BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN HUY CƢỜNG
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ,
BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ NGÀNH: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ PHƢỢNG
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Huy Cƣờng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐT:
Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
BLDS:
Bộ luật dân sự
ĐTV:
Điều tra viên
HĐXX:
Hội đồng xét xử
KSV:
Kiểm sát viên
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
TTHS:
Tố tụng hình sự
THTT:
Tiến hành tố tụng
VKS:
Viện kiểm sát
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN ................................................................................................................. 5
1.1. Khái niệm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên ................................................................................... 5
1.2. Cơ sở của việc quy định quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là người chưa thành niên .................................................................. 10
1.2.1. Cơ sở lý luận ................................................................................. 10
1.2.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................. 15
1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên ........................................................... 17
1.3.1. Ý nghĩa chính trị ............................................................................ 17
1.3.2. Ý nghĩa xã hội................................................................................ 18
1.3.3. Ý nghĩa pháp lý.............................................................................. 20
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN ............................................................................................................... 22
2.1. Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên ................... 22
2.1.1. Quyền tự bào chữa ........................................................................ 22
2.1.2. Quyền được nhờ người khác bào chữa ......................................... 25
2.1.3. Quyền được có người bào chữa .................................................... 28
2.2. Thực tiễn thi hành quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là người chưa thành niên ............................................................................. 31
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ..................................... 34
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân .................................................... 37
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI
CHƢA THÀNH NIÊN .................................................................................. 56
3.1. Sửa đổi, bổ sung các qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
..................................................................................................................... 56
3.2. Một số giải pháp khác .......................................................................... 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang đổi mới một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, kéo theo đó là những mặt trái của xã hội như tình hình tội phạm
diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt số tội phạm trong độ tuổi chưa thành niên
đang có chiều hướng gia tăng và tính nguy hiểm ngày càng cao. Mặc dù trong
những năm gần đây, Nhà nước ta đã liên tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào chương trình giảng dạy của
nhà trường để nâng cao nhận thức về pháp luật cho các em, tuy nhiên tình
trạng người chưa thành niên phạm tội vẫn không có chiều hướng giảm, loại
tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng mà các em vi phạm cũng
ngày một nhiều hơn, hành vi phạm tội cũng ngày một tinh vi hơn. Việc xác
định nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng này có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển bình thường và bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho các em. Với những khiếm khuyết về tâm sinh lý của một
người đang phát triển và những tác động tiêu cực từ gia đình, nhà trường và
xã hội đã dẫn các em đến với những chọn lựa sai lầm, không phù hợp với quy
tắc xã hội và quy định của pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật có chính sách xử
lý giành riêng cho người chưa thành niên phạm tội để bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho các em trong đó có quyền bào chữa.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung
và đặc biệt là quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên nói riêng trong TTHS là một trong những điểm tích cực được
quy định trong BLTTHS năm 2003. Có thể nói đây là một trong những quyền
cơ bản, quan trọng của của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự cho thấy việc
đảm bảo quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên chưa được thực hiện một cách đầy đủ, nhiều cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng vẫn còn xem
2
nhẹ vấn đề này nên đã xâm phạm, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Xuất phát từ tầm
quan trọng đó nên tôi đã chọn đề tài “Quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam” làm để tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên và những vấn đề liên quan đến quyền bào chữa đã được một
số tác giả đề cập trong những công trình nghiên cứu của mình như: “Thực
hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” - luận án tiến sĩ
của tác giả Hoàng Thị Sơn (2003); “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ
tục đối với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” - luận
án tiến sĩ luật học của tác giả Đỗ Thị Phượng (2008); “Vấn đề bảo đảm quyền
