Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Tòa án nhân dân tối cao với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.79 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THỦY

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỚI HOẠT ĐỘNG
ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC
Chuyên ngành: Lý luận Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ này là công trình nghiên cứu của
tôi, không sao chép của ai. Những trường hợp có sử dụng tư liệu trích dẫn đều
có chú thích về nguồn trích dẫn và tác giả. Kết quả nêu trong Luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Người thực hiện

Nguyễn Thị Thủy



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các Thạc sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư đã nhiệt
tình giảng dạy tôi trong thời gian theo học lớp cao học Luật khóa XIX của
Trường Đại học Luật Hà Nội. Đặc biệt là PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và viết luận văn.
Mặc dù đã cố gắng, nỗ lực hết mình, song chắc chắn luận văn này vẫn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô để có thể mở rộng và hoàn thiện đề tài luận văn trong các nghiên cứu
sau.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 02 năm 2013
Học viên

Nguyễn Thị Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chƣơng I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO,
BỒI DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO ................................................................................................... 7
1.1. Cán bộ, công chức của ngành tòa án và sự cần thiết phải tham gia
của Tòa án nhân dân tối cao vào việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán
bộ, công chức của ngành tòa án ................................................................. 7
1.1.1. Quan niệm về cán bộ, công chức ngành tòa án ở Việt Nam ............... 7
1.1.2. Sự cần thiết phải tham gia của Tòa án nhân dân tối cao vào việc đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của ngành tòa án ....................... 9

1.2. Khái niệm, quy trình, nội dung, hình thức, phƣơng pháp và chất
lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công chức của Tòa án nhân dân tối
cao ............................................................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của Tòa án nhân dân tối
cao................................................................................................................ 14
1.2.2. Quy trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức của Tòa án nhân dân tối cao ......................................................... 18
1.2.3. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chí đánh giá chất lượng đào
tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân tối cao ................. 21
1.3. Mục đích, ý nghĩa hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công chức
của Tòa án nhân dân tối cao .................................................................... 24
1.3.1. Mục đích hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của Tòa
án nhân dân tối cao ..................................................................................... 24
1.3.2. Ý nghĩa hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của Tòa án
nhân dân tối cao .......................................................................................... 25
1.4. Một số mô hình quốc tế về đào tạo bồi dƣỡng cán bộ, công chức
ngành Tòa án và những kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam .. 27
1.4.1. Mô hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tòa án tại Nhật Bản... 27


1.4.2. Mô hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tòa án ở Hàn Quốc 28
1.4.3. Mô hình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm phán tại Hoa Kỳ ........ 29
1.4.4. Một số kinh nghiệm có thể tham khảo được rút ra cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ngành tòa án ở Việt Nam ...................... 29
Chƣơng II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG
CÁN BỘ CÔNG CHỨC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO .......... 32
2.1. Những yếu tố có ảnh hƣởng đến hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng cán
bộ, công chức của Tòa án nhân dân tối cao ............................................ 32
2.2. Những thành tựu trong công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công
chức của Tòa án nhân dân tối cao ........................................................... 37

2.3. Những hạn chế, bất cập trong công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ
công chức của Tòa án nhân dân tối cao .................................................. 47
2.4. Đánh giá chung về công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công chức
của Tòa án nhân dân tối cao .................................................................... 51
Chƣơng III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC CỦA TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................... 56
3.1. Quan điểm chỉ đạo nâng cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ
công chức của Tòa án nhân dân tối cao .................................................. 56
3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công
chức của Tòa án nhân dân tối cao ........................................................... 62
3.2.1. Đổi mới về nhận thức về sự cần thiết và vai trò của Tòa án nhân dân tối
cao đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tòa án .... 65
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ngành tòa án của Tòa án
nhân dân tối cao. ......................................................................................... 66
3.2.3.

Giải pháp từ thực tiễn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức

ngành tòa án của Tòa án nhân dân tối cao ..................................................... 69
KẾT LUẬN .............................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: “Có tài mà không có đức là vô

dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Người luôn coi đào tạo,
bồi dưỡng nhân lực là nhiệm vụ trung tâm của nhà nước, là tiềm lực quan trọng
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức là một nội dung quan trọng trong công tác tổ
chức cán bộ của hầu hết mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở. Bất kỳ một chế độ, nhà nước nào muốn duy trì quyền lực,
nâng cao hiệu quả quản lý thì nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ phải
đặt lên hàng đầu.
Tại Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý bộ máy nhà nước đã xác
định: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy
hành chính, của cán bộ công chức”. Luật Cán bộ công chức năm 2008 cũng
quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý cán bộ công chức có trách nhiệm
xây dựng và công khai quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn
và nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ công chức”. Mục
đích của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức là nhằm trang bị những
kiến thức, kỹ năng và phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ, góp phần
xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp và có đủ năng lực xây dựng nền
hành chính tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và
xu hướng hội nhập quốc tế.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta có số lượng lớn nhưng
hoạt động lại chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát
triển kinh tế - xã hội; một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trì trệ, thiếu
nhạy bén, tha hóa về lối sống, thiếu bản lĩnh đấu tranh với những hành vi quan
liêu, nhũng nhiễu, chưa thực sự là công bộc của nhân dân... Nhiều cán bộ công
chức được đào tạo cơ bản song vẫn không đáp ứng được yêu cầu công vụ. Vấn


