Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại của cục hải quan tỉnh nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.47 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ ANH TUẤN

HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU, GIAN LẬN
THƢƠNG MẠI CỦA CỤC HẢI QUAN
TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS NGUYỄN THỊ HỒI

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Anh Tuấn




MỤC LỤC
Lời mở đầu ……………………………………………………………………………….… 1
CHƢƠNG 1: Cơ sở lý luận về phòng, chống buôn lậu, gian lận thƣơng mại của
Hải quan……………………………………………………………………….………….… 5
1.1. Cơ sở lý luận về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại …..5
1.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề buôn lậu, gian lận thương mại ………………… 5
1.1.2. Mối quan hệ giữa buôn lậu và gian lận thương mại ......................................10
1.1.3. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu, gian lận thương mại…………..………… 11
1.2. Tác động của buôn lậu và gian lận thương mại đối với tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước ……………………………………………………………………………. 14
1.2.1. Tác động đối với nền kinh tế quốc dân ……………………………………….14
1.2.2. Tác động tới nền văn hoá - xã hội……………………………………………. 15
1.2.3. Tác động tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội ……………………… 17
1.3. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của ngành Hải quan đối với hoạt động phòng
chống buôn lậu và gian lận thương mại ..............................................…………….. 18
CHƢƠNG 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống
BL, GLTM của Cục Hải quan Nghệ An hiện nay.………..………………………… 30
2.1. Thực trạng phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại của Cục Hải quan
Nghệ An…………………………………………………………………….…….………… 30
2.2. Thành tựu trong hoạt động phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại của
Hải quan Nghệ An và nguyên nhân…………………………….................................. 31
2.2.1. Thành tựu………………………………………………………………... ……….31
2.2.2. Nguyên nhân……………………………………………………….………….….. 39
2.3. Hạn chế, tồn tại của hoạt động phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và
nguyên nhân…………………………….……………………………………………….. 40


2.3.1. Hạn chế, tồn tại............................................................................................. 40

2.3.2. Nguyên nhân………………………………………………………………....... 41
2.4. Quan điểm, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống
BL, GLTM của Cục HQNA hiện nay …………….…………………………………….. 42
2.4.1. Quan điểm, mục tiêu …….………………………………………………………... 42
2.4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống buôn lậu, gian lận thương
mại của Cục Hải quan Nghệ An……………………………………………………….... 44
2.4.3. Điều kiện và lộ trình thực hiện giải pháp...................................................... 61
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………….........…. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 70


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước có nhiệm vụ : “....thực hiện
kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị
chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu” [25,
tr43].
Trong xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Hải quan (HQ) Việt
Nam đang thực hiện những sứ mệnh quan trọng của mình nhằm góp phần tạo thuận lợi
cho thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, bảo vệ
an ninh quốc gia và cộng đồng. Để tạo thuận lợi và cung cấp đầy đủ thông tin cho
những đối tượng quan tâm đến hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) đồng thời tăng cường
sự công khai và minh bạch của chính sách liên quan đến hoạt động HQ; với mục tiêu
là tạo thông thoáng, thuận tiện, nhanh chóng cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu (XK,
NK), phù hợp với đường lối đổi mới, mở cửa của Nhà nước, đồng thời vẫn đảm bảo

được sự quản lý. Từ năm 2008 đến 2012 ngành HQ đã có rất nhiều cải cách về thủ tục
HQ, cải tiến quy trình thủ tục và đạt được kết quả cao.
Chống buôn lậu, gian lận thương mại (BL, GLTM) luôn là mối quan tâm của
nhiều quốc gia trên thế giới. Tệ nạn BL, GLTM ở nước ta trong những năm gần đây
có nhiều diễn biến phức tạp và đang là một trong những vấn đề lớn gây trở ngại cho
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. HQ là một trong những lực lượng
phòng, chống BL, GLTM có hiệu quả nhất. Thời gian qua, trong hoạt động phòng,
chống BL, GLTM, Cục Hải quan Nghệ An (HQNA) đã đạt được những thành tựu
nhất định. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế, nhược điểm nhất định.
Vì thế, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng, chống BL, GLTM chỉ ra những
thành tựu và những hạn chế của hoạt động này để trên cơ sở đó, tìm ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới là điều cần