bào chữa của người chưa thành niên” của tác giả Phan Trung Hoài (Tạp chí
kiểm sát, số 6 năm 2007); “Về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Trọng Phúc (Tạp chí nhà nước
và pháp luật, số 2 năm 2008); “Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên” của tác giả Nguyễn
Hải Ninh (Tạp chí luật học số 11 năm 2009); “Quyền bào chữa và việc đảm
bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả
Nguyễn Văn Trượng (Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 12 năm 2009). Ngoài
ra còn rất nhiều đề tài, bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí
chuyên ngành như Tạp chí Kiểm sát; Tạp chí Toà án nhân dân; Tạp chí Luật
học; Tạp chí dân chủ và pháp luật...Tuy nhiên xuất phát từ vấn đề quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên là một chế
định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam còn nhiều vướng mắc nên
rất cần được tiếp tục nghiên cứu. Qua đề tài của mình, tôi muốn đi sâu phân
tích về thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm đưa quyền bào chữa của
3
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được thực thi một
cách nghiêm túc trong thực tế.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung phân tích quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật
TTHS Việt Nam. Phân tích, đánh giá một số hạn chế, vướng mắc của chế
định. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích đã đề ra của luận văn, tác giả sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thống kê; phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp so sánh...nhằm làm rõ vấn đề quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật
TTHS Việt Nam.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm làm rõ một số
vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên; làm rõ nội dung và sự thể hiện của chế định này trong pháp
luật TTHS Việt Nam hiện hành; nghiên cứu thực tiễn thi hành quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên; tìm ra
những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc đó
để đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
4
Chương 2: Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thi
hành quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành
niên.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƢỜI BỊ
TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
1.1. Khái niệm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là ngƣời chƣa thành niên
Trong thực tiễn TTHS, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nhau mà các quyền của người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền bào
chữa có lúc chưa được chú trọng. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo nói chung và của người chưa thành niên nói riêng chưa được thực
hiện đầy đủ trong một số trường hợp.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung là một
quyền năng mà pháp luật TTHS quy định để họ thực hiện việc chống lại sự
buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người bị hại (trong trường hợp
khởi tố theo yêu cầu cầu của người bị hại) hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Bảo đảm quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc quan trọng của pháp
luật TTHS. Đây là một chế định thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố và xét xử
được khách quan, toàn diện nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật [21, tr 33].
Để đảm bảo cơ sở pháp lý cho quyền bào chữa, Điều 132 của Hiến
pháp năm 1992 quy định “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị can,
bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Điều 11 của BLTTHS năm 2003
đã ghi nhận và mở rộng phạm vi chủ thể của quyền bào chữa: “Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”.
Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, BLTTHS năm 2003 đã thêm chủ thể là
người bị tạm giữ cũng có quyền bào chữa. Đây là một sự bổ sung kịp thời
nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người bị tạm giữ (người bị nghi thực
hiện hành vi phạm tội).
6
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung
là một việc quan trọng nhưng đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên càng trở nên quan trọng hơn vì những đặc điểm riêng khác
biệt so với người thành niên.
Để đưa ra một khái niệm tổng quát nhất về quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, chúng ta cần phải làm rõ
thế nào là quyền bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa
thành niên là chủ thể như thế nào?
Liên quan đến quyền bào chữa trong pháp luật TTHS đã có rất nhiều
quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hợp các hành
vi tố tụng của bị can, bị cáo trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp
luật nhằm đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước các cơ quan tiến hành tố tụng” [4]. Quan điểm trên, tác giả đã để cập
đến nội dung vượt quá phạm vi quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Bởi, quyền
và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo được pháp luật TTHS điều chỉnh rất
nhiều, nhưng có những quyền không thuộc nội hàm của quyền bào chữa. Mặt
khác, quan niện “Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng” là không
đúng mà là tổng hợp các quyền, trong đó có nhiều quyền được ghi trong luật
TTHS. Hành vi bào chữa phải dựa trên cơ sở phù hợp với pháp luật TTHS là
chưa chính xác vì trong thực tế người có quyền tự bào chữa có thể bằng cách
“im lặng” hoặc dùng lý lẽ của mình để lập luận hay đưa ra vật chứng để
chứng minh về sự vô tội hay tình tiết giảm nhẹ TNHS cho chính bản thân
mình. Luật TTHS của ta không cấm “im lặng”, không bắt họ phải nói phù hợp
với pháp luật [17, tr 79].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền
tố tụng tạo khả năng cho bị can, bị cáo bào chữa về hành vi do mình thực
hiện đã bị buộc tội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác” [34, tr 71].
