Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.24 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀM THỊ NHÀN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ
ỐM ĐAU, THAI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Minh Đoan

Hà Nội, năm 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, được xuất
phát từ yêu cầu phát sinh trong công việc để hình thành hướng nghiên cứu.
Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình
bày trong luận văn được thu thập được trong quá trình nghiên cứu là trung
thực chưa từng được ai công bố trước đây.
Hà Nội, tháng 02 năm 2013
Tác giả luận văn
Đàm Thị Nhàn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



BHXH :

Bảo hiểm xã hội

BHTN:

Bảo hiểm thất nghiệp

BHYT:

Bảo hiểm y tế

LĐ-TB-XH:

Lao động - Thương binh - Xã hội

NLĐ:

Người lao động

NXB:

Nhà xuất bản

TBXH:

Thương binh xã hội

TNHH:


Trách nhiệm hữu hạn

TW:

Trung ương

UBND:

Ủy ban nhân dân

WHO:

Tổ chức y tế thế giới


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .......................................... 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 5
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn. .............................. 6
7. Cơ cấu của luận văn ................................................................................... 6
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ ỐM ĐAU, THAI SẢN .............. 7
1.1.Ốm đau, thai sản và pháp luật về giải quyết chế độ ốm đau, thai sản. ....... 7

1.1.1. Khái niệm ốm đau, thai sản .................................................................. 7
1.1.2. Pháp luật về giải quyết chế độ ốm đau và chế độ thai sản .................. 13
1.2. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm
đau, thai sản. ................................................................................................ 19
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 19
1.2.2. Đặc điểm ............................................................................................ 21
1.3. Nội dung và Trình tự thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau,
thai sản ......................................................................................................... 23
1.4. Vai trò và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ
ốm đau, thai sản ........................................................................................... 28


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ ỐM ĐAU, THAI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
NINH BÌNH ................................................................................................ 33
2.1. Những yếu tố có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật trong giải quyết
chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình..................................... 33
2.2. Những ưu điểm, kết quả của việc thực hiện pháp luật trong giải quyết chế
độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ........................................... 40
2.3. Những hạn chế, vướng mắc của việc thực hiện pháp luật trong giải quyết
chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình..................................... 50
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ ỐM ĐAU, THAI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH HIỆN ............................................. 57
3.1. Quan điểm về thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai
sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay ...................................................... 57
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau,
thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ............................................................. 60
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết chế độ ốm đau, thai sản ............... 60
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự phối hợp với

các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh. ..................................................... 63
3.2.3. Kiện toàn tổ chức của cơ quan BHXH và đầu tư kinh phí cho công tác
thực hiện pháp luật giải quyết chế độ ốm đau, thai sản ................................ 65
3.2.4. Nâng cao điều kiện làm việc của người lao động.. .............................. 66
3.2.5.Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật BHXH về chế độ
ốm đau, thai sản ........................................................................................... 66
KẾT LUẬN ................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................... .......69


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển xã hội và một xã hội phát triển, theo Hồ Chí Minh, tất cả
đều quy tụ ở vấn đề con người. Mục tiêu phát triển của một xã hội theo
hướng nhân văn là đáp ứng mọi khát vọng chính đáng của con người, tạo
điều kiện cho con người ngày càng phát triển toàn diện - hài hòa như một chủ
thể văn hóa. Mặt khác, xã hội đó lại do chính bản thân con người làm ra với
tư cách là chủ thể lịch sử, chủ thể xã hội. Trong xã hội hiện nay, song song
với việc phát triển kinh tế thì Đảng, Nhà nước luôn chú trọng đến vấn đề an
sinh xã hội.
Bảo hiểm xã hội là trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của
đất nước. Vì vậy, để phát triển an sinh xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW: "Về tăng cường sự lãnh
đạo của Ðảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn
2012-2020" trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội
trong hệ thống an sinh xã hội.
Ốm đau, thai sản là 2 trong 5 chế độ bảo hiểm xã hội của nước ta, đây
là 2 chế độ được giải quyết thường xuyên liên tục bởi bất cứ ai cũng có thể bị
ốm đau và hầu hết người lao động nữ đều mang thai và sinh con. Những năm

gần đây, trên địa bàn cả nước có gần 5 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau
và gần 9 trăm nghìn người hưởng chế độ thai sản. Trong những năm qua,
Quốc hội, Chính phủ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Lao động - Thương
binh - Xã hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp
dụng pháp luật hướng dẫn việc thực hiện giải quyết chế độ ốm đau, thai sản
trên thực tế, vì vậy mà quyền lợi của người lao động bước đầu được đảm bảo.