2

thiết. Đó cũng là lý do dẫn đến việc nghiên cứu đề tài “Hoạt động phòng, chống
buôn lậu, gian lận thương mại của Cục Hải quan tỉnh Nghệ An hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đấu tranh phòng chống BL, GLTM là một trong những vấn đề được Đảng và
Nhà nước rất quan tâm, đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác này. Trong lĩnh
vực khoa học pháp lý đã có không ít công trình khoa học của các nhóm tác giả, cá
nhân được công bố có liên quan đến vấn đề đấu tranh phòng chống BL, GLTM
đáng lưu ý các công trình nghiên cứu dưới đây:
Luận án Tiến sĩ của Vũ Ngọc Anh về “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về
Hải quan ở nước ta hiện nay” đề cập đến chức năng, vai trò, các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của ngành HQ ở nước ta. Đồng thời Luận án còn làm rõ thực trạng tổ
chức, hoạt động của HQ cùng với những nội dung cơ bản về đổi mới tổ chức và
hoạt động của ngành HQ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Ngọc Túc với tiêu đề “Tiếp tục cải cách

hiện đại hóa HQ Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” đã nêu lên
được tính chất đặc thù của hoạt động ngành HQ luôn gắn liền với hoạt động đối
ngoại, an ninh quốc gia, hoạt động XNK, đầu tư và du lịch quốc tế.
Tác giả Vũ Hồng Loan trong bài viết “Pháp luật Hải quan và các giải pháp
đẩy mạnh tuyên truyền, nghiên cứu Hải quan” đã nêu lên thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền, nghiên cứu HQ.
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Lê Văn Tới với tiêu đề “Buôn lậu và chống
buôn lậu, nhận diện và giải pháp” đã nêu lên khái niệm, đặc điểm của HQ, các
nguyên tắc và thẩm quyền HQ. Bên cạnh đó, luận văn làm rõ thực trạng hoạt động
của HQ tỉnh Bình Định thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng phòng, chống buôn lậu hiện nay.
Bài viết trên chuyên đề HQ năm 2003 của tác giả Trần Thành Nam "Xây
dựng lực lượng Hải quan trong sạch vững mạnh" đã đánh giá được thực trạng đội
ngũ cán bộ công chức, những yếu kém, tiêu cực cần khắc phục nhằm xây dựng lực
lượng hải quan ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn.


3

Các công trình, bài viết trên đây đã đề cập đến những khía cạnh nhất định về
buôn lậu, chống buôn lậu, về đổi mới tổ chức, hoạt động của HQ. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực
tiễn dưới góc độ khoa học luật học về đấu tranh phòng, chống BL, GLTM của Cục
Hải quan Nghệ An hiện nay như công trình này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng,
chống BL, GLTM của HQNA trong thời gian tới. Để thực hiện được mục tiêu trên,
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài gồm có:
- Hệ thống hoá và góp phần bổ sung, làm sáng tỏ thêm lý luận về phòng,
chống BL, GLTM của hải quan.

- Đánh giá thực trạng hoạt động phòng, chống BL, GLTM của HQNA thời
gian qua, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng này.
- Luận giải về quan điểm, mục tiêu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng, chống BL, GLTM của HQNA trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Phòng chống BL, GLTM là một đề tài có phạm vi rất rộng, liên quan đến
nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên để việc nghiên
cứu được tập trung và có trọng tâm, trọng điểm, đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu
thực tiễn hoạt động phòng, chống BL, GLTM của HQNA trong giai đoạn 5 năm, từ
năm 2008 đến năm 2012 và đề xuất các giải pháp phòng, chống BL, GLTM tại Cục
HQNA trong những năm 2013- 2017.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về phòng chống BL, GLTM của
HQNA.
- Chỉ ra được những thành tựu và hạn chế trong hoạt động phòng BL, GLTM
của HQNA thời gian qua và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
chống BL, GLTM của HQNA trong thời gian tới.