2
đề này tồn tại do nhiều nguyên nhân. Một trong những lý do quan trọng xuất

phát khâu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa thực sự được đánh giá đúng vai trò.
Suốt trong thời gian dài từ khi thành lập đến nay (13 tháng 9 năm 1945) cùng
với việc trải qua nhiều thay đổi về chính sách của nhà nước thì ngành tư pháp
chưa thực sự được quan tâm tương ứng với vai trò và trọng trách của mình,
nhất là trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.
Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh đó vừa là thuận lợi, đồng thời cũng
là thách thức đối với yêu cầu hiện đại, chuyện nghiệp hóa nền công vụ của đất
nước; đòi hỏi đội ngũ cán bộ công chức phải có phẩm chất đạo đức, năng lực
chuyên môn và bản lĩnh chính trị vững vàng. Nhiều văn kiện của Đảng đã chỉ rõ
tính cấp bách của nhu cầu cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nghị
quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về “Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm
2020”... Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ tương xứng với vai trò là trung
tâm của cuộc cải cách tư pháp thì một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách của ngành Tòa án là kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức toàn ngành Tòa án nói chung hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ ngành tư
pháp chính quy, hiện đại, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong
sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động chuyên môn, tận tâm
phục vụ nhân dân.
Thực hiện các yêu cầu và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo các điều
ước quốc tế đa phương, các hiệp định song phương mà Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia và yêu cầu của Tổ chức thương mại thế giới WTO nói riêng,
Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao
trình độ chuyên môn cho đội ngũ những người thực thi pháp luật. Việc xây
dựng nguồn nhân lực cho hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO là một đòi
hỏi cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu nhất định của WTO đối với chất lượng
công tác của cán bộ, công chức nhà nước nói chung, đối với Thẩm phán, cán



3
bộ công chức của ngành Tòa án nói riêng đặc biệt là trong những lĩnh vực mới
mà chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm như sở hữu trí tuệ, tranh chấp thương
mại có yếu tố nước ngoài....
Xuất phát từ bối cảnh trong nước và quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội và
thách thức để việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ công chức ngành
tòa án trở thành một yêu cầu cấp thiết. Đây cũng là lý do mà tác giả chọn đề
tài “Tòa án nhân dân tối cao với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức” làm đề tài cho luận văn Thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác cán bộ đặc biệt là đội ngũ cán
bộ công chức làm việc trong bộ máy nhà nước. Vấn đề xây dựng, đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ công chức đã được rất nhiều các nhà quản lý, nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình, bài viết về vấn đề này như:
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Xây dựng đội ngũ công chức trong tiến
trình cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của tác giả Đặng Đình Bách với nội dung nghiên cứu một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ công chức; phân tích, đánh
giá chương trình xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hiện nay; đồng thời đề
xuất những giải pháp cơ bản định hướng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta.
Sách: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của
PGS. TS Nguyễn Phú Trọng và PGS. TS Trần Xuân Sâm (Nxb Chính trị quốc gia
năm 2003). Đề tài nghiên cứu lịch sử phát triển các khái niệm cán bộ, công chức,
viên chức góp phần lý giải, hệ thống hóa các căn cứ nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức nói chung. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm củng cố, phát
triển đội ngũ này.
Đề tài “Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của TS. Thang
Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương, năm 2004. Trên cơ sở nghiên cứu


4
các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí của người cán bộ, công chức cũng như
yêu cầu đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Tìm hiểu những kinh
nghiệm xây dựng nền công vụ chính quy, hiện đại của các nước trong khu vực
và trên thế giới, từ đó xác định yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ công chức đáp
ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Hiên với bài viết “Cải cách chương trình đào
tạo cho các loại đối tượng công chức”; Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Ánh
Dương với đề tài “Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của cán bộ công chức
chính quyền cấp xã ở Hà Tĩnh hiện nay” (năm 2006); sách “Xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố quan kinh nghiệm
của Hà Nội” của Thạc sĩ Cao Khoa Bảng, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2008...
Ngoài ra vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức còn được đề cập
trong các bài viết, tham luận trên các báo, tạp chí và các báo cáo tổng kết
hàng năm của các sở, ban, ngành trong cả nước, góp phần làm phong phú hơn
tư liệu nghiên cứu về đề tài này. Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến đề
tài cán bộ, công chức chủ yếu dưới giác độ xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức nói chung, nghiên cứu và phân tích những khía cạnh lý luận và thực tiễn
của pháp luật về cán bộ công chức cũng như vai trò trong nền hành chính hiện
đại... mà chưa có đề tài, bài viết nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ công chức ngành tòa án nói riêng. Tác giả luận văn khai
thác một khía cạnh trong công tác cán bộ của ngành tòa án nhân dân.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ luật học nghiên cứu về vấn đề đào tạo,
bồi dưỡng đối với cán bộ công chức ngành Tòa án nhân dân nói riêng, tác giả tập

trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ do Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam thực hiện đối với cán bộ,
công chức ngành Tòa án từ năm 2008 đến 2011, từ đó đưa ra một số đánh giá và
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ


5
công chức ngành Tòa án, góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
nói chung trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận
Luận văn dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử về vấn đề con người; tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con
người và vai trò của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cũng như các
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đào tạo nguồn cán bộ tư
pháp. Bên cạnh đó, luận văn còn có những căn cứ là những văn bản pháp luật
về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức nói chung, cán bộ ngành Tòa án nhân
dân nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số quan điểm, quan niệm
của các tác giả có liên quan đến vấn đề này.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu: phương pháp
phân tích, thống kê để phản ánh thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức của Tòa án nhân dân tối cao; phương pháp tổng hợp, phương
pháp khái quát hóa để đánh giá thực trạng cũng như đề xuất những giải pháp
cho vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của Tòa án nhân dân tối cao; sử dụng phương pháp so sánh trong việc
đưa ra các mô hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ngành Tòa án của
một số nước trên thế giới đối chiếu với Việt Nam... để nghiên cứu vấn đề.
Đây đều là những phương pháp nghiên cứu khoa học, có hiệu quả.

5. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức của Tòa án nhân dân tối cao, luận văn đề xuất những
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của Tòa án nhân dân tối cao nhằm đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới.


6
Để đạt được mục đích đề ra như trên, luận văn xác định những nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Làm rõ một số vấn đề cơ bản của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức của Tòa án nhân dân tối cao;
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
của Tòa án nhân dân tối cao hiện nay;
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của Tòa án nhân dân tối cao.
6. Những kết quả nghiên cứu mới
Dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật, luận văn lần đầu tiên đề cập
nghiên cứu vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ công chức của Tòa án
nhân dân tối cao. Luận văn nghiên cứu một cách trực tiếp vấn đề đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ của ngành Tòa án. Đồng thời làm rõ vai trò của Tòa án nhân
dân tối cao trong việc đào tạo nguồn cán bộ của ngành mình, đặc biệt là đào
tạo nguồn Thẩm phán trước yêu cầu hiện nay.
Từ việc phân tích thực trạng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
ngành Tòa án, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Tòa án nhân dân tối cao nhằm đáp
ứng yêu cầu của bối cảnh mới, nhất là khi chúng ta đang tiến hành cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chƣơng I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1.1. Cán bộ, công chức của ngành tòa án và sự cần thiết phải tham gia
của Tòa án nhân dân tối cao vào việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ,
công chức của ngành tòa án
1.1.1. Quan niệm về cán bộ, công chức ngành tòa án ở Việt Nam
Cán bộ công chức là lực lượng lao động đặc biệt của xã hội, là nguồn
nhân lực đặc biệt, hoạt động lao động của họ luôn gắn với quyền lực nhà nước,
thực hiện quyền lực nhà nước nhằm mục tiêu phục vụ nhân dân, đất nước. Cán
bộ công chức là trung tâm của hệ thống chính trị, là nhân tố không thể thiếu tạo
nên bộ khung của bộ máy nhà nước, của nền hành chính và có vai trò hạt nhân
trong quá trình phát triển. Theo Luật Cán bộ Công chức năm 2008:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy

lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước…
Cán bộ, công chức ngành tòa án là những người được bầu, được tuyển
dụng, bổ nhiệm làm việc trong cơ quan Tòa án, được hưởng lương từ ngân


8
sách nhà nước, thực hiện công vụ gắn liền với công tác thực thi và áp dụng
pháp luật. Cán bộ, công chức ngành tòa án bao gồm thẩm phán, thẩm tra viên,
thư ký tòa án, chuyên viên và những cán bộ làm công tác chuyên môn khác.
Đội ngũ cán bộ này chủ yếu được tuyển dụng từ những người có trình độ cử
nhân luật trở lên (trừ những bộ phận không làm công tác nghiệp vụ) và phải
đáp ứng những tiêu chuẩn được quy định trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân, cụ thể:
- Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
- Có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên
quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
- Có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử,
- Có thời gian công tác thực tiễn,
- Có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của Pháp lệnh này, có
sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Ngoài việc đáp ứng đủ tiêu chuẩn chung nói trên thì tùy từng chức
danh cụ thể mà pháp luật quy định, khi có đủ điều kiện cán bộ công chức sẽ
được bổ nhiệm vào vị trí tương ứng.
Trải qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành các tòa án luôn được
củng cố về tổ chức và ngày càng lớn mạnh. Đến nay, ngành tòa án được tổ
chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương bao gồm: Tòa án nhân dân tối
cao, 63 tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ, 658 tòa án nhân dân

cấp huyện, 9 tòa án quân sự quân khu và tương đương, 17 tòa án quân sự khu
vực. Cùng với việc tăng cường về tổ chức, đội ngũ cán bộ ngành tòa án cũng
không ngừng được củng cố kiện toàn và tiến tới chuẩn hóa về chất lượng.
Có thể thấy, trong thời gian gần đây, số lượng cũng như chất lượng cán
bộ ngành tòa án đã được cải thiện một bước đáng kể, song vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu công tác cũng như đòi hỏi chung của sự nghiệp đổi mới, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành


9
tòa án nhân dân cần sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo, cán bộ công chức mà vai
trò tiên phong, quyết định là Tòa án nhân dân tối cao.
1.1.2. Sự cần thiết phải tham gia của Tòa án nhân dân tối cao vào việc đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của ngành tòa án
Theo Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp có chức danh tư pháp trong sạch, vững mạnh theo hướng đề cao
quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn chính trị,
phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm cũng như các kiến
thức xã hội đối với mỗi cán bộ công chức, được xác định là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của của công tác cải cách tư pháp ở nước ta. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này, nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất chính
trị của đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của xã hội thì việc nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực tư pháp là hết sức cần thiết và cấp bách.
Vì vậy, “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào
tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán
bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính
trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn,

có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa… " [7, tr.5] là chủ trương và giải pháp mà Đảng,
Nhà nước đề ra đối với cơ quan tư pháp, trong đó có ngành tòa án nhân dân.
Cơ sở lý luận
 Các quan điểm, chủ trương của Đảng về đào tạo cán bộ và trách nhiệm
đào tạo cán bộ
Điều 1 Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 4/7/2007 của Bộ Chính trị về ban
hành Quy chế phân cấp quản lý cán bộ và điểm 52.2, Quy định số 45-QĐ/TW
ngày 1/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành điều lệ Đảng thì “việc
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được xác định là một trong các nội dung
chính của công tác quản lý cán bộ” [3, tr.2]. Đồng thời cũng xác định nguyên tắc


10
trong thực hiện công tác quản lý cán bộ: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị” [3, tr.3].
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án,
Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án. Mặc dù Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2002 không quy định cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có chức năng đào tạo
cán bộ ngành Tòa án nhưng tại khoản 9, điều 25 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2002 có quy định “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ báo cáo
công tác của Tòa án trước Quốc Hội, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội và Chủ tịch
nước”. Theo đó, Tòa án nhân dân tối cao với chức năng, nhiệm vụ được giao thực
hiện quản lý các tòa án địa phương về tổ chức, trong đó có công tác cán bộ của.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với vai trò là người đứng đầu ngành phải chịu
trách nhiệm về chất lượng hoạt động xét xử của ngành mình.
 Quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
Theo quy định tại Điều 48 Luật Cán bộ công chức năm 2008 thì “Cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm xây
dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và
nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ công chức”. Khoản 1 Điều 49 Luật
Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng có quy định “Trường
của cơ quan nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội có
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức”.
“Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ,
chức danh cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ” (Điều
25 Luật Cán bộ công chức). Luật Cán bộ công chức cũng quy định về nội
dung, hình thức đào tạo cán bộ công chức:
“1. Nội dung, chương trình, hình thức, thời gian đào tạo, bồi dưỡng
công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý,
tiêu chuẩn của ngạch công chức và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ;


11
2. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức bao gồm: a) bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức; b) đào tạo, bồi dưỡng theo các chức
danh, lãnh đạo, quản lý” (Điều 47 Luật Cán bộ công chức).
Như vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức thuộc chức năng
nhiệm vụ của cơ quan quản lý cán bộ công chức, việc Tòa án nhân dân tối cao
tham gia đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành tòa án với vai trò chủ đạo là đảm
bảo đúng tinh thần quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm đào tạo,
yêu cầu cũng như những nguyên tắc trong việc đào tạo cán bộ, công chức.
Nghị định số 125/2011/NĐ-CP, ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Chính
phủ về trường của cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
lực lượng vũ trang nhân dân quy định: “Trường đào tạo, bồi dưỡng của cơ quan
Nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc, trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối
cao, Kiểm toán nhà nước. Người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp hoặc thủ

trưởng cơ quan chủ quản (đối với lực lượng vũ trang) trường đào tạo, bồi dưỡng
quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Trường đào tạo, bồi dưỡng”.
Khi Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 5/3/2010 của Chính phủ về
vấn đề đào tạo công chức có hiệu lực đặt ra yêu cầu về vấn đề đào tạo bắt
buộc đối với cán bộ công chức nói chung và cán bộ ngành tòa án nói riêng. Vì
vậy, đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ là một nhiệm vụ quan trọng đối với của cơ
quan quản lý cán bộ, trong đó có Tòa án nhân dân tối cao.
 Tính chất và yêu cầu của việc đào tạo cán bộ Tòa án
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của tòa án là giải quyết các vụ việc có
tranh chấp thuộc thẩm quyền và theo quy định của pháp luật. Việc xét xử của
Tòa án là một nghề có tính chất đặc thù và có yêu cầu nhất định, đòi hỏi
người thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án không chỉ có kiến thức pháp
luật mà phải có những kỹ năng cần thiết như kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ
năng khi tiến hành các hoạt động tố tụng, đánh giá chứng cứ, kỹ năng viết bản
án, kỹ năng điều khiển, quản lý phiên tòa, xử lý các tình huống, kỹ năng trong
tiếp công dân, tuyên truyền giáo dục pháp luật... cũng như kỹ năng trong
phòng tránh những tác động, ảnh hưởng tiêu cực phái sinh từ hoạt động nghề
nghiệp. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như những kỹ năng trên phải
được rèn luyện, trau dồi trong suốt quá trình công tác, thông qua các hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng đuược tiến hành một cách thường xuyên. Và việc