1


Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai, áp dụng và thực hiện pháp luật
bảo hiểm xã hội trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản vẫn còn nhiều bất
cập. Công tác giải quyết chế độ còn gặp nhiều vướng mắc, các đơn vị sử
dụng lao động lại thường xuyên nợ đọng tiền BHXH khiến cho việc giải
quyết chế độ chưa thực sự hiệu quả
Tại thời điểm này, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về thực
hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội nói riêng
song riêng trong 2 chế độ ốm đau và thai sản thì chưa có một công trình nào
nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về vấn đề này. Xuất phát từ những lý do
trên, đề tài “Thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” đã được chọn làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thực hiện pháp luật đã được các nhà khoa học nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ lý luận chung về thực hiện pháp luật đến
góc độ thực hiện pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể. Các công trình này đã
làm phong phú thêm lý luận chung về nhà nước và pháp luật, giải quyết được
nhiều vấn đề của thực tiễn cuộc sống phong phú, đa dạng và phức tạp.
Các công trình đã nghiên cứu về vấn đề này bao gồm:
+ “Khảo sát tình hình thực hiện pháp luật ở cơ sở và giải pháp nâng
cao năng lực thực hiện” (Sở Tư pháp Bến Tre);

+ “Tổ chức thực hiện pháp luật và tăng cường pháp chế trong điều kiện
đổi mới ở nước ta hiện nay” (Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh);
+ “Tình hình thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay” (Dự án điều tra
cơ bản của Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật);

2


+ “Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay thực trạng và các phương hướng, giải pháp” (Luận văn thạc sĩ luật học của
tác giả Lê Thanh Bình),
+ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật ở thành
phố Hà Nội hiện nay” (Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Xuân);
+ “Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam” (Sách chuyên khảo của
tác giả Nguyễn Minh Đoan) ;
+ “Áp dụng pháp luật” (Sách chuyên khảo của tác giả Nguyễn Thị
Hồi),
+ “Thực hiện pháp luật ở Việt Nam – lý luận và thực tiễn” (Kỷ yếu hội
thảo khoa học, Khoa Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội);
+ Làm sáng tỏ quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để
đẩy nhanh việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở các thành phố - tác giả
Trương Gia Thành
Các công trình trên đã đưa lý thuyết về thực hiện pháp luật, áp dụng
pháp luật, hình thức và trình tự thực hiện pháp luật…
Bên cạnh đó, có nhiều công trình tác giả đề cập đến thực hiện pháp luật
trong những lĩnh vực nhất định trên cơ sở thực hiện pháp luật nói chung. Có
thể kể đến như:
+ “Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa
bàn huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội” (Luận văn thạc sĩ luật học của tác

giả Trần Tuấn Nghĩa);
+ “Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay (Từ thực
tiễn của thành phố Hải Phòng)” (Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đào
Thị Mai),

3


+ “Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở tỉnh Hà Nam hiện nay” (Luận văn thạc sĩ luật học của tác
giả Đinh Thị Huê),
+ “Thực hiện pháp luật đê điều ở tỉnh Ninh Bình hiện nay ” (Luận văn
thạc sỹ luật học của tác giả Quách Thị Ngọc Chính)
+ “Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt
Nam” (Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Lê Thanh Bình); );
+ Việc thực hiện pháp luật an sinh xã hội tại các đô thị lớn ở Việt Nam
hiện nay - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14 tháng 7/2009;
+ Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước và thực hiện pháp luật
BHXH – Hải Hồng - Tạp chí Bảo hiểm xã hội Kỳ 01, 4/2009, tr.6 – 9
Các công trình trên đã đề cập tới thực hiện pháp luật nói chung cũng
như thực hiện pháp luật ở các lĩnh vực khác nhau, tại các địa phương khác
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể
việc thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình. Chính vì vậy, đề tài “Thực hiện pháp luật trong giải quyết
chế độ ốm đau thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” sẽ là đề tài đầu tiên
nghiên cứu vấn đề triển khai pháp luật Bảo hiểm xã hội trong 2 chế độ ốm
đau, thai sản tại 1 địa phương thực tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn.
Luận văn có mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận chung và thực trạng

về thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình. Thông qua thực trạng thực hiện pháp luật trong giải quyết chế
độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay, luận văn cũng đề
xuất một số quan điểm và giải pháp với mong muốn góp phần hoàn thiện

4


pháp luật về vấn đề này và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật
trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn cả nước.
- Nhiệm vụ của luận văn.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có các nhiệm vụ
cơ bản sau:
+ Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận chung như khái niệm, đặc
điểm, hình thức, nội dung… của thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ
ốm đau, thai sản;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trong giải quyết
chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay, tìm ra những
nguyên nhân của thưc trạng đó để có những giải pháp khắc phục;
+ Đưa ra các quan điểm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề thực
hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình hiện nay của người lao động, người sử dụng lao động và cán bộ, cơ quan
BHXH - chủ thể của hoạt động thực hiện pháp luật dưới góc độ của chuyên
ngành lý luận, lịch sử nhà nước và pháp luật.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra của đề tài, luận văn sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và các quan điểm, tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà
nước và pháp luật trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, đồng
thời đặt vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng
khác trong xã hội và bối cảnh, giai đoạn phát triển hiện nay của xã hội.