4

Kết quả nghiên cứu đề tài có thể cung cấp thêm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc giảng dạy, nghiên cứu, học tập, khoa học pháp lý và hoạt động trong thực
tiễn đấu tranh phòng chống BL, GLTM ở Nghệ An nói riêng và trên cả nước nói
chung.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận là chủ nghĩa Mác –
Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động Hải quan. Các phương
pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu đề tài gồm có: So sánh, khảo sát thực tế,

thống kê, phân tích, tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung đề tài được chia thành 2 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phòng, BL, GLTM của Hải quan.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng,
chống BL, GLTM của Cục Hải quan Nghệ an hiện nay.


5

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG BUÔN LẬU, GIAN
LẬN THƢƠNG MẠI CỦA HẢI QUAN.
1.1. Cơ sở lý luận về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại
1.1.1. Kinh tế thị trƣờng và vấn đề buôn lậu, gian lận thƣơng mại
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong đó sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều gắn chặt với thị trường: Sản xuất ra hàng hoá dịch vụ gì, khối lượng bao nhiêu ? sản xuất bằng cách nào ? ai sẽ nhận hàng hoá dịch vụ sau khi sản xuất ra ? tất cả đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường và thông
qua thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra các sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Thị trường là tập hợp các thoả
thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá
- dịch vụ. Trong thị trường, người mua và người bán hàng hoá - dịch vụ tác động
với nhau hình thành cung cầu hàng hoá - dịch vụ, sự tương tác giữa cung - cầu hàng
hoá - dịch vụ trên thị trường hình thành giá cả thị trường. Thị trường điều tiết cung cầu - hàng hoá - dịch vụ, mối quan hệ kinh tế giữa người mua, người bán, giữa nhà
sản xuất kinh doanh với khách hàng thông qua mua bán bằng tiền trên thị trường.
Trong kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế đều tiền tệ hoá, khi tiền tệ tham gia
vào quá trình lưu thông hàng hoá thì trao đổi hiện vật trực tiếp cũng không tồn tại.
Tiền tệ có mặt trong lưu thông, làm cho quá trình trao đổi nhanh hơn, thúc đẩy quy
mô sản xuất tăng lên và đời sống nhân dân được nâng cao.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động thương mại phát triển và nó có vị trí
rất quan trọng. Thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất, nối liền giữa

sản xuất với tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu thương
mại hoặc để tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. Ở vị trí cấu thành
của tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu tạo ra sự liên tục của
quá trình tái sản xuất, khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và
tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá có mục đích từ trước là để thoả mãn nhu cầu của
người khác, để trao đổi mua bán hàng hoá. Không thể nói đến sản xuất hàng hoá mà
không nói đến thương mại. Thương mại là lĩnh vực kinh doanh cũng thu hút trí lực
và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu hút lợi nhuận, thậm chí siêu lợi nhuận, kinh
doanh thương mại trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai.


6

Thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thông qua việc
thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua
hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân
công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy phân công xã hội tổ chức lại sản
xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất. Thương mại kích thích sự
phát triển lực lượng sản xuất, trong đó lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương
mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến công tác áp dụng khoa học và công
nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời, cạnh tranh trong thương
mại bắt buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề,
chuyên môn và tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực
nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản
xuất phát triển. Thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới, lợi ích
của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái tạo
nhu cầu. Thương mại một mặt, làm cho nhu cầu trên thị trường trung thực với nhu
cầu, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu. Thương mại
buộc các nhà sản xuất phải đa dạng về loại hình, kiểu dáng, mẫu mã chất lượng sản
phẩm. Điều này tác động ngược lại với người tiêu dùng, làm bật dậy các nhu cầu

tiềm năng. Tóm lại thương mại làm tăng trưởng nhu cầu và là nguồn gốc rễ cho sự
phát triển của sản xuất kinh doanh.
Thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ
thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển. Điều đó giúp
chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy được lợi thế so sánh, từng
bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới, biến nước ta thành bộ
phận của phân công lao động quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, thương mại thể
hiện sự tự do mua bán theo giá cả thị trường, người mua và người bán được tự do
lựa chọn bạn hàng, ở đó có sự gắn kết giữa sản xuất với thương mại. Thương mại
cũng là một chức năng của sản xuất hàng hoá, giữa các doanh nghiệp, các vùng và
quốc gia thực hiện cơ chế mở trong mua bán trao đổi hàng hoá.
Thực tế, trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, thương mại phát triển có những mặt tích cực nhưng bên cạnh đó có những