12
đào tạo những kỹ năng nghiệp vụ trên thực chất là hoạt động đào tạo nghề,
đòi hỏi được tiến hành theo phương thức truyền nghề, gắn liền với thực tiễn
công tác xét xử - dạy nghề.
Để thực sự có được đội ngũ cán bộ tinh thông về nghiệp vụ, có phẩm
chất chính trị vững vàng thì công tác đào tạo, bồi dưỡng phải đảm bảo yêu
cầu về những đòi hỏi đặc thù nghề nghiệp ở trên. Nghĩa là hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tòa án cũng như những ngành nghề mang

tính đặc thù khác như kiểm sát, điều tra phải được thực hiện theo hình thức,
phương pháp phù hợp, đáp ứng yêu cầu công tác thực tiễn của mỗi ngành. Và
không ai khác, Tòa án nhân dân tối cao phải là chủ thể đảm nhận, đóng vai trò
quyết định chất lượng hoạt động đào tạo nghề cho cán bộ của ngành mình.
a. Căn cứ thực tiễn
Các đối tượng cần đào tạo của ngành Toà án bao gồm: các chức danh
công chức chuyên môn nghiệp vụ (bao gồm: Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra
viên, các cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp phòng, cấp vụ và Chánh án, Phó Chánh
án Toà án các cấp); các chức danh công chức hành chính và các chức danh
công chức khác thuộc bộ máy giúp việc của Toà án (bao gồm chuyên viên;
lưu trữ viên, kế toán viên, nghiên cứu viên, biên tập viên, phóng viên, kỹ sư
tin học…). Theo tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ đã được ban hành theo các
quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân và các văn
bản quy định hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền thì đa số các chức danh
nêu trên, đặc biệt là các chức danh tư pháp làm công tác chuyên môn nghiệp
vụ xét xử và các chức danh lãnh đạo, quản lý đều phải có trình độ đại học trở
lên và phải qua đào tạo nghiệp vụ và lý luận chính trị. Xét xử là hoạt động có
nhiều đặc thù, do đó đòi hỏi những người hành nghề phải đáp ứng được
những tiêu chí nhất định đặc biệt là kỹ năng nghề. Trong khi đó, những người
được tuyển dụng công tác tại tòa án hầu hết mới chỉ được đào tạo những kiến
thức pháp luật cơ bản mà chưa qua bất kỳ một khóa đào tạo nghiệp vụ xét xử
nào. Do đó, khi được tuyển dụng, bổ nhiệm nhất thiết phải được đào tạo, bồi
dưỡng về nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu công tác của ngành. Để công tác đào
tạo, bồi dưỡng thực sự hiệu quả, thiết thực với yêu cầu của thực tiễn xét xử thì
hơn ai hết, Tòa án nhân dân tối cao phải là chủ thể đóng vai trò tích cực, chủ
đạo trong việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ ngành tòa án.


13
Về chất lượng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, do chưa có cơ quan nào

tiến hành việc đào tạo Thư ký và Thẩm tra viên cũng như đào tạo đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý của ngành Toà án theo đúng quy định nên không có cơ sở
để đánh giá chất lượng đào tạo đối với các đối tượng này. Riêng đối với việc
đào tạo Thẩm phán hiện nay vẫn do Học viện tư pháp thực hiện. Trong những
năm qua, công tác đào tạo nguồn Thẩm phán đã góp phần từng bước nâng cao
chất lượng đội ngũ Thẩm phán nhưng cũng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
của công tác xét xử. Thực tế cho thấy vẫn còn không ít người đã qua đào tạo
nghiệp vụ xét xử nhưng vẫn còn sai sót trong việc đánh giá chứng cứ, áp dụng
pháp luật và lúng túng trong việc xử lý các tình huống phát sinh tại phiên toà
dẫn đến những vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Theo đánh giá của Bộ Tư pháp
tại Báo cáo số 38/BC-BTP ngày 08/3/2011 về thực trạng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp và định hướng tới năm 2020
cũng đã chỉ ra những tồn tại, bất cập hoặc các vấn đề có liên quan làm ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo Thẩm phán như: “chất lượng của một số khoá
đào tạo chưa đồng đều, nhất là so với yêu cầu các cơ quan sử dụng cán bộ đặt
ra, chưa thực hiện được việc tuyển sinh rộng rãi để lựa chọn người thực sự có
năng lực vào đào tạo nguồn, đội ngũ giảng viên vẫn còn mỏng về số lượng;
một số giảng viên trẻ thuộc biên chế của Học viện do chưa kinh qua các chức
danh tư pháp nên còn hạn chế về kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp; việc
thực hiện phương pháp đào tạo nghề với những đặc thù riêng chưa được đều
khắp ở tất cả các giảng viên…” [10, tr.7].
Như vậy, từ đòi hỏi của hoàn cảnh khách quan, yêu cầu của công cuộc
cải cách tư pháp cũng như thực tiễn nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho
thấy vai trò của Tòa án nhân dân tối cao cần phải được khẳng định rõ nét hơn
nữa trong việc đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành tòa án. Tập thể lãnh đạo
ngành tòa án phải thực sự chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ, coi đây là
một hoạt động trọng yếu song song với nhiệm vụ xét xử. Có đội ngũ cán bộ
tốt sẽ là nền tảng vững chắc cho việc nâng cao chất lượng xét xử, tạo lập cơ
sở cho việc xây dựng nền tư pháp vững mạnh, tiến đến xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ này đã được cố Thủ tướng Phạm Văn