Hai quan điểm trên đều có điểm chung đó là chủ thể của quyền bào
chữa chỉ có thể là bị can và bị cáo.
7
Quan điểm thứ ba cho rằng: Các chủ thể thực hiện quyền bào chữa
gồm: “Người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo, người bào chữa, bị dơn
dân sự và người đại diện hợp pháp của họ. Thuộc nhóm này, còn có thể người
đang thi hành án hoặc người đã thi hành xong bản án trong trường hợp có
kháng nghị giám đốc thẩm (tái thẩm) đối với họ”[14, tr 30]. Quan điểm trên
lại mở rộng thêm quá nhiều chủ thể của quyền bào chữa, trong đó có cả bị
đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ, người đang thi hành án hoặc
người đã thi hành xong bản án trong trường hợp có kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm đối với họ.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Trong TTHS, quyền bào chữa chỉ xuất
hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội”; “buộc tội trong TTHS là hành vi của cơ
quan tiến hành tố tụng nhằm xác định TNHS đối với người bị buộc tội trên cơ
sở các chứng cứ về vụ án hình sự đã xác định được tại thời điểm đó. Do giá
trị pháp lý của cá chứng cứ khác nhau nên giá trị của sự buộc tội cũng khác
nhau trong mỗi giai đoạn và tất yếu hậu quả pháp lý của sự buộc tội của mỗi
cơ quan tiến hành tố tụng cũng khác nhau”; “sự buộc tội đôi khi xuất hiện cả
khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có người bị tạm giữ”
[9, tr 26, 27].
Chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ tư khi cho rằng quyền bào chữa
chỉ xuất hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội và sự buộc tội đôi khi xuất hiện cả
khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có người bị tạm giữ.
Như vậy, tác giả cho rằng chủ thể của quyền bào chữa phải bao gồm cả người
bị tạm giữ. Khi một người đã có quyết định tạm giữ của cơ quan có thẩm
quyền tức là họ đã bị nghi thực hiện tội phạm, và như vậy bản thân họ đã phải
chịu sự bất lợi như hạn chế về tự do thân thể và hành vi của họ đang được cơ
quan có thẩm quyền điều tra làm rõ. Chính vì vậy, bản thân người bị tạm giữ
phải có quyền bào chữa. Việc quy định quyền được bào chữa không chỉ thuộc
về bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị tạm giữ là một bước tiến lớn trong
hoạt động lập pháp, phù hợp với xu thế chung của các nước trong khu vực và
trên thế giới.
8
Từ những quan điểm nêu trên, căn cứ vào quy định của Hiến pháp và
BLTTHS 2003 ta có thể khẳng định: Chủ thể của quyền bào chữa bao gồm
người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.
Về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên:
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy
đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
Chính vì những đặc điểm đó mà pháp luật mỗi quốc gia lại quy định độ tuổi
của người chưa thành niên khác nhau.
Tại Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên
hợp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989 có ghi: “Trong phạm vi
Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Tại Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến pháp năm 1992, BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003, Bộ luật
Lao động, BLDS năm 2005, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và một số
văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy
định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi.
Theo Điều 18 của BLDS 2005, người chưa thành niên được định nghĩa
như sau: “Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Và theo Từ điển
Tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ học Việt Nam năm 2002 đã đưa ra khái niệm
về người chưa thành niên như sau: “Người chưa thành niên là người chưa
phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy
đủ quyền và nghĩa vụ công dân”. Dựa vào khái niệm này chúng ta có thể xác
định người chưa thành niên theo hai góc độ. Thứ nhất, người chưa thành niên
là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần. Họ
đang trong thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi trẻ con sang tuổi người lớn nên họ chưa
thể có sự chín chắn trong suy nghĩ, đồng thời mặt tư duy nhận thức chưa hoàn
thiện và còn nhiều hạn chế. Thứ hai, người chưa thành niên được coi là người
chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân, và độ tuổi chính là ranh giới để
9
phân biệt người chưa thành niên và người thành niên. Xuất phát từ cơ sở khoa
học cũng như đặc điểm đặc trưng của người Việt Nam nên Nhà nước Việt
Nam xác định đổ tuổi đó là 18. Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành
niên và có đủ quyền, nghĩa vụ công dân, còn người người chưa thành niên thì
bị hạn chế hơn về quyền, nghĩa vụ công dân so với người thành niên ở một số
lĩnh vực [19, tr 5, 6].
