ước
hóa".
Khi đã xác định rõ những luật tục tiến bộ cần được vận dụng phát huy, cần tiến hành so sánh
các qui định của hệ thống luật tục với qui định của pháp luật hiện hành để đánh giá tính hợp
pháp, hợp lý của các nội dung trong hệ thống luật tục ở các lĩnh vực như: lĩnh vực Luật hình sự,
Luật tài ngun và mơi trường, Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hơn nhân và gia đình...
Việc
đối
chiếu
thực
hiện
trên
cơ
sở
những
vấn
đề
sau
đây:
+ Đối chiếu về phạm vi điều chỉnh: Luật tục trước đây có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng
(tồn bản, tồn cộng đồng dân tộc), còn phạm vi điều chỉnh của hương ước mới ngày nay gắn
liền với yêu cầu tự quản của thôn bản nên phạm vi điều chỉnh hệp hơn. Do đó cần dựa vào đó để
thay
đổi
phạm
vi
điều
chỉnh
của
luật
tục.
+ Đối chiếu về đối tượng điều chỉnh: hương ước ngày nay có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn luật
tục vì hương ước yêu cầu tự quản trong phạm vi thôn bản. Mặt khác, luật tục ra đời trong nền
kinh tế - xã hội ở trình độ thấp nên đối tượng điều chỉnh còn lạc hậu so với hương ước.
+ Đối chiếu về qui phạm điều chỉnh: Qui phạm điều chỉnh của luật tục thực tế là qui phạm phong
tục tập quán, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một tộc người nhất định. Do vậy, nếu không
đối chiếu qui phạm điều chỉnh của luật tục với hương ước mới thì sẽ gây ra nhiều khó khăn khi
dự
thảo
hương
ước
mới.
+ Đối chiếu về hình thức thể hiện: Thông thường, nội dung diễn đạt của luật tục thường là thơ
xi, tục ngữ, thành ngữ, ít có chế tài và mang tính chất giáo dục, răn đe là chính. Hương ước
mới ngày nay trước hết phải tuân thủ nguyên tắc qui định của Nhà nước và thường thể hiện dưới
hình thức mệnh lệnh hành chính, nên khi vận dụng để xây dựng hương ước mới cần đối chiếu
với luật tục và khi đưa vào vận dụng cũng cần phải phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Như vậy, mục đích của việc đối chiếu nêu trên là nhằm làm cho quá trình vận dụng luật tục trong
xây dựng hương ước mới đi đến thống nhất cả nội dung lẫn hình thức thể hiện ngay từ ban đầu,
sát sao với thực tế và sẽ được cộng đồng đón nhận và thực hiện có hiệu quả hơn.
Sau khi thực hiện quá trình đối chiếu, các cơ quan chức năng cần thực hiện "hương ước hóa"
luật
tục:
Về nguyên tắc, việc xây dựng hương ước mới phải đảm bảo tính dân chủ, khách quan trên cơ sở
nền tảng văn hóa, vừa phải tôn trọng các nguyên tắc bắt buộc của pháp luật hiện hành. Hương
ước mới cần phải xây dựng trên tinh thần pháp luật thì khi đó mới trở thành cơng cụ quan trọng,
bổ sung cho pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong cộng đồng. Quá trình
xây dựng và thực hiện hương ước mới cho cộng đồng là q trình "luật tục hóa pháp luật". Nếu
khéo léo đưa pháp luật, luật tục vào các qui định của hương ước và dùng những qui định đó điều
chỉnh hành vi của người dân thông qua hoạt động tự quản thì sẽ làm tăng thêm hiệu lực của việc
thực thi pháp luật mà vẫn giữ gìn và phát triển được bản sắc của địa phương.
Sau khi xây dựng nguyên tắc vận dụng và quy trình vận dụng luật tục để dự thảo hương ước mới
thì
tiếp
tục
ban
hành
hương
ước
mới
để
đưa
vào
cuộc
sống.