7

mặt tiêu cực. Vì mục tiêu lợi nhuận đã làm phát sinh tư tưởng sùng bái đồng tiền,
chạy theo cuộc sống giàu có mà không tôn trọng pháp luật, làm giàu bất chính, đó là
tệ nạn “buôn lậu và gian lận thương mại”. Từ lợi dụng cơ chế tự do buôn bán lưu
thông hàng hoá, một số người đã kinh doanh trái pháp luật, gian lận thương mại để
kiếm lời. Tệ nạn buôn lậu và gian lận thương mại là một nhược điểm rất lớn trong
nền kinh tế thị trường, nó bóp méo vai trò của thương mại đi ngược lại với bản chất
của thương mại. Thương mại có tác động tích cực đối với nền kinh tế, ngược lại tệ
nạn buôn lậu và gian lận thương mại lại tác động tiêu cực đối với nền kinh tế.
* Khái niệm buôn lậu: Thuật ngữ buôn lậu được sử dụng với những ý nghĩa
rất khác nhau. Từ góc độ của khoa học về ngôn ngữ, cụm từ "buôn lậu" có ý nghĩa
là buôn bán những hàng hoá trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa
những hiểu biết xưa nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ thông

hiện nay.
Theo tài liệu của Tổ chức Hải quan thế giới dành cho các điều tra viên về
gian lận thương mại (GLTM) thì hành vi buôn lậu được xác định như sau:
“Đó là hành vi đưa hàng hoá vào trong lãnh thổ một quốc gia hay đưa hàng
hoá ra khỏi lãnh thổ đó mà vi phạm pháp luật hay các quy định hiện hành của quốc
gia đó, trốn tránh hay có ý định trốn tránh nộp thuế HQ bằng cách không khai báo
hoặc trốn tránh không chịu sự kiểm tra của cơ quan chức năng” [30, tr.57].
Từ khái niệm trên cho thấy, từ “buôn lậu” được chia làm hai loại như sau:
- Trốn tránh hoặc tìm cách trốn tránh nộp thuế/lệ phí theo quy định hoặc
- Nhập khẩu, xuất khẩu (NK, XK) hay có tìm cách NK, XK hàng hoá nằm
trong những mặt hàng cấm theo quy định của pháp luật, các chính sách hay hạn
ngạch khác.
Trước năm 1985, thuật ngữ "tội buôn lậu" đã được đề cập trong một số văn
bản pháp luật nước ta như Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh sát
nhân dân (20/7/1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả,
kinh doanh trái phép (30/6/1982). Song về cơ bản tội danh "buôn lậu" lúc đó chưa
được hướng dẫn nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu thành và dấu hiệu pháp lý đặc
trưng. Phần lớn người ta vẫn chịu ảnh hưởng của các quan niệm truyền thống, cho


8

rằng buôn lậu bao gồm các hành vi kinh doanh trái phép, trốn thuế, đầu cơ tích trữ,
làm hàng giả, buôn bán hàng cấm.
Trong Bộ luật hình sự (BLHS) của nước ta đã ghi nhận tội buôn lậu là
"….buôn bán trái phép, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới...", tổ chức HQ
thế giới phân loại các hành vi gian lận thương mại có hành vi "buôn bán hàng cấm
qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của HQ", “khai báo sai chủng loại hàng
hoá", "khai tăng, giảm giá trị hàng hoá".... Đây là những hành vi buôn bán gian lận
trái pháp luật mang tính chất giống như buôn lậu. "Buôn lậu" từ trước đến nay được