Tại Điều 68 của BLHS năm 1999 quy định về áp dụng BLHS đối với
người chưa thành niên phạm tội có quy định: “Người chưa thành niên từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những
quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần
chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này”. Như vậy,
theo quy định của BLHS hiện hành thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi khi bị tạm giữ hay là bị can, bị cáo thì sẽ được hưởng chính
sách hình sự riêng, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm. Tuy nhiên, việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng có sự
phân hoá khác nhau. Cụ thể, tại Điều 12 của BLHS năm 1999 quy định về
tuổi chịu TNHS quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Người bị tạm giữ là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng
biện pháp ngăn chặn là tạm giữ khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật
TTHS. Bị can là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự
vì có đủ căn cứ để xác định là người đó đã thực hiện hành vi phạm tội theo quy
định của pháp luật TTHS. Bị cáo là người chưa thành niên là người đang ở độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị Toà án quyết định đưa vụ
án ra xét xử căn cứ vào quy định của pháp luật TTHS [ 10, tr 7].
10
Người chưa thành niên phạm tội khi tham gia vào quan hệ pháp luật
TTHS thì họ có thể là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người bị kết án,
tuỳ thuộc vào quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai
đoạn tố tụng khác nhau. Như vậy, có thể kết luận người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi tại thời điểm họ có quyết định tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật TTHS.
Quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa
thành niên phải được bảo đảm dựa trên cơ sở nguyên tắc của Hiến pháp 1992;
Điều 11 của BLTTHS năm 2003 và được tiến hành theo thủ tục đặc biệt được
quy định tại Chương XXXII của BLTTHS hiện hành. Quy định về quyền bào
chữa nhằm mục đích đưa ra thủ tục tố tụng sao cho phù hợp với các đặc điểm
tâm, sinh lí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, nhằm
xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do vậy, quyền bào chữa
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong qua trình tham gia tố tụng [10, tr 7].
Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu: Quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên là tổng thể các quyền mà
pháp luật quy định cho họ có thể được sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay
toàn bộ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
1.2. Cơ sở của việc quy định quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt về thể chất, tinh thần cũng như
sự nhận thức và thực trạng người chưa thành niên phạm tội nên pháp luật
TTHS Việt Nam có quy định riêng về quyền bào chữa. Sự quy định đó phải
xuất phát từ những cơ sở khác nhau đó là cơ sở lý luận và thực tiễn.
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên nói
chung và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong các
11
vụ án hình sự nói riêng nên pháp luật TTHS có những quy định về quyền bào
chữa đối với người chưa thành niên.
Đặc trưng cơ bản của nhóm người chưa thành niên biểu hiện trước hết
ở vị trí vai trò trong đời sống xã hội cũng như trong chính bản thân mỗi
người. Trong xã hội, thế hệ người chưa thành niên bao giờ cũng đại diện cho
một sự chuyển tiếp vào các thế hệ mới. Độ tuổi của người chưa thành niên
luôn hàm chứa trong nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại bỏ, vừa
định dạng vừa biến động trong nhận thức, tâm lý, tình cảm, suy nghĩ của con
người trong giai đoạn này rồi trở thành khuôn mẫu nhân cách của chính con
người đó trong tương lai sau này. Đặc trưng cơ bản của những người trong độ
tuổi chưa thành niên có thể được xác định bởi những biến đổi thường xuyên,
liên tục của ba mặt cơ bản là mặt thể chất, mặt tâm lý, tình cảm, nhận thức và
mặt hành vi.