5


Ngoài ra, để đảm bảo nội dung nghiên cứu của luận văn cũng như tính
khoa học, lô gíc giữa các vấn đề, luận văn còn sử dụng một số phương pháp
cụ thể như: hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh…
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn.
- Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về
thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình hiện nay
- Luận văn đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trong giải quyết chế
độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình: những việc đã làm được
cũng như những hạn chế, tồn tại, hạn chế trong công tác thực hiện pháp luật
trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản hiện nay
- Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm
đau, thai sản, luận văn kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 3 chương
Chương I. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật trong giải
quyết chế độ ốm đau, thai sản
Chương II. Thực trạng thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm
đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

Chương III. Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

6


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ ỐM ĐAU, THAI SẢN
1.1.Ốm đau, thai sản và pháp luật về giải quyết chế độ ốm đau, thai
sản.
1.1.1. Khái niệm ốm đau, thai sản
* Ốm đau: Ốm đau là một khái niệm đã không còn xa lạ với mỗi chúng
ta bởi trong cuộc đời con người không ai là chưa từng mắc phải. Cái không
còn xa lạ đó, cái quá quen thuộc đó làm cho chúng ta khó có thể đưa ra được
định nghĩa chính xác về nó. Khi em bé bị sốt, chúng ta nói em bé bị ốm, khi
một người bị cảm lạnh, ta nói người đó bị ốm, khi một người bị tai nạn giao
thông, gẫy chân, ta nói người đó bị đau…
Thông thường một người bị ốm thường kèm theo bị đau và khi bị đau
thì cũng được cho là ốm. Chẳng hạn, có người ốm do đau đầu, đau bụng…
Như vậy, ốm đau hay đau ốm là hai trạng thái có liên hệ mật thiết với nhau
phản ánh sức khỏe của con người có vấn đề. Theo Đại từ điển Tiếng việt của
NXB Văn hóa - Thông tin thì “ốm đau” được hiểu với các nghĩa như:
1. Nhức nhối, khó chịu do bị tổn thương ở chỗ nào đó trên cơ thể: ngã
đau chân, đau răng…
2. Bứt rứt, nhức nhối trong lòng vì quá thương cảm, quá xúc động: ruột
đau như cắt…
3. Do sức khỏe yếu, có bệnh, thường xuyên đau ốm [34 - tr.597].
Như vậy có thể hiểu, ốm đau là trạng thái nhức nhối, khó chịu, không
bình thường do bị tổn thương ở bộ phận nào đó trên cơ thể.
Ốm đau làm con người cảm thấy nhức nhối, khó chịu, mệt mỏi khiến

không thể làm việc được. Họ phải nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi hoặc đến các
bệnh viện, cơ sở y tế để chữa trị. Do phải nghỉ việc, nên thu nhập trong
khoảng thời gian này của người lao động bị mất. Không những thế, họ lại

7


phải trang chải chi phí thuốc men, khám, chữa bệnh. Nếu bệnh nặng thì lại
cần có người thân chăm sóc, ảnh hưởng đến thời gian, thu nhập của người
thân trong gia đình. Một khảo sát gần đây của Bộ Lao động - Thương binh Xã hội (LĐ-TB-XH) cho thấy, người Việt Nam còn hạn chế về thể lực, sức
bền, dẻo dai. Trên 50% doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng lao
động mà nguyên nhân là chất lượng lao động không đáp ứng được yêu cầu.
Chiều cao của thanh niên 15 tuổi thấp hơn quốc tế 8,34 cm đối với nam và
9,13cm đối với nữ. Trung bình một người Việt Nam có khoảng 12 năm ốm
đau, bệnh tật [41]. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người từ 15 tuổi
trở lên là có khả năng lao động, độ tuổi lao động của nam là đến 60 tuổi và nữ
là đến 55 tuổi. Như vậy, tối đa khoảng thời gian lao động của nam thông
thường là 45 năm và của nữ thông thường là 40 năm trong khi đó trung bình
một người có khoảng 12 năm ốm đau, bệnh tật, chiếm hơn 1/3 thời gian lao
động. Do đó, ảnh hưởng đến kinh tế của người lao động và kinh tế chung của
cả nước. Chính vì vậy, ngay từ những năm 1947, 1950, mặc dù mới giành
được chính quyền, đất nước còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng Đảng, Nhà
nước ta đã quy định về chế độ ốm đau cho người lao động trong các Sắc lệnh.
Tuy nhiên, việc quy định về chế độ ốm đau cho người lao động trong từng
thời kỳ lại khác nhau do còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước. Do đó, pháp luật về chế độ ốm đau thai sản cũng có sự bổ sung,
thay đổi tùy từng giai đoạn phát triển của đất nước.
*Thai sản: Cũng giống như “ốm đau”, “thai sản” là một danh từ không
còn xa lạ với mỗi chúng ta. Đó là trạng thái mà hầu như tất cả những người
phụ nữ đều trải qua. Pháp luật BHXH không định nghĩa thế nào là thai sản.