nhiều người biết đến hơn là "gian lận thương mại". GLTM là thuật ngữ mới xuất
hiện, bao gồm nhiều hành vi gian lận, trái pháp luật hơn buôn lậu hay nói cách khác
nội hàm của nó rộng hơn nội hàm của buôn lậu. Vì vậy hai thuật ngữ này thường đi
kèm với nhau "buôn lậu và gian lận thương mại".
Buôn lậu là hành vi lén lút đưa hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới trốn
tránh hoặc chống lại sự kiểm tra, kiểm soát của HQ bằng cách không đi qua cửa
khẩu, hoặc tuy có đi qua cửa khẩu nhưng dùng thủ đoạn bí mật bất hợp pháp như trà
trộn hàng lậu trong các hàng hóa khác có làm thủ tục HQ, cấu tạo chỗ bí mật để
giấu hàng lậu... để che dấu hàng hóa, trốn tránh, chống lại sự kiểm tra của HQ,
nhằm đạt được lợi ích cuối cùng là thu được lợi nhuận thặng dư siêu ngạch. Hành vi
buôn lậu có khi chỉ có giá trị nhỏ, nhưng hầu hết phải do những tổ chức bất hợp
pháp có đường dây bất hợp pháp qua biên giới, có khi xuyên quốc gia thực hiện.
Như vậy, mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở hành vi “buôn
bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý hoặc những vật
phẩm có giá trị khác...”. Theo Điều 153 BLHS năm 1999 thì hành vi “buôn bán trái
phép qua biên giới” là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, được xác định như sau:
- Buôn bán qua biên giới trái với quy định về quản lý HQ những hàng hóa,
tiền tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc hàng hóa là các
vật phẩm thuộc di tích, lịch sử văn hóa hay hàng cấm có số lượng lớn. Hành vi đó
thường được thể hiện dưới một số hình thức như: không khai báo, khai báo gian
dối; giả mạo giấy tờ dùng trong XNK; giấu hàng hoá tiền tệ; không đi qua các cửa


9

khẩu hoặc trốn tránh sự kiểm tra, giám sát của HQ, Thuế vụ, Bộ đội biên phòng, Công
an... [25,tr.34]
- Không có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ của các cơ quan có thẩm quyền khi
thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.
* Khái niệm gian lận thƣơng mại

Gian lận thương mại (GLTM) theo Từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc"
trong hoạt động thương mại. Người có hành vi GLTM gọi là "gian thương" tức là
"người có nhiều mưu mô lừa lọc" nhằm mục đích đánh lừa người khác [41,tr.54].
Như vậy, GLTM trong lĩnh vực HQ là những hành vi GLTM của chủ hàng
trong hoạt động xuất khẩu để trốn tránh việc kiểm soát và quản lý của HQ. Vấn đề
này được Hội đồng Hợp tác HQ (nay là Tổ chức HQ thế giới) chú ý từ những ngày
mới thành lập. Trong Bản khuyến nghị về giúp đỡ hành chính lẫn nhau do Hội đồng
Hợp tác HQ quốc tế đưa ra ngày 5/12/1975 cũng đã đề cập vấn đề giúp đỡ hành
chính lẫn nhau về chống GLTM.
Hội nghị quốc tế lần thứ V về chống GLTM trong lĩnh vực hải quan do Tổ
chức HQ thế giới triệu tập tại Brussels (Bỉ) từ ngày 9/10/1995 đến ngày 13/10/1995
đã thống nhất đưa ra một khái niệm mới như sau:
GLTM trong lĩnh vực HQ là hành vi vi phạm các điều khoản pháp quy hoặc
pháp luật HQ nhằm:
- Trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh việc nộp thuế HQ, phí và các khoản thu
khác đối với việc di chuyển hàng hoá thương mại và/hoặc:
- Nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hoá
không thuộc đối tượng đó và/hoặc:
- Đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho
các nguyên tắc và tập tục, cạnh tranh thương mại chân chính".
Trên cơ sở đó, với thực tiễn ở Việt Nam, khái niệm GLTM được biết đến
như sau: " GLTM trong lĩnh vực Hải quan là hành vi gian lận các luồng sản phẩm
xuất nhập khẩu bằng cách lợi dụng sơ hở của luật pháp, chính sách và quản lý của
các cơ quan nhà nước để lẩn tránh việc kiểm tra, kiểm soát của HQ nhằm trốn tránh
nghĩa vụ đối với Nhà nước và thu lợi bất chính cho riêng mình".