Người chưa thành niên trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là
người đang ở độ tuổi phát triển mạnh cả về thể chất và tinh thần. Đây là thời
kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ con sang người lớn, là lứa tuổi rất hiếu động,
dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Do đặc điểm tâm sinh
lý của người chưa thành niên như vậy nên khả năng nhận thức tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện và khả năng tự kiềm chế còn
yếu. Mặt khác, sự hiểu biết về pháp luật của họ còn rất hạn chế, đồng thời do
tuổi còn trẻ nên ý thức phạm tội của người chưa thành niên nói chung chưa
sâu sắc [15].
Ở độ tuổi của người chưa thành niên từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi không
những có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất mà ở giai đoạn này cũng có sự thay
đổi về tâm lý, tình cảm, nhận thức. Vì vậy, người chưa thành niên ở độ tuổi
này có sự biến động trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối sống và nhân
cách sau này. Từ sự thay đổi về thể chất và nhận thức đã tác động đến hành
vi. Hành vi của nhóm người chưa thành niên trong độ tuổi này thường hành
động theo cảm tính, hành động ít khi có sự cân nhắc, tính toán chín chắn.
12
Chính từ đặc điểm phát triển tâm sinh lý không ổn định của người chưa
thành niên nên Nhà nước cần đưa ra những nguyên tắc xử lý đối với họ như
thế nào cho hợp lý để có hiệu quả cao trong việc giáo dục, cải tạo người chưa
thành niên phạm tội. Bên cạnh đó do chưa có sự nhận thức đầy đủ về mặt xã
hội cũng như về mặt pháp luật nên chúng ta cần phải có thủ tục đặc biệt để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ để họ thực hiện các nghĩa vụ của
mình trước pháp luật. Khi người chưa thành niên tham gia vào các quan hệ
pháp luật TTHS bắt buộc, họ phải có người đại diện để bảo vệ quyền lợi cho
mình, bởi vì ở độ tuổi của họ, người chưa thành niên chưa thể tự bảo vệ được
quyền lợi trước sự buộc tội của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đây chính là cơ
sở để pháp luật TTHS có những quy định về việc tham gia tố tụng của người
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Khi
tham gia bào chữa cho họ, người bào chữa phải có kiến thức cần thiết về tâm
lý học, khoa học giáo dục...có như vậy mới có thể đạt tới nhiệm vụ của TTHS
đặt ra trong việc đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng cho người chưa
thành niên khi tham gia hoạt động tố tụng, đồng thời xác định được sự thật
khách quan của vụ án [20].
Thứ hai, xuất phát từ chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối
với người chưa thành niên phạm tội.
Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên
phạm tội thể hiện ở đường lối xử lý. BLHS năm 1999 đã quy định hẳn một
Chương riêng, Chương X (những quy định đối với người chưa thành niên
phạm tội) từ Điều 68 đến Điều 77 để quy định rất cụ thể về đường lối xử lý
đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tại khoản 1, Điều 69 của BLHS năm 1999 quy định về nguyên tắc xử
lý đối với người chưa thành niên phạm tội: “Việc xử lý người chưa thành niên
phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”. Điều luật trên cũng đã
quy định rõ mục đích xử lý người chưa thành niên chủ yếu là nhằm giáo dục,
13
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành những công dân có ích cho xã hội
sau này.
Chính sách hình sự của Nhà nước ta cũng xuất phát từ khả năng nhận
thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của người chưa thành niên phạm tội
còn có những hạn chế, vì vậy cần thiết phải định ra đường lối xử lý và phân
biệt mức hình phạt khác so với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Chính sách hình sự của Nhà nước ta không chỉ thể hiện qua đường lối
xử lý được quy định tại BLHS năm 1999 mà còn quy định về thủ tục áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội, quy định tại Chương XXXII của
BLTTHS năm 2003 (thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên). Đây
được coi là một thủ tục đặc biệt. Điều đó cho thấy, Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đến người chưa thành niên, mặc dù họ là người bị buộc tội.