Pháp luật BHXH chỉ quy định nội dung và thủ tục giải quyết chế độ thai sản
bao gồm trường hợp người lao động sinh con, nhận nuôi con nuôi, người lao
động đi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, người lao động

8


thực hiện các biện pháp tránh thai. Theo Đại từ điển Tiếng việt của NXB Văn
hóa - Thông tin thì các thuật ngữ này được giải thích như sau:
Thai (danh từ): Cơ thể con người đang hình thành và lớn lên trong bụng
mẹ [34 -tr.1520].
Đẻ (động từ): tự làm cho con hoặc trứng thoát khỏi tử cung ra ngoài [34
- tr.616].
Đặt vòng (động từ): đặt vòng tránh thai vào tử cung để tránh thụ thai
[34 – tr.603].
Triệt (động từ): trừ bỏ hoàn toàn [34 - tr.1707].
Sản (động từ): đẻ [34 - tr.1426].
Như vậy, thai sản có thể hiểu là trạng thái cơ thể con người đang hình
thành và lớn lên trong bụng mẹ. Tuy nhiên, chế độ thai sản trong luật BHXH
được hiểu là quy định của pháp luật về quyền lợi, nghĩa vụ của người lao
động khi họ phải nghỉ việc vì có thai, sinh con, các lao động (nam, nữ) nhận
nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi và trường hợp NLĐ đặt vòng tránh thai,
thực hiện các biện pháp triệt sản.
Phụ nữ trong thời kỳ mang thai rất dễ bị tổn thương về sức khoẻ cho cả
mẹ và thai nhi, đặc biệt khi người lao động nữ làm việc trong môi trường lao
động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc phải làm việc với thời gian kéo dài
trong ngày. Đối với người lao động nữ, mang thai sẽ làm thay đổi các chức
năng hô hấp, tiêu hóa, chức năng gan và thận làm tăng hấp thụ, phân bổ và
đào thải các chất độc. Một số ảnh hưởng sức khỏe do thay đổi sinh lý ở phụ
nữ mang thai khi làm việc đã được xác định cụ thể như: mệt mỏi, căng thẳng;

buồn nôn làm tăng nhạy cảm chất hóa học; tăng chuyển hóa làm tác hại tới
gan; tăng dòng máu tới thai nhi gây thiếu ô xy cho thai nhi; tăng kích thích cơ
tim làm tăng loạn nhịp tim, tăng huyết áp; tăng đau vùng thắt lưng; khó khăn
khi di chuyển, thao tác.

9


Ngoài ra, sữa mẹ rất quan trọng đối với sự phát triển bình thường của
trẻ do giá trị dinh dưỡng và khả năng miễn dịch cao. Theo Tổ chức Y tế thế
giới (WHO), hướng dẫn của Bộ Y tế Việt Nam (trong 10 lời khuyên dinh
dưỡng) thì trẻ em cần được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu để đảm bảo
cho sự phát triển toàn diện của trẻ nhỏ. Những nghiên cứu của WHO đã cho
thấy ý nghĩa vô cùng quan trọng khi trẻ được bú mẹ. Đó là, nếu tỷ lệ nuôi con
bằng sữa mẹ cao, đạt khoảng 99%, thì có thể giảm được tử vong ở trẻ 36
tháng xuống 9,1% và gánh nặng bệnh tật xuống 8,6%. Đối với các bà mẹ, việc
thực hành cho con bú sẽ giúp giảm tỷ lệ ung thư vú; giảm trên 20% tỷ lệ ung
thư buồng trứng; giảm từ 24% - 37% tỷ lệ đái tháo đường tuýp 2; giảm nguy
cơ mặc bệnh trầm cảm, loãng xương thời tiền mãn kinh. Bà mẹ cho con bú
sớm sau sinh sẽ hồi phục sức khỏe sau sinh nhanh hơn và cũng giảm nguy cơ
băng huyết sau sinh. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có
tác dụng phòng tránh thai với hiệu quả đạt 98%. Những bà mẹ nuôi con bằng
sữa mẹ sẽ quay trở lại cân nặng trước khi mang thai nhanh hơn so với những
bà mẹ cho con ăn bằng sữa bột. Ngoài những ích lợi cho trẻ em và bà mẹ, việc
nuôi con bằng sữa mẹ còn đem lại những lợi ích kinh tế. Trong bài phát biểu
tại Hội nghị thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ (Oasinhton, Hoa Kỳ) ngày
14/2/2011, phu nhân Tổng thống Mỹ Michelle Obama đã nói: “Hàng năm
nước Mỹ sẽ tiết kiệm được 13 tỷ đô la nếu toàn bộ phụ nữ Mỹ nuôi con bằng
sữa mẹ”. Ở Việt Nam, mặc dù chưa có những tính toán chi tiết về chi phí và
hiệu quả, nhưng chỉ tính đơn thuần chi phí để mua sữa và các sản phẩm sữa

đã tiêu tốn khoảng 0,8 - 1,2 triệu đồng/tháng cho một trẻ em, cộng với chi phí
gửi trẻ trung bình khoảng 700.000 đồng/tháng, thì tổng chi phí bỏ ra nếu bà
mẹ phải đi làm không thực hành cho con bú sữa mẹ sẽ vào khoảng 1,5 - 1,9
triệu/tháng. Đó là một số tiền không nhỏ đối với một lao động nữ so với mức
lương hiện nay [43].