10

- GLTM thực chất là tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu có phép tắc, công

khai đến cơ quan HQ để làm thủ tục (khai báo, kiểm tra, nộp thuế) và công khai,
hợp pháp đưa hàng hóa qua cửa khẩu. nhưng lợi dụng những kẽ hở để khai báo gian
dối như về mẫu mã, về số lượng, về chất lượng... nhằm đạt được kết quả cuối cùng
là gian lận về mức thuế phải nộp. Hành vi này có khi chỉ là thủ đoạn riêng của chủ
hàng khi có sự tiếp tay của một số nhân viên HQ biến chất.
Vấn đề đặt ra là ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, hai khái
niệm “buôn lậu” và “gian lận thương mại” chưa được phân định rõ ràng. Nhiều
nước coi buôn lậu cũng là hành vi GLTM. Tổ chức HQ Thế giới tại hội nghị lần thứ
V về chống GLTM đã xếp buôn lậu vào một trong những hình thức GLTM nhưng
coi đó là loại hình GLTM đặc biệt nguy hiểm.
Theo pháp luật Việt Nam, GLTM không phải là một tội danh trong Bộ luật
hình sự, nhưng các biểu hiện đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu, một bộ
phận của GLTM là buôn lậu và buôn lậu bao gồm cả GLTM. Hai khái niệm này
thường đi đôi, gắn liền với nhau trong tiềm thức xã hội, chúng có phần giao thoa với
nhau nhưng không bao hàm tất cả. Đặc biệt là GLTM, ngoài buôn lậu, GLTM còn
bao gồm nhiều yếu tố khác như: buôn bán hàng giả, ăn cắp mẫu mã, khai báo sai về
số lượng, chất lượng hàng hóa...
Có thể nói, buôn lậu trước hết là hành vi GLTM trong lĩnh vực Hải quan, có
mức độ nguy hiểm cho xã hội đáng kể. Điều đó có nghĩa là hành vi khách quan và
hàng hóa GLTM phải ở mức bị coi là nguy hiểm, phải xử lý hình sự (về tội buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới). Dưới mức đó thì bị coi là
GLTM nguy hiểm chưa đáng kể và chỉ bị xử lý hành chính.
1.1.2. Mối quan hệ giữa buôn lậu và gian lận thƣơng mại
Gian lận thương mại dù không phải là một tội danh trong Bộ luật hình sự,
nhưng các dấu hiệu đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu và buôn lậu cũng
bao gồm gian lận thương mại.
Theo nghiên cứu khoa học về tội phạm thì gian lận thương mại thực chất là
những hành vi, thủ đoạn cụ thể để gian dối nhằm có được lãi suất cao trong kinh
doanh, buôn bán nói chung, nhưng nếu sự gian lận đó được thực hiện để nhằm buôn



11

bán trái phép qua biên giới thì đó chính là các hành vi trong mặt khách quan của tội
buôn lậu.
Hội nghị Quốc tế lần thứ năm (1995) về chống gian lận thương mại của Tổ
chức Hải quan thế giới tại Brussels (Bỉ) đã xếp buôn lậu vào trong các hình thức
gian lận thương mại, nhưng coi đó là loại hình gian lận thương mại nguy hiểm, đặc
biệt.
Công ước quốc tế Nairobi cũng đã đưa ra khái niệm buôn lậu và gian lận
thương mại nhằm che dấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi thủ đoạn,
mọi phương tiện trong việc đưa hàng hoá lén lút qua biên giới.
Trong Bộ Luật hình sự của nước ta đã ghi nhận tội buôn lậu "….buôn bán
trái phép, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới…..", tổ chức Hải quan thế
giới phân loại các hành vi gian lận thương mại có hành vi "buôn bán hàng cấm qua
biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải quan", “khai báo sai chủng loại hàng
hoá", "khai tăng, giảm giá trị hàng hoá".... Đây là những hành vi buôn bán gian lận
trái pháp luật mang tính chất giống như buôn lậu. "Buôn lậu" từ trước đến nay được
nhiều người biết đến hơn là "gian lận thương mại". Gian lận thương mại là thuật
ngữ mới xuất hiện, bao gồm nhiều hành vi gian lận, trái pháp luật hơn buôn lậu hay
nói cách khác nội hàm của nó rộng hơn nội hàm của buôn lậu. Vì vậy hai thuật ngữ
này thường đi kèm với nhau "Buôn lậu và gian lận thương mại".
1.1.3. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu và gian lận thƣơng mại
Buôn lậu và gian lận thương mại là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện
trong hoạt động lưu thông hàng hoá cùng với sự ra đời của hàng rào thuế quan. Nếu
như hoạt động lưu thông hàng hoá góp phần cân bằng quan hệ cung - cầu trên thị
trường thì những nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại và phát triển của tình trạng
buôn lậu và gian lận thương mại là sự chênh lệch giá cả, nhu cầu sử dụng hàng hoá
ở các vùng địa lý khác nhau, do hành vi kiếm lời bất chính, cạnh tranh trái pháp
luật, không lành mạnh.