2.4
Kết
hợp
chặt
chẽ
giữa
luật
tục
và
pháp
luật
Nhiệm vụ trước mắt và lâu dài được đặt ra cho công tác quản lý là: Cần vận dụng, kế thừa có
chọn lọc luật tục vào việc xây dựng nếp sống văn hóa, làng bản văn hóa theo đường lối xây
dựng xã hội của Đảng và Nhà nước, phù hợp với pháp luật. Nghiên cứu luật tục một cách thấu
đáo trên cả phương diện qui định và phương diện vận hành của luật tục; xem xét, chọn lọc
những
yếu
tố
tích
cực,
tiêu
cực.
Sự tồn tại song song của luật tục và pháp luật đặt ra vấn đề là phải nghiên cứu và đề xuất
những giải pháp thiết thực có hiệu quả, vừa để pháp luật được đảm bảo thực hiện thống nhất,
vừa
phát
huy
được
kinh
nghiệm
quản
lý
cộng
đồng.
Các cơ quan Nhà nước Trung ương nên chỉ đạo và phối hợp, hỗ trợ các cơ quan địa phương cùng
chú trọng công tác giáo dục ý thức pháp luật thường xuyên trong nhân dân. Song song tiến hành
các công tác: xây dựng nếp sống văn minh, tuyên truyền về pháp luật, phát triển đời sống kinh
tế - xã hội, giao thông, thông tin liên lạc; nâng cao dân trí, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần
cho nhân dân; xây dựng hệ thống tự quản bản làng, thôn xóm vững mạnh; củng cố đội ngũ
trưởng thơn, trưởng bản, bí thư chi bộ, từng bước nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật và
năng
lực
quản
lý
nhà
nước,
quản
lý
xã
hội
cho
họ.
Trong nghiên cứu, khảo sát luật tục, các cơ quan Nhà nước luôn giữ vững quan điểm chỉ đạo, đó
là tham gia vào việc xem xét, giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục. Phải xem luật
tục như là một sự bổ sung cho pháp luật, bởi vì trên thực tế pháp luật khơng thể bao quát hết
được mọi đặc thù của từng dân tộc, từng bản làng cụ thể nhưng cũng không thể đối lập luật tục
với pháp luật mà phải đưa luật tục vào trong khuôn khổ của pháp luật.
Hiện nay, nông thôn và vùng miền núi Việt Nsm đã có nhiều biến đổi, trình độ dân trí được nâng
cao hơn trước một bước. Đã có luật pháp của nhà nước Cộng hịa XHCN Việt Nam nên hệ thống
luật tục cổ có phần nào khơng cịn phù hợp. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta hiện nay
chưa hoàn chỉnh, nhiều mặt trong cuộc sống xã hội của các tộc người ở nông thôn miền núi vẫn
chưa được pháp luật ghi nhận. Vả lại, dân trí ở những vùng này chưa cao nên hiệu lực pháp luật
chưa có hiệu quả, người dân đa phần còn xa lạ với các qui định của pháp luật. Trong tình hình
như vậy, cần có những bản hương ước, qui ước mới ra đời nhằm để điều chỉnh những quan hệ
xã
hội
phát
sinh
mà
nhà
nước
chưa
điều
chỉnh.
Luật tục là từ đời sống cộng đồng mà hình thành, là hệ thống tri thức về quản lý cộng đồng, là ý
nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của các tộc người. Xã hội càng hiện đại, càng phát triển
thì việc quản lý từ đơn vị cơ sở càng phải được chú ý. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải kết hợp hài
hịa, có sự hỗ trợ, bổ sung giữa luật pháp chung của Nhà nước với luật tục trong các hoạt động
quản lý ở cơ sở và hoạt động tự quản ở cộng đồng bản, làng, thơn, xóm một cách có hiệu quả.
2.5 Đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật, luật tục trong nhân dân
Muốn vận dụng có hiệu quả cùng với việc thực hiện pháp luật nghiêm minh đòi hỏi các cơ quan
chức năng phải quan tâm, chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và luật
tục trong nhân dân. Công tác tuyên truyền giáo dục cần được đa dạng hóa về hình thức, chú
trọng
chất
lượng,
nội
dung
truyền
đạt
theo
các
hướng
như
sau:
- Giáo dục pháp luật, luật tục thơng qua hội tồn thể nhân dân, hội nghị đại diện hộ gia đình.