Đồng đặt ra đối với cán bộ ngành Tòa án tại Hội nghị Tổng kết công tác


14
ngành tòa án năm 1979, đó là: Kiện toàn tổ chức phải gắn liền với đào tạo cán
bộ. Nếu không có đủ cán bộ mà muốn phát triển tổ chức quá mức, quá nhanh
thì không được. Vì vậy, việc tăng cường tổ chức không thể làm quá hấp tấp,
nóng vội. Đào tạo cán bộ là một việc rất quan trọng cần được coi trọng, đúng
mức,… phải ra sức đào tạo cán bộ. Công tác tòa án là một trong những loại
công tác khó. Là người làm việc xét xử, là thẩm phán, là quan tòa, các đồng
chí có trách nhiệm lớn trong việc trừng trị tội phạm. Bản án đối với người
phạm tội là một sự kiện quan trọng đối với bản than họ, gia đình họ, đối với
xã hội. Vì vậy, chúng ta rất coi trọng việc đào tạo cán bộ tòa án. Để đào tạo
cán bộ phải có nhiều hình thức khác nhau… Các đồng chí đang làm công tác
tòa án đều phải có kế hoạch học tập thêm… Ngoài việc học tập theo lớp còn
phải kịp thời đúc rút kinh nghiệm công tác. Có làm như vậy chúng ta mới
mau chóng tăng cường về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ ngành tòa án
trong đó có các thẩm phán. Và đó cũng là cơ sở để từng bước kiện toàn một
cách vững chắc tổ chức tòa án các cấp của chúng ta.
1.2. Khái niệm, quy trình, nội dung, hình thức, phƣơng pháp và chất
lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công chức của Tòa án nhân dân tối cao
1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của Tòa án nhân dân tối cao
Công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn liên quan và ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả công tác của cán bộ công chức. Nó có vai trò đặc biệt quan
trọng, là khâu không thể thiếu trong toàn bộ quy trình xây dựng và thực hiện
tổ chức. Hiện nay, khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được tiếp
cận dưới những góc độ khác nhau. Về cơ bản hiện có hai cách hiểu như sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng là khái niệm gồm 2 nội dung: đào tạo và bồi dưỡng
- Đào tạo, bồi dưỡng là một khái niệm không tách rời nhau
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sớm đề cập đến vấn đề đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ công chức. Người sử dụng khái niệm “huấn luyện cán bộ”.
Người quan niệm rằng, việc huấn luyện cán bộ phải thiết thực gắn với thực
tiễn công việc ở địa phương mình công tác. Theo Người “học cốt để làm”,
“học mà không làm được, học mấy cũng vô ích”.


15
Thực tế có nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức. Theo từ điển tiếng Việt 2008 (tr 369) NXB Đà Nẵng
thì “đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn
nhất định”. Như vậy, đào tạo là quá trình truyền thụ kiến thức mới để có trình
độ cao hơn. Đào tạo có quan hệ mật thiết với giáo dục, là một hình thức giáo
dục chuyên sâu, là quá trình học tập của con người để có kiến thức, kinh
nghiệm và kỹ năng làm việc trong lĩnh vực nhất định, ở trình độ nhất định.
Còn “bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Bồi dưỡng
là quá trình tăng thêm về trình độ hiểu biết, tư cách đạo đức, phẩm chất chính
trị… Mục đích của bồi dưỡng là nhằm bổ sung kiến thức, thông qua đó đối
tượng được bồi dưỡng được nâng cao dần về trình độ.
Có một số tác giả cho rằng khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức gồm hai nội dung, đó là đào tạo, bồi dưỡng. Theo cách hiểu này thì đào tạo,
bồi dưỡng vừa thực hiện những nhiệm vụ của giáo dục, đó là tổ chức đào tạo các
trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học vừa thực hiện việc cập nhật
kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc cho cán bộ công chức. Một
số nhà nghiên cứu giải thích khái niệm đào tạo, bồi dưỡng là một thuật ngữ
không tách rời nhau dùng để chỉ hoạt động thường xuyên của các cơ quan,
đơn vị quản lý và sử dụng công chức nhằm cập nhật, trang bị kiến thức, kỹ
năng, phương pháp làm việc cho cán bộ công chức.
Thông lệ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam thì
đào tạo là quá trình được diễn ra trước khi trở thành cán bộ công chức. Bên
cạnh đó trong quá trình tham gia công vụ cán bộ công chức vẫn phải tham gia

các khóa đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn. Bồi dưỡng là quá trình thông thường
diễn ra sau đào tạo. Bồi dưỡng là việc cập nhật kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc
hậu nhằm củng cố kỹ năng nghề nghiệp. Việc bồi dưỡng có thể diễn ra thường
xuyên, định kỳ hoặc khi có những thay đổi, bổ sung mới và được thực hiện
dưới hình thức các chuyên đề. Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ
thống những kiến thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học.