Doanh số bán lẻ trên thị trường xã hội là chỉ tiêu phản ánh nhu cầu tiêu dùng
thực đã được thực hiện của toàn xã hội. Còn chỉ số giá cả, và theo đó là sự biến
động của nó là chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa hai đại lượng hàng hoá và sức


12

mua. Nói cách khác đó là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ cung cầu về hàng hoá.
Hiểu được bản chất kinh tế của vấn đề này, các nhà sản xuất tìm cách tiết kiệm chi
phí, hạ giá thành trên cơ sở cải tiến mẫu mã hấp dẫn, phù hợp thị hiếu sử dụng, nâng
cao chất lượng sản phẩm, bán ra với giá thị trường chấp nhận, nhằm quay vòng vốn
nhanh, thu lợi nhuận cao. Để làm được những điều này không phải là việc dễ dàng
và lại nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Một trong những hiện
tượng cạnh tranh, kinh doanh để kiếm lời nhưng trái pháp luật là lao vào "buôn lậu
và gian lận thương mại". Một số nhà kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, dù ở
mức độ khác nhau đã tìm đủ mọi cách luồn lách để thắng trong cuộc chạy đua " một
vốn bốn lời", chạy theo lối sống giàu sang nhưng lại không đủ khả năng làm giàu
hợp pháp mà kinh doanh một cách bất hợp pháp để kiếm lời nhanh và dễ dàng. Lợi
ích cá nhân của họ đặt lên quá cao mà không nghĩ đến lợi ích tập thể, lợi ích quốc
gia. Từ đó mà buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng nảy sinh và phát triển,
hành vi buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng tinh vi, diễn biến ngày càng
phức tạp là điều bức xúc đối với xã hội hiện nay.
Nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau và hàng hoá có chất
lượng cao, giá thấp hơn ở nơi này sẽ có xu hướng chuyển sang nơi khác có hàng
hoá với chất lượng thấp hơn, giá cao hơn. Đây cũng là quy luật cạnh tranh trong lưu
thông hàng hoá. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ sản xuất nội địa Nhà
nước phải dùng đến hàng rào thuế quan (thậm chí thuế rất cao), gian thương tìm
mọi thủ đoạn để tàng trữ buôn bán, vận chuyển hàng hoá qua biên giới, cũng như
lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng loại, đánh lẫn hàng hoá … để trốn
thuế kiếm lời bất chính. Một số loại hàng hoá nhà nước cấm buôn bán vì lý do bảo

vệ an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sức khỏe cộng đồng (ma túy,
vũ khí, rác thải…), trên thực tế một số loại hàng hóa cấm nhu cầu vẫn có nên giá
cao, việc buôn bán trái phép những hàng hoá này mang lại lợi nhuận rất cao lại càng
thúc đẩy gian thương buôn bán để kiếm lời bất chính. Hoặc có những loại hàng hoá
buôn bán phải có phải được sự cho phép của nhà nước (hàng hóa đã qua sử dụng,
biệt dược,…) vẫn bị gian thương tìm mọi cách để buôn bán kiếm lời.
Đối với mỗi quốc gia tuỳ thuộc quy định của pháp luật, chính sách quản lý
kinh tế, yêu cầu bảo hộ nền sản xuất nội địa và khả năng quản lý khác nhau thì quy