Đây là một trong những hình thức giáo dục khá phổ biến khi nhà nước cần tun truyền một
chính sách nào đó tới nhân dân ở cấp cơ sở. Thông qua hội nghị này, pháp luật, luật tục (sau khi
đã vận dụng thành hương ước, qui ước mới) sẽ đươc giới thiệu thơng qua những nét chính, sau
đó sẽ giải đáp những thắc mắc của bà con nhân dân về vấn đề này. Việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật cũng được thường xuyên lồng ghép cùng với các nội dung trong những hội nghị thôn
bản trên, vừa nâng cao ý thức người dân, vừa nâng cao trình độ cho các trưởng bản, trưởng
thôn.
- Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thơng qua các lễ hội.
Thơng qua các buổi sinh hoạt văn nghệ của chi hội nơng dân, chi hội phụ nữ, chi đồn thanh
niên, ngày lễ hàng năm của địa phương, chính quyền có thể định hướng cho các hoạt động này
những nội dung mang tính chất tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân chẳng hạn
như thông qua các vở kịch tự biên, tự diễn, các tiết mục văn nghệ phỏng theo các giai điệu quen
thuộc của địa phương để nhân dân dễ nghe, dễ nhớ. Và thông qua các hoạt động đó, các nội
dung của pháp luật, các nội dung tiến bộ của luật tục xưa (đã được xây dựng thành hương ước
mới) sẽ được khơi dậy trong nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cách làm này một mặt góp phần
giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc, một mặt nâng cao ý thức pháp luật, ý thức cộng đồng
trong nhân dân, tạo ra khơng khí sinh hoạt vui tươi, đoàn kết, thúc đẩy mọi người hăng hái xây
dựng
cuộc
sống
ấm
no,
hạnh
phúc.
- Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng
Đây cũng là một trong những phương pháp giáo dục truyền thống mà chính quyền địa phương
đã từng áp dụng rất hiệu quả. Thông qua sinh hoạt tập thể của các tổ chức lồng ghép các nội
dung về pháp luật, luật tục để phổ biến cho các thành viên. Phương pháp truyền đạt phải linh
hoạt, nhạy bén, giải đáp rõ ràng đối với những thắc mắc của thành viên trong tổ chức, đề cao
tính
dân
chủ
trong
từng
buổi
sinh
hoạt.
- Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua các Đảng viên sinh hoạt tại cộng đồng
Hiện nay, ở các thôn bản đã có cấp ủy chi bộ cho nên việc phổ biến các chính sách của Đảng
cũng như của nhà nước là rất thuận lợi. Bởi vì Đảng viên là những người có uy tín cao trong cộng
đồng cho nên việc tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, luật tục thông qua lực lượng Đảng
viên
sẽ
tạo
nên
sức
thuyết
phục
càng
lớn
trong
nhân
dân.
- Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua việc tổ chức hoạt động thực tiễn ở cộng đồng
Đây là cách làm khá đơn giản nhưng không kém phần hiệu quả trong cộng đồng. Bởi vì chỉ cần
thơng qua các hoạt động thực tiễn của từng hộ gia đình: đám cưới, đám tang, mừng nhà mới....
để định hướng cho người dân tổ chức thưo hương ước, qui ước mới của thôn, bản đã đề ra. Đặc
biệt, ở các vùng miền núi, niềm tin vào tôn giáo của họ rất lớn, họ đề cao tín ngưỡng và có sự
tơn trọng gần như tuyệt đối đối với những người đứng đầu cộng đồng ( như già làng ở Tây
Nguyên), hay những người thực hiện các hoạt động tín ngưỡng trong cộng đồng (như ông "mo",
bà "một" của dân tộc Thái). Do vậy, việc tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, luật tục hoặc
qui ước mới nếu biết dựa vào những đối tượng trên thì những chủ trưong, chính sách sẽ dể đi
vào lòng dân hơn. Tuy nhiên, để dựa vào họ, cần phải có những chính sách về tài chính để nâng
cao cuộc sống, đồng thời mở những lớp tập huấn để họ nắm vững hơn các chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nhất là nắm vững những hương ước mới của thôn bản để trả lời những
khúc
mắc
của
dân.