10


Trong thời gian người lao động sinh con hoặc thực hiện chế độ thai sản,
người lao động phải nghỉ ngơi, không thể lao động sản xuất được do đó mà
không có thu nhập. Mặt khác lại phải chi phí viện phí, tiền sữa, tã lót cho em
bé… Vì vậy mà thu nhập bị giảm sút. Thai sản áp dụng chủ yếu với lao động
nữ, hầu như tất cả lao động nữ đều có khả năng sinh con hoặc được hưởng
chế độ thai sản. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực
lượng lao động cao nhất trên thế giới (theo khảo sát gần đây, tỷ lệ lao động nữ
chiếm 48,6% lực lượng lao động cả nước) và tỷ lệ nữ độ tuổi 15-60 tham gia
vào hoạt động kinh tế xấp xỉ bằng nam giới. Như vậy, nếu lực lượng lao động
này nghỉ việc thực hiện chế độ thai sản thì sẽ ảnh hưởng đến kinh tế chung
của đất nước. Vì vậy, ngay từ những năm mới giành được chính quyền, Đảng,
Nhà nước ta cũng đã quy định về chế độ thai sản, tuy nhiên do điều kiện kinh
tế, chính trị xã hội ở từng thời kỳ khác nhau nên chế độ thai sản cũng chưa
được cụ thể, khoa học và toàn diện. Hiện nay, do sự cần thiết và quan trọng
của việc mang thai đối với lao động nữ là chế độ thai sản đối với người lao
động nói chung mà pháp luật căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước quy
định về chế độ thai sản trong giai đoạn hiện nay.
* Một số khái niệm liên quan khác:
Theo Từ điển Tiếng việt, bảo hiểm xã hội là sự: “Bảo đảm những
quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm
đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động…” [34 - tr.36].

Giáo trình Luật Lao động của khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội định
nghĩa: “Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quy định của
Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội hình thành trong lĩnh vực
bảo đảm trợ cấp nhằm ổn định đời sống cho người lao động khi họ gặp những
rủi ro, hiểm nghèo trong quá trình lao động hoặc khi già yếu không còn khả
năng lao động”.

11


Ngoài ra, còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Sở dĩ
khái niệm bảo hiểm xã hội được tiếp cận với những nội dung đa dạng như
trên bởi trước khi có Luật bảo hiểm xã hội thì không có văn bản pháp lý nào
quy định một cách cụ thể và chính thức về vấn đề này, hơn nữa sự đa dạng đó
còn được giải thích bởi góc độ tiếp cận và nhu cầu nghiên cứu khác nhau.
Hiện nay, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội thì bảo hiểm
xã hội được định nghĩa như sau: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội
[30- tr.115].
Các bên tham gia quan hệ BHXH gồm có: Bên thực hiện bảo hiểm xã
hội, bên tham gia bảo hiểm xã hội, bên được bảo hiểm xã hội.
Bên tham gia bảo hiểm xã hội là người đóng góp phí bảo hiểm xã hội
để bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác được hưởng bảo hiểm xã hội.
Theo quy định của pháp luật, bên tham gia bảo hiểm xã hội là người sử dụng
lao động, người lao động và trong chừng mực nào đó là Nhà nước (với một số
đối tượng đặc biệt như: lực lượng vũ trang hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, chức vụ dân cử).
Bên được bảo hiểm xã hội là người lao động hoặc thành viên gia đình

họ khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp
luật.
Bên thực hiện bảo hiểm xã hội là cơ quan BHXH. Ở nước ta là BHXH
Việt nam và BHXH các tỉnh, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc. Bên thực
hiện BHXH chịu trách nhiệm trước nhà nước về việc thực hiện bảo hiểm xã
hội đối với mọi người lao động theo quy định của pháp luật, đồng thời chịu

12


trách nhiệm vật chất và tài chính đối với bên được bảo hiểm khi họ có đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật.
Phân loại theo hình thức bảo hiểm xã hội thì BHXH bao gồm BHXH tự
nguyện và BHXH tự nguyện. BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà người
lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. Chế độ bảo hiểm ốm đau
và chế độ bảo hiểm thai sản đều là những nội dung thuộc lĩnh vực BHXH bắt
buộc.
Chế độ ốm đau và chế độ thai sản là hai chế độ ra đời rất lâu trong lịch
sử. Ở mỗi giai đoạn, với bối cảnh lịch sử khác nhau sẽ hình thành điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định vì vậy mà pháp luật về giải quyết chế độ ốm đau và
thai sản ở Việt Nam và các quốc gia trên thế giới cũng thay đổi theo từng giai
đoạn lịch sử của đất nước
1.1.2. Pháp luật về giải quyết chế độ ốm đau và chế độ thai sản
Bảo hiểm ốm đau là một trong các chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong
lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật bảo hiểm xã hội. Ở nước Đức,
ngay từ những năm 50 của thế kỷ XIX (1850) nhiều chính quyền bang đã
quan tâm tới việc quy định và bắt buộc thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau đối
với người lao động. Đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm ốm đau ngày càng
được mở rộng vào năm 1883 dưới thời Tể tướng Bismark. Sau đó, nhiều nước
châu Âu cũng đã cho ra đời các đạo luật của mình có quy định về vấn đề bảo

hiểm ốm đau
Ở Việt Nam, ngay sau những ngày đầu giành chính quyền và những
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn,
nhưng Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã rất quan tâm
tới chính sách trợ cấp đối với người lao động, trong đó có trợ cấp ốm đau. Cụ
thể, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh, trong đó quy định về chế độ trợ cấp ốm
đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước, bao gồm sắc lệnh số:

13


29/SL ngày 12-03/1947, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950, Sắc lệnh số
77/SL ngày 22/5/1950. Tuy nhiên, theo Hiến pháp năm 1946 và Sắc lệnh đã
ban hành, thực chất chỉ tồn tại cơ chế tự bảo hiểm trong nội bộ đơn vị sử dụng
lao động, người sử dụng lao động chịu trách nhiệm đài thọ tiền lương cho
người lao động trong thời gian nghỉ việc vì ốm đau theo quy định của Nhà
nước. Qua từng thời kỳ, pháp luật về bảo hiểm ốm đau của nước ta được xây
dựng và phát triển theo hướng ngày càng phù hợp hơn.
Năm 1960, Hội đồng Chính phủ có Nghị quyết trong đó đã xác định “đi
đôi với việc cải tiến chế độ tiền lương, cần cải tiến và ban hành các chính sách
cụ thể về bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho công nhân, viên chức, cán bộ”.
Ngày 14/12/1961 Ủy ban thường vụ quốc hội phê chuẩn, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 kèm theo Điều lệ tạm thời về các
chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước và Nghị định số
161/CP ngày 30/10/1964 về chế độ đối với lực lượng vũ trang. Sau đó, năm
1985, Nhà nước ban hành Điều lệ BHXH tạm thời.
Để phù hợp và đáp ứng với tình hình của đất nước trong giai đoạn phát
triển mới, bảo hiểm ốm đau lần lượt được áp dụng trong các quy định mới của
Nhà nước sau đây:
+ Năm 1994, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH theo Nghị định số

43/CP
+ Năm 1995, thi hành quy định về BHXH trong Bộ luật lao động,
Chính phủ ban hành Điều lệ kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và
Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng đối với công chức, công nhân
viên chức Nhà nước, người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc; sỹ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an
nhân dân.

14


+ Năm 1998, ban hành Nghị định số 93/CP và Nghị định số 94/CP năm
1999 sửa đổi, bổ sung Điều lệ BHXH năm 1995.
+ Năm 2003, ban hành Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 09/01/2003 và
Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 05/8/2003 về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ Bảo
hiểm xã hội năm 1995.
+ Luật Bảo hiểm xã hội được thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2007
trong đó bảo hiểm ốm đau là 1 trong 5 chế độ của BHXH bắt buộc [19tr.120].
* Cũng giống như chế độ ốm đau, chế độ thai sản là chế độ xuất hiện từ
rất sớm. Ngay kỳ họp đầu tiên và trong suốt quá trình hoạt động, ILO đã ban
hành nhiều Công ước và khuyến nghị thể hiện sự quan tâm, bảo vệ sức khỏe
cũng như quyền lợi cho lao động nữ. Đó là Công ước số 3 năm 1919, Công
ước số 103 năm 1952, Công ước số 102 năm 1952 và Khuyến nghị số 95.
Mục đích của các Công ước và khuyến nghị này là nhằm đảm bảo cho người
lao động nữ và trẻ sơ sinh được chăm sóc cần thiết và được bảo vệ mức sống
đủ cho hai mẹ con trong thời kỳ người mẹ sinh con phải nghỉ việc. Theo đó,
các công ước này đã ấn định thời gian nghỉ sinh con, khoản trợ cấp, chăm sóc
y tế.
Hiện nay, chế độ thai sản được quy định trong pháp luật hầu hết các
nước trên thế giới nhưng tùy vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi

nước mà chế độ này được quy định khác nhau về thời gian nghỉ, mức trợ cấp,
điều kiện hưởng…
Ở nước ta cùng với các chế độ BHXH khác, chế độ thai sản đã được
quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật lao động từ khi giành được chính
quyền đến nay. Đó là chế độ thai sản được quy định trong Sắc lệnh số 29/SL
ngày 12/3/1947, Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 kèm theo Điều lệ tạm
thời về các chế độ BHXH trong đó có chế độ thai sản; Điều lệ BHXH ban