16
Điều 5 Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính phủ về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức.
“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức,
kỹ năng theo quy định của từng cấp học, ngành học. Bồi dưỡng là hoạt động
trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.
“Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ,
chức danh cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ. Chế độ
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ do cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định” (điều 25 Luật cán bộ
công chức 2008).
Ở Việt Nam, vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bên cạnh khái
niệm đào tạo, bồi dưỡng, một số tác giả còn sử dụng khái niệm đào tạo lại.
Hiện nay, khái niệm này ít được sử dụng. “Đào tạo, bồi dưỡng” cán bộ công
chức đa phần được hiểu là việc cập nhật, trang bị kiến thức, kỹ năng, phương
pháp trong quá trình thực hiện công vụ của mình.
Như vậy, hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nhưng tựu chung lại thì khái niệm đào tạo,
bồi dưỡng có nội hàm cơ bản như sau:
Đào tạo là quá trình nâng cao năng lực của con người về mặt thể lực, trí
lực, tâm lực đồng thời phân bổ, sử dụng và phát huy có hiệu quả nhất năng
lực của nguồn nhân lực để phát triển đất nước; là quá trình học tập làm cho

người lao động có thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả hơn
trong công tác. Đào tạo là hoạt động có mục đích nhằm xây dựng nguồn nhân
lực có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để hoạt động trong một lĩnh vực nhất
định. Thời gian đào tạo thường dài hơn bồi dưỡng.
Bồi dưỡng là hoạt động nhằm cập nhật những kiến thức mới, bổ sung
những kiến thức còn thiếu, lạc hậu để nâng cao trình độ, năng lực hoặc phẩm
chất nhằm củng cố kỹ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề. Các hoạt động
này nhằm tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội củng cố và mở mang


17
một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp có
sẵn để lao động có hiệu quả hơn.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nói chung, cán bộ ngành tòa án nói
riêng là một quá trình có kế hoạch, làm biến đổi, trang bị kiến thức, kỹ năng
thông qua học tập, rèn luyện để làm việc có hiệu quả trong hoạt động công tác.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân tối cao là
hoạt động dạy nghề do Tòa án nhân dân tối cao tiến hành nhằm trang bị
những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho đối tượng
là những người đang công tác trong ngành nhằm kiện toàn và từng bước nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành tòa án.
- Chủ thể tiến hành: Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành
tòa án do Tòa án nhân dân tối cao thực hiện thông qua các đơn vị trực thuộc.
Hiện nay, công tác này được thực hiện bằng 3 nguồn chính:
+ Tòa án nơi cán bộ, công chức công tác;
+ Tòa án nhân dân tối cao;
+ Các cơ quan ngoài hệ thống tòa án.
Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng: là những người đang công tác trong
ngành tòa án nhân dân, bao gồm:
+ Các chức danh công chức chuyên môn nghiệp vụ: Thẩm phán, Thẩm

tra viên, Thư ký tòa án, các cán bộ lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ, Chánh án, phó
Chánh án Tòa án nhân dân các cấp;
+ Các chức danh công chức hành chính và các chức danh công chức khác
thuộc bộ máy giúp việc: chuyên viên, kế toán, kỹ sư tin học, phóng viên…
- Mục đích của việc đào tạo, bồi dưỡng là nhằm trang bị và nâng cao
kiến thức, kỹ năng làm việc, phẩm chất đạo đức... cho cán bộ công chức theo
tiêu chuẩn quy định của từng ngạch, từng chức vụ, chức danh.
Đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành chính sự nghiệp nói chung,
cũng như cán bộ công chức ngành tòa án là bộ khung đóng vai trò quan trọng
cho sự vận hành hoạt động chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mình. Do vậy, vấn


18
đề đào tạo, bồi dưỡng cho những đối tượng này cần được chú trọng xứng đáng
với vị trí, vai trò của nhân tố quan trọng - con người là trung tâm.
1.2.2. Quy trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức của Tòa án nhân dân tối cao
Khi nói về sự cần thiết phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức, Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa X về đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước đã yêu cầuvề việc đổi mới phương thức và nội dung chương trình
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sát với thực tế, hướng vào các vấn đề
thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính…
Thực hiện cơ chế đào tạo tiền công vụ và đào tạo, bồi dưỡng trong công vụ
theo định kỳ bắt buộc hàng năm, thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng trước
khi bổ nhiệm. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nói chung, cán bộ ngành
Tòa án nói riêng là một quá trình được thực hiện với những nội dung, hình
thức và phương pháp phù hợp với mục tiêu đặc thù của công tác xét xử.
a. Quy trình
Công dân Việt Nam đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn theo quy định và

trải qua kỳ thi tuyển công chức do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức sẽ được
tuyển dụng vào công tác trong ngành tòa án. Những người trúng tuyển đều phải
trải qua một khóa bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ Thư ký Tòa án. Sau thời
gian tập sự 12 tháng, sẽ được tuyển dụng chính thức và bổ nhiệm chức danh
Thư ký tòa án hoặc chuyên viên làm việc trong các đơn vị thuộc hệ thống cơ
quan tòa án. Công tác tuyển dụng này do Tòa án nhân dân tối cao hoặc tòa án
nhân dân cấp tỉnh tổ chức. Đối với nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán trong toàn
ngành, hàng năm Tòa án nhân dân tối cao cân đối nhu cầu, biên chế cử cán bộ
đi học lớp đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện Tư pháp. Thời gian đào
tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay là 01 năm.
b. Nội dung
Trong quá trình công tác của mình, cán bộ công chức ngành tòa án phải
trải qua những khóa bồi dưỡng nghiệp vụ do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức


19
về các lĩnh vực Hình sự, Dân sự, Lao động, Kinh doanh thương mại, Hành
chính… cũng như các khóa bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý hành
chính… Hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành tòa án được
thực hiện một cách toàn diện, bao gồm:
- Đào tạo bồi dưỡng các kiến thức chuyên môn nghiệp vụ: Hàng năm
Tòa án nhân dân tối cao đều tổ chức tập huấn các chương trình bồi dưỡng
nghiệp vụ thường xuyên và chuyên sâu cho Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm
nhân dân của toàn ngành. Mục đích chương trình bồi dưỡng này nhằm trang
bị, bổ sung những kiến thức mới, những vấn đề mới của pháp luật được sửa
đổi, bổ sung cũng như bồi dưỡng chuyên đề chuyên sâu về các lĩnh vực mới
như sở hữu trí tuệ, vận tải biển, bắt giữ tàu biển, bảo hiểm...
- Đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị: Bên cạnh nội dung tập huấn
chuyên môn nghiệp vụ về giải quyết các vụ án Hình sự; Dân sự, Kinh doanh
thương mại, Lao động, Hôn nhân và gia đình; Hành chính thì hàng năm căn

cứ theo nhu cầu và đối tượng cán bộ, Tòa án nhân dân tối cao có kế hoạch cử
cán bộ tham gia các chương trình bồi dưỡng về lý luận chính trị, nghiệp vụ
quản lý hành chính tại Học viện Hành chính chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức bổ trợ khác: Ngoài ra, Tòa án nhân
dân tối cao cũng xây dựng các chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ
ngoại ngữ, tin học cho cán bộ công chức nhằm thực hiện mục tiêu chương
trình hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành tòa án
không chỉ vững vàng về nghiệp vụ chuyên môn mà còn chủ động hội nhập,
nhất là trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta tham gia vào quá trình toàn cầu
hóa, giao thoa văn hóa, trong đó có cả văn hóa pháp lý. Những cán bộ có khả
năng, đáp ứng đủ các tiêu chuẩn đều được cơ quan tạo điều kiện cả về thời
gian cũng như hỗ trợ kinh phí tham gia các khóa đào tạo nâng cao sau đại học
ở trong và ngoài nước về chuyên môn cũng như kiến thức ngoại ngữ.
Hiện nay công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ toàn ngành của Tòa án
nhân dân tối cao đã được chú trọng hơn rất nhiều. Nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ công chức ngành tòa án nhân dân, thực hiện yêu cầu của chiến


20
lược cải cách tư pháp mà Đảng ta đề ra, ngành tòa án cần nỗ lực hơn nữa, coi
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức là một trong những nhiệm vụ
then chốt, trong giai đoạn hiện nay. Đào tạo bồi dưỡng phải toàn diện cả về
nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp và các kiến thức
bổ trợ về ngoại ngữ, tin học. Đồng thời phải coi đào tạo, bồi dưỡng là một yêu
cầu bắt buộc đối với cán bộ, công chức của ngành. Mỗi cán bộ, công chức, tùy
từng đối tượng phải đảm thời gian nhất định tham gia các khóa đào tạo, bồi
dưỡng trong một năm công tác hoặc nhiệm kỳ của mình.
c. Hình thức
Hình thức đào tạo, bồi dưỡng là sự thể hiện ra bên ngoài của nội dung,
chương trình. Một nội dung có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác

nhau. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng cũng phản ánh tính khoa học, hiệu quả
của nội dung chương trình. Nội dung chương trình tốt, được thực hiện với
hình thức phù hợp, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và ngược lại, nếu hình thức đào tạo, bồi
dưỡng không phù hợp sẽ hạn chế hoặc có thể làm mục tiêu của nội dung đào
tạo, bồi dưỡng không đạt được. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng cần áp dụng nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác nhau phù
hợp với từng chương trình và đối tượng tham gia.
Hiện nay, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ của ngành tòa án
chủ yếu là tập huấn theo chuyên đề, các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ
tập trung theo đợt. Vấn đề đào tạo lại chưa được tổ chức thực hiện trong
thực tế. Do vậy, Tòa án nhân dân tối cao cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ công chức mang tính ổn định, lâu dài và hiệu quả hơn nữa nhằm khai
thác hết được ý nghĩa của hoạt động này đối với công tác cán bộ của ngành
Tòa án nói riêng và vấn đề đổi mới đào tạo cán bộ công chức nói chung
trước yêu cầu của sự nghiệp cải cách hành chính (mà cụ thể ở đây là chiến
lược cải cách tư pháp) và công cuộc đổi mới đất nước.


×