Trong quá trình THTT, những người THTT ngoài việc phải có những
hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm đối với người chưa thành niên phạm tội; mà còn
phải xác định những yếu tố quan trọng về độ tuổi, trình độ phát triển về thể
chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành
niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Trong tất cả các yếu tố trên, vấn đề bảo đảm cho người chưa thành niên
phạm tội khả năng tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình được
thực hiện qua 3 kênh chính: Một là, quyết định giao người chưa thành niên
phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát; hai là, sự tham gia
các giai đoạn tố tụng của đại diện nhà trường, tổ chức (kể cả sự hiện diện của
Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên tại phiên toà sơ thẩm); ba
là, sự tham gia tố tụng của người bào chữa [11, tr 37].
Như vậy, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong quá trình tham gia tố tụng đã có sự khác biệt lớn đối với người đã thành
niên phạm tội về quyền lợi cũng như sự quan tâm bảo vệ từ nhiều chủ thể
khác nhau, trong đó có sự bảo đảm về quyền bào chữa.
14
Thứ ba, xuất phát từ sự tương đồng giữa pháp luật quốc tế, pháp luật
các quốc gia và pháp luật Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, Nhà nước ta đã quan tâm và ký kết
gia nhập một số Công ước quốc tế về bảo đảm các quyền dân sự và chính trị,
trong đó có việc bảo đảm quyền bào chữa. Theo điểm b, khoản 3, Điều 14 của
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị do Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua tại Nghị quyết số 2200 A (XXI) ngày 16 tháng 12 năm 1966.
Việt Nam gia nhập Công ước này ngày 24 tháng 9 năm 1982 - bảo lưu Điều
48.1: “Trong việc quyết định một tội hình sự, mọi người đều có quyền được có
- một cách hoàn toàn bình đẳng - những bảo đảm tối thiểu sau đây:...(b) Có
đủ thời gian phù hợp và điều kiện thuận tiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ
với người bào chữa do chính mình lựa chọn”.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê
chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 02
năm 1990. Công ước quốc tế về Quyền trẻ em là một tập hợp các quyền trẻ
em trên tất cả các lĩnh vực (mà rất nhiều quyền chưa hề được đề cập ở các văn
kiện trước đó) đã được Công ước ghi nhận, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ,
chăm sóc một cách có hiệu quả; được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí
tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội. Cùng với các điều đó, Công ước còn xác lập
một cơ chế quốc tế để giám sát việc thực hiện các quyền trẻ em trên thế giới,
tạo điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ. Với nội dung trên,
Công ước được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về
quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay. Tại khoản 1, Điều 3 của Công ước quy
định: “1. Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các
cơ quan phúc lợi xã hội của Nhà nước hay tư nhân, bởi Toà án, các nhà chức
trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích trước mắt của trẻ em phải
là mối quan tâm hàng đầu”.
Cơ sở nền tảng của việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là người chưa thành niên của Nhà nước ta chính là các quy định
15
tại các bản Hiến pháp, gần đây nhất là Hiến pháp năm 1992, trong đó quy
định việc bảo đảm quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa của công
dân, là một trong những quyền cơ bản của các quyền con người ở Việt Nam.
Mặc dù các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa đối
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên vẫn còn một số
vướng mắc, bất cập nhưng cũng đã thể hiện được chính sách nhân đạo của
Nhà nước đối với người chưa thành niên.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây, tình trạng người chưa thành niên vi phạm
pháp luật xảy ra khá phổ biến, điều cần lưu ý là hành vi vi phạm pháp luật
hình sự của người chưa thành niên ngày cành gia tăng. Việc xử lý người chưa
thành niên phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người chưa thành niên còn
yếu về nhận thức, hành vi của họ thường mang tính bộc phát do bị lôi kéo
hoặc kích động, họ chưa đủ khả năng làm chủ hành động của mình, hơn nữa
họ còn có một tương lai dài phía trước. Mặc dù chúng ta đã có nhiều biện
pháp nhằm giảm thiểu và hạn chế việc người chưa thành niên phạm tội nhưng
trong những năm gần đây số lượng người chưa thành niên vi phạm hình sự
không có dấu hiệu giảm đi. Số lượng người chưa thành niên phạm tội có
chiều hướng gia tăng, đòi hỏi chúng ta trong quá trình giải quyết vụ án phải
đảm bảo cho họ những quyền lợi ích chính đáng.