15


hành kèm theo Nghị định số 43/CP năm 1994; Điều lệ BHXH ban hành kèm
theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995; Điều lệ BHXH ban hành kèm theo
Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ và quy định trong Luật
bảo hiểm xã hội ban hành ngày 01/01/2007. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung
các Sắc lệnh, Nghị định, Điều lệ, đến nay Luật BHXH đã quy định chế độ bảo
hiểm thai sản đầy đủ, hoàn thiện và phù hợp hơn với đời sống, đáp ứng được
quyền lợi hợp pháp, cũng như thể hiện chính sách đặc biệt ưu đãi đối với lao
động nữ. Từ đó tạo điều kiện cho người lao động nói chung, lao động nữ nói
riêng ổn định cuộc sống, sức khỏe nhằm phát huy có hiệu quả năng lực nghề
nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.
Trợ cấp ốm đau và thai sản có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong
các chế độ BHXH:
- Đặc trưng của chế độ trợ cấp ốm đau và thai sản là chế độ trợ cấp
BHXH ngắn hạn tức là chi cho người lao động còn trong quá trình làm việc,
họ chỉ hưởng trợ cấp tạm thời trong thời gian họ nghỉ và sẽ tiếp tục trở lại làm
việc. Do vậy, việc chi trợ cấp này có ý nghĩa rất lớn đối với người lao động,
có vai trò trong việc thay thế một phần thu nhập trong thời gian nhất định khi
họ nghỉ việc khi ốm đau, thai sản… giúp người lao động được hưởng trợ cấp
sẽ có được cuộc sống ổn định, càng gắn bó, tin tưởng vào chính sách BHXH

của Nhà nước.
- Việc chi trả chế độ ốm đau, thai sản còn có ý nghĩa rất lớn về mặt tinh
thần. Việc chi trả trợ cấp cũng như việc quan tâm đến người lao động có tác
động rất lớn nhằm mục đích giảm dần tỷ lệ ngày công ốm đau, giúp người lao
động yên tâm chăm sóc cho thế hệ tương lai của đất nước, tăng dần tỷ lệ ngày
công lao động có ích, góp phần tăng năng suất lao động, từ đó tác động trở lại
đối với chế độ BHXH làm giảm chi, nâng cao hiệu quả quản lý quỹ BHXH.

16


Chính bởi những vai trò và ý nghĩa quan trọng này mà hiện nay, Nhà
nước quy định rất cụ thể, khoa học về pháp luật giải quyết chế độ ốm đau, thai
sản cho người lao động. Theo đó, pháp luật về giải quyết chế độ ốm đau thai
sản là một tập hợp (hệ thống) các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội liên quan đến việc giải quyết chế độ ốm đau, thai sản. Các quy định
này được thể hiện ở nhiều các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như:
Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11; Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày
22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH
bắt buộc, Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/1/2007 hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006
của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc;
Quyết định số 777/QĐ-BHXH ngày 17/05/2010 của Tổng Giám đốc BHXH
Việt Nam về việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng
các chế độ bảo hiểm xã hội… trong đó Luật BHXH có vai trò quan trọng nhất
vì quy định tất cả các vấn đề liên quan đến giải quyết chế độ ốm đau, thai sản
bao gồm: đối tượng và điều kiện bảo hiểm, thời gian hưởng, mức bảo hiểm…
Nội dung chủ yếu của pháp luật giải quyết chế độ ốm đau, thai sản bao
gồm:
+ Nhóm quy phạm quy định về đối tượng và điều kiện bảo hiểm;

+ Nhóm quy phạm quy định về thời gian hưởng bảo hiểm;
+ Nhóm quy phạm quy định về mức bảo hiểm
Pháp luật giải quyết chế độ ốm đau, thai sản trước đây không quy định
cụ thể các nhóm quy phạm quy định về đối tượng, điều kiện bảo hiểm, thời
gian hưởng và mức hưởng bảo hiểm. Các văn bản trước có đề cập đến các quy
định trên song chưa cụ thể, chung chung và còn nhiều thiếu xót. Cụ thể: Sắc
lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 chỉ quy định về thời gian nghỉ hưởng và mức
hưởng chế độ thai sản, điều kiện hưởng chế độ ốm đau. Sắc lệnh số 77/SL

17


ngày 22/5/1950 chỉ quy định về thời gian hưởng và mức hưởng chế độ thai
sản. Nghị định số 218-CP ngày 27/12/1961 chỉ quy định mức hưởng chế độ
ốm đau, thời gian nghỉ chăm sóc con ốm, thời gian nghỉ sinh con, sảy thai, đẻ
non, mức hưởng nghỉ chế độ thai sản. Một số quy định có đề cập đến nghỉ
dưỡng sức phục hồi sức khỏe nhưng chưa cụ thể. Pháp luật về giải quyết chế
độ ốm đau, thai sản hiện nay đã phần nào hoàn thiện, bổ sung hơn về chế độ
ốm đau, thai sản so với các quy định trước đây.
Trên thế giới, do sự phát triển kinh tế xã hội và đường lối chính trị của
các nước mà hiện nay, vấn đề an sinh xã hội ngày càng được quan tâm và
hoàn thiện. Việc áp dụng bảo hiểm xã hội với chế độ ốm đau và chế độ thai
sản cũng được quy định khoa học, cụ thể. Có thể kể đến như Trung quốc.
Ngay từ những ngày đầu Trung Quốc giành độc lập, các chính sách, chế độ về
an sinh xã hội đã được ban hành. Năm 1950 chính sách nhằm trợ giúp và giải
quyết vấn đề công nhân thất nghiệp từ chế độ cũ để lại đã được triển khai.
Năm 1951, chính sách, chế độ bảo hiểm về hưu trí, tàn tật, tử tuất, ốm đau,
chăm sóc y tế, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản đã được đưa ra.
Sau đó Trung Quốc đã ban hành một loạt các chính sách, chế độ về an sinh xã
hội bao gồm cả cứu tế xã hội, chế độ đối xử và chăm sóc đặc biệt nhằm không