Tóm lại, luật tục có vai trị quan trọng trong đời sống cộng đồng, là sự bổ sung không thể thiếu
được của pháp luật nhà nước. Do vậy, việc xem xét mối quan hệ của pháp luật và luật tục trong
tự quản cộng đồng là cần thiết, từ đó vận dụng luật tục tiến bộ dưới hình thức hương ước mới
để luật tục có thể trở thành cơng cụ hỗ trợ pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong nhân dân. Tuy nhiên, công việc này sẽ phải gặp nhiều khó khăn, bất cập nên rất cần sự
quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền Trung Ương cùng với sự đồng thuận của cán bộ cơ sở
và quần chúng nhân dân. Khi đó, mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật trong tự quản cộng
đồng sẽ trở thành mối quan hệ khăng khít, thúc đẩy nhau trong quá trình nâng cao và phát triển
xã
hội.
Kết
luận
Trong kho tàng văn hóa, lịch sử của dân tộc, luật tục giữ vai trị vơ cùng quan trọng trong việc
gắn kết cộng đồng, trong việc giữ gìn và bảo vệ bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh
phát triển hiện nay, một số nội dung của luật tục khơng cịn tiến bộ nữa nhưng vẫn có sức ảnh
hưởng đáng kể đối với cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng dân tộc ít người.
Hiện nay, đất nước ta đã thực sự hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập không chỉ là giữa
Việt Nam và bạn bè quốc tế mà cịn là sự hịa nhập về văn hóa truyền thống của chính dân tộc
Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta với mục tiêu chiến lược là đẩy mạnh CNH, HĐH
theo định hướng XHCN với nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là CNH, HĐH nông nghiệp nông thơn.
Trong khi đó, luật pháp vẫn chưa hồn thiện và theo kịp với sự phát triển xã hội cho nên việc
xem xét mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng, từ đó, vận dụng luật
tục dưới hình thức hương ước, qui ước mới là rất cần thiết và phù hợp với hoàn cảnh hiện nay.
Để luật tục được phát huy vai trò quan trọng của mình, góp phần vào quản lý xã hội, quản lý
cộng đồng và giữ gìn bản sắc dân tộc thì các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền cần có nhận
thức rõ bằng những hành động thiết thực đối với hệ thống luật tục hơn nữa. Có như vậy, vai trị
của hệ thống luật tục mới được phát huy, góp phần xứng đáng vào việc xây dựng nền văn hóa
tiên
tiến,
đậm
đà
bản
sắc
dân
tộc
Việt
Nam./.
Danh
mục
tài
liệu
tham
khảo
1. Từ điển Bách khoa (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
2.
Nguyễn
Khắc
Viện
(1994),
Xã
hội
và
pháp
luật,
nxb
Thế
giới.
3.
Nguyễn
Lân
(2003)
Từ
điển
Hán
Việt,
NXB
Văn
học
Hà
Nội.
4. Trung tâm Từ điển học (1997) Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.
5. Văn Tân (1994) Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học và Xã hội, Hà Nội
6. Đặng Văn Lung (1997), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
7. Vi Văn Sơn (2007), Vận dụng luật tục Thái trong tự quản cộng đồng bản dân tộc Thái tỉnh
Nghệ
An,
Luận
văn
Thạc
sỉ
Luật,
Hà
Nội.
8. Nguyễn Văn Sáu (2001), Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
9.Ngơ Đức Thịnh (2003), Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam, NXB Khoa học và xã hội,
Hà
Nội.
10. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Xã hội và Pháp luật, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Trường đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận chung Nhà nước và pháp luật Pháp
luật,
NXB
Tư
pháp,
Hà
Nội.
12. Trường đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, NXB
Công
an
nhân
dân,
Hà
Nội.
13. Trường đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Thế giới, NXB
Công
an
nhân
dân,
Hà
Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, XB Chính trị quốc
gia,
Hà
Nội.
15. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, XB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.