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, mặc dù các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã chú ý đến quyền, lợi ích của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong quá trình giải quyết các
vụ án hình sự nhưng tình trạng vi phạm, thiếu sót trong việc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên vẫn
còn xảy ra nên đã xâm phạm đến quyền lợi ích của họ.
Để việc điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ, bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội thì bị can, bị cáo phải được bày tỏ quan điểm, thái độ của mình đối với lời
16
buộc tội; được đưa ra các chứng cứ theo quy định của pháp luật để thanh
minh, bác bỏ lời buộc tội hoặc giảm nhẹ tội cho mình. Nói một cách khác, bị
can, bị cáo phải có quyền bào chữa. Hơn nữa, để việc giải quyết vụ án được
khách quan, CQTHTT phải xem xét và đánh giá chứng cứ từ nhiều góc độ
khác nhau. Vấn đề này đã được khẳng định rõ tại Điều 10 BLTTHS năm 2003
với nội dung: “CQĐT, VKS, Toà án có nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô
tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị
cáo” [30, tr 16]. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên, BLTTHS đã quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa
thành niên có quyền bào chữa và những đảm bảo cần thiết để quyền này được
thực hiện một cách chính xác, chặt chẽ trên thực tế.
Trong giai đoạn hiện nay, việc quy định vai trò, vị trí, trách nhiệm của
bên buộc tội và bên gỡ tội luôn được chú trọng, quan tâm trong pháp luật hiện
hành và cả trong việc nghiên cứu, sửa đổi pháp luật tố tụng trong thời gian
tới. Xuất phát từ tầm quan trọng đó mà Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” đã xác định: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát
viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác ...Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm
cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật...; việc phán quyết của Toà
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào
chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi
ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật...”.
Ngày
02/06/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ- TW về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020. Một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp
được đề ra trong Nghị quyết này là: “Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử,
17
xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tư pháp...”.
Để việc tranh luận có hiệu quả, dòi hỏi phải tồn tại song song hai chức
năng buộc tội và bào chữa. Buộc tội và bào chữa là hai chức năng bình đẳng
trong TTHS, tức là bên buộc tội và bên gỡ tội đều có quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, được đưa ra yêu cầu tranh luận trước Toà án [30, tr 18].
Cần phải nhấn mạnh rằng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên đã xác định vị trí tố tụng của họ. Người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên bị đe dọa bởi những hậu
quả pháp lý nhất định vì thế mà pháp luật dành cho họ có những quyền thực
sự với mục đích để họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc quy định quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên có nhiều ý nghĩa, trong đó có việc giúp các CQTHTT
giải quyết vụ án một cách khách quan, nhanh chóng, chính xác và không làm
oan người vô tội, tránh được việc chỉ nghiêng về buộc tội và xem xét một
chiều, nhất là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền bào chữa của ngƣời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
1.3.1. Ý nghĩa chính trị
Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh được thể hiện thông qua việc ghi
nhận, mở rộng, bảo đảm trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Trong
các quyền cơ bản của công dân thì các quyền về chính trị thể hiện rõ nhất tính
dân chủ của chế độ Nhà nước ta. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên thể hiện sự bảo đảm quyền công dân và
quyền con người trong quá trình tham gia tố tụng, là chế định thể hiện rõ nét
nhất của xã hội dân chủ.
18
Tại điều 11 của BLTTHS năm 2003 quy định: “Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Quy định
trên thể hiện sự tôn trọng quyền con người, bảo đảm cho công tác điều tra,
truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện, đầy đủ, phù hợp với tinh thần
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, tại điểm
d khoản 3 Điều 14 quy định: “Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào
chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được
thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ
giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và
không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện chi trả”.
Thông qua các quy định tiến bộ, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế,
có thể thấy được sự ưu việt của Nhà nước ta trong vấn đề bảo đảm nhân
quyền của công dân.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung và của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên nói riêng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng về việc tiếp tục dân
chủ hóa công tác xét xử và tăng cường bảo vệ quyền của công dân trên cơ sở
tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc TTHS của CQĐT, VKS và Toà án. Cùng
với việc quan tâm cuộc sống của nhân dân, các cơ quan Nhà nước cần phải
tôn trọng và bảo đảm các quyền của công dân đã được Hiến pháp quy định
[32, tr 27].
Việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
thể hiện của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong sự nghiệp đổi
mới của chúng ta. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, con người luôn được
Đảng và Nhà nước đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Bảo đảm quyền
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là nội dung quan trọng của
chính sách vì con người của Đảng và Nhà nước ta [12, tr 12].
1.3.2. Ý nghĩa xã hội
Thực hiện và đảm bảo quyền bào chữa của người người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ý nghĩa xã hội
19
ở đây thể hiện trên các phương diện khác nhau. Trước hết, nó thể hiện tính
nhân đạo XHCN. Tính nhân đạo được thể hiên ở ngay trong các điều luật của
BLTTHS. Tại điểm b, khoản 2, Điều 57 quy định: “2. Trong những trường
hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không
mời người bào chữa thì CQĐT, VKS hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư
phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào
chữa cho thành viên của tổ chức mình:...b) Bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”. Quy định trên cũng phù
hợp với tinh thần của Điều 305 của BLTTHS năm 2003, quy định về bào chữa
đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Có thể thấy, Nhà nước ta luôn
quan tâm đến những đối tượng là những người đặc biệt và người chưa thành
niên cũng là một trong những đối tượng đó. Người chưa thành niên được quan
tâm về mọi mặt, mặc dù họ có thể đang là đối tượng bị buộc tội.
Thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, ngoài việc thể hiện tính nhân đạo XHCN còn thể hiện tính
dân chủ. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên thường ở
trong trạng thái bất lợi hơn so với người thành niên về thể chất cũng như sự
hiểu biết về các mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, pháp luật cho phép người
đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành
niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo. Sự tham gia của người đại diện hợp pháp hay của người bào
chữa là để bảo vệ quyền và lợi ích cho cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên. Sự dân chủ còn thể hiện ở việc các chủ thể (người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người đại diện hợp pháp,
người bào chữa) được quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp
luật không cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận lời buộc tội của CQĐT, VKS
hoặc Toà án để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án.
Khi bào chữa, người đại diện hợp pháp hoặc người bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có quyền bình đẳng với các
20
chủ thể khác trong việc đưa ra chứng cứ và yêu cầu tranh luận tại phiên toà.
Việc đưa ra các chứng cứ, yêu cầu tranh luận giữa ý kiến buộc tội của KSV và
ý kiến gỡ tội của người bào chữa cho bị cáo tại phiên toà là một căn cứ quan
trọng, giúp cho HĐXX xác định sự thật của vụ án và ra quyết định một cách
đúng đắn, chính xác. Việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên góp phần đáng kể vào việc bảo vệ pháp
chế XHCN; giúp Toà án ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nâng
cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như lòng tin của nhân dân
vào hệ thống tư pháp của Nhà nước ta [ 10, tr 14].
1.3.3. Ý nghĩa pháp lý
Thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên là nguyên tắc hiến định trong tố tụng hình sự. Nguyên tắc này
được phát triển và cụ thể hóa trong các điều luật của BLTTHS nhằm góp phần
điều chỉnh việc giải quyết vụ án trong các giai đoạn khác nhau của TTHS.
Phù hợp với điều đó, pháp luật TTHS quy định một cách hệ thống các quyền
tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và khả năng sử dụng các quyền đó
để bác bỏ sự buộc tội, đưa ra những lý lẽ và chứng cứ để bào chữa cho mình
và những điều đó được pháp luật bảo đảm [32].
Việc thực hiện tốt quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên có tác động tích cực đến chất lượng hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử của các CQTHTT và bảo đảm cho việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Không thực hiện các biện pháp để đảm bảo quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được xem như là
vi phạm pháp luật TTHS, bởi vì nó hạn chế quyền của họ và ảnh hưởng đến
việc ra các quyết định tố tụng của các CQTHTT có căn cứ và hợp pháp.
Thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói
chung một cách có hiệu quả sẽ tránh được đến mức thấp nhất tình trạng oan
sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Sự thật khách quan chỉ được làm