ngừng đẩy mạnh và điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu nâng cao của xã hội.
Tuy nhiên, phạm vi của chế độ an sinh xã hội cho đến những năm giữa của
thập kỷ 80 về cơ bản mới được thực hiện ở khu vực thành phố và tập trung
vào các doanh nghiệp nhà nước.
Kể từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành một loạt các cải cách đối với
lĩnh vực an sinh xã hội. Năm 1984 bắt đầu cải cách chính sách hưu trí đối với
người lao động làm việc trong các doanh nghiệp. Năm 1986, ban hành chế độ
bảo hiểm thất nghiệp đối với khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Các chính sách
BHXH như thai sản, tai nạn lao động, chăm sóc y tế được cải cách và ban

18


hành vào các năm 1994, 1996 và 1998. Năm 1999, chính sách bảo đảm mức
sống tối thiểu được đưa ra và năm 2002 mô hình hợp tác xã y tế kiểu mới đối
với khu vực nông thôn được thiết lập… Những cải cách và phát triển của hệ
thống an sinh xã hội đã thực sự góp vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
và ổn định xã hội.
Hệ thống an sinh xã hội ở Trung Quốc về cơ bản bao gồm: BHXH, cứu
trợ xã hội, phúc lợi xã hội, chế độ đối xử và chăm sóc đặc biệt, chính sách
tương hỗ xã hội.
Chế độ BHXH gồm: hưu trí, thất nghiệp, BHYT cơ bản, tai nạn lao
động và thai sản. Quỹ BHXH bảo đảm mọi cá nhân được trợ cấp và hỗ trợ tài
chính khi tuổi già, thất nghiệp, ốm đau, tai nạn lao động và sinh đẻ ở mức cơ
bản. Nguồn kinh phí để chi trả các chế độ này chủ yếu trên cơ sở đóng góp
của người lao động và chủ sử dụng lao động. Chế độ về thai sản đã được thiết
lập từ những năm 1950. Năm 1994, Bộ Lao động ban hành chính sách mới về
chế độ thai sản đối với người lao động trong các doanh nghiệp, trong đó quy
định nghĩa vụ đóng góp thuộc về chủ sử dụng lao động và tối thiểu là 1% của
tổng tiền quỹ tiền lương. Người lao động không phải đóng góp và được

hưởng trợ cấp sinh đẻ và chi phí y tế trong thời gian sinh đẻ; thời gian hưởng
chế độ không thấp hơn 90 ngày. Trong thời gian sinh đẻ, chủ sử dụng lao
động không được giảm mức tiền công, tiền lương và chấm dứt hợp động lao
động. Cuối năm 2003 đã có 36,48 triệu người tham gia chế độ bảo hiểm thai
sản tại 29 tỉnh, thành phố và số phụ nữ được hưởng chế độ thai sản là 350.000
người [45].
1.2. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật trong giải quyết
chế độ ốm đau, thai sản.
1.2.1. Khái niệm

19


Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức và cá nhân (chủ thể pháp
luật) khi gặp phải tình huống thực tế mà pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận
thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo các quy định pháp luật vào tình
huống cụ thể của cuộc sống thông qua hành vi hợp pháp của mình. Nói cách
khác, những đòi hỏi, cấm đoán, hay cho phép của pháp luật đối với các tổ
chức, cá nhân đã được biểu hiện thành các hành vi thực tế sử dụng quyền,
thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật thì đó là thực hiện pháp luật. Về
bản chất, thực hiện pháp luật là tạo lập các hành vi hợp pháp (những hành vi
không trái pháp luật, nằm trong giới hạn cho phép của pháp luật, phù hợp với
những mệnh lệnh (chỉ dẫn) của pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã
hội [23 – tr.14].
Tóm lại, thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực
hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật [23- tr.15].
Thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản là thực
hiện pháp luật về một lĩnh vực cụ thể trong xã hội - lĩnh vực hoạt động về
BHXH. Mặt khác, thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai

sản còn là một lĩnh vực của thực hiện pháp luật nói chung. Vì thế, khái niệm
thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản hiển nhiên có đầy
đủ các nội dung cơ bản của khái niệm thực hiện pháp luật nói chung; đồng
thời khái niệm thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản
phải phản ánh được những phương hướng, mục tiêu cụ thể của hoạt động về
chế độ chính sách BHXH bắt buộc theo pháp luật BHXH. Từ cách đặt vấn đề
trên, khái niệm thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản
được hiểu:
Thực hiện pháp luật trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản là hành vi
hợp pháp của đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và cơ quan bảo hiểm xã

20


×