13

mô, tính chất, mức độ buôn lậu và gian lận thương mại cũng khác nhau. Buôn lậu
và gian lận thương mại gắn bó rất chặt chẽ với các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực và
các tệ nạn xã hội khác. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì những tệ nạn này
không ngừng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp.
Biên giới tỉnh Nghệ An tiếp giáp với 3 tỉnh của nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào (Bô Ly Khăm Xay, Xiêng Khoảng, Hủa Phăn); có Cửa khẩu Quốc tế
Nậm Cắn; Cửa khẩu chính Thanh Thủy; 03 cửa khẩu phụ (Tam Hợp, Cao Vều,
Thông Thụ); 14 đường qua lại biên giới có Trạm kiểm soát biên phòng và nhiều
đường mòn qua nước bạn Lào. Đây là khu vực có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát
triển kinh tế, nhất là về đất đai, tài nguyên rừng, khai khoáng, du lịch sinh thái và
kinh tế cửa khẩu, đồng thời là địa bàn chiến lược trọng yếu, có vị trí quan trọng cả
về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Tuy nhiên, do điều
kiện địa lý tự nhiên rừng núi hiểm trở, sông, suối chia cắt, cơ sở hạ tầng chưa phát
triển, có số đông là đồng bào dân tộc ít người sinh sống, đời sống dân sinh và trình
độ dân trí thấp, tình trạng mù chữ và tái mù chữ còn khá phổ biến, đời sống đồng
bào dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao, đặc biệt nhân dân hai bên
biên giới có mối quan hệ dân tộc, thân tộc, dòng họ lâu đời ... nên đã bị các thế lực
thù địch lợi dụng để ráo riết đẩy mạnh chống phá ta trên nhiều mặt, cả kinh tế, chính

trị, quốc phòng an ninh và đối ngoại.
Với trên 80km đường bờ biển, công tác chống buôn lậu trên địa bàn tuyến
biển, cảng quốc tế cũng hết sức phức tạp. Với 06 cửa sông, cửa lạch thông vào đất
liền, tuyến biển (cửa khẩu cảng Cửa Lò-Bến Thuỷ) tỉnh Nghệ An là trung tâm giao
lưu thương mại, du lịch Bắc Miền Trung và các nước trong khu vực Đông Nam Á,
là địa bàn thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, nhưng cũng là địa bàn thuận lợi cho
các đối tượng tình báo, gián điệp và các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động chống
phá cách mạng nước ta và thực hiện các hoạt động bất hợp pháp dưới các hình thức
xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu, xâm nhập trái phép qua biên giới biển, buôn lậu,
gian lận thương mại gây phức tạp cho công tác quản lý, kiểm soát của các cơ quan
chức năng và lực lượng Bộ đội Biên phòng [18, tr.2]


14

Mặt khác, tuyến biển Nghệ An là địa bàn có các bãi ngang với nhiều luồng
lạch, nhánh sông, cảng sông, cảng biển, khí hậu khắc nghiệt nên rất thuận lợi cho
các đối tượng buôn lậu lợi dụng để buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hoá. Cư
dân tại các xã ven biển có trình độ dân trí còn thấp, hiểu biết về pháp luật còn hạn
chế, đời sống kinh tế còn khó khăn nên dễ bị bọn buôn lậu lợi dụng, lôi kéo tham
gia vận chuyển hàng lậu, vi phạm pháp luật và gây nhiều khó khăn cho công tác
kiểm soát của lực lượng HQ.
1.2. Tác động của buôn lậu và gian lận thƣơng mại đối với tình hình
kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
1.2.1. Tác động đối với nền kinh tế quốc dân
BL, GLTM có tác hại rất lớn đối với nền kinh tế, tới những thành tựu của
công cuộc đổi mới mà đất nước đang tiến hành. BL, GLTM có nguy cơ kìm hãm
tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo thành một lực cản lớn đối với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hàng hoá nhập lậu là hàng gian lận, trốn thuế sẽ làm mất tính cân bằng trong

cạnh tranh thương mại giữa hàng nội và hàng ngoại, đồng thời làm thất thu thuế
XNK và các sắc thuế khác dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà nước. Thuế quan
đánh trên hàng hoá XNK nhằm mục đích làm tăng giá của hàng nhập khẩu, bảo vệ
và kích thích sản xuất nội địa. Vì vậy, hàng nhập lậu - gian lận trốn thuế đã phá vỡ
cạnh tranh lành mạnh giữa hàng nội và hàng ngoại nhập. Hàng ngoại nhập lậu vào
thị trường do trốn thuế nhập khẩu nên giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn hàng nội do có
công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị khoa học hiện đại. Trong khi đó, những doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước vẫn phải nhập khẩu và chịu thuế một số nguyên
vật liệu, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, họ còn phải nộp các khoản
thuế khác như: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… nên giá cao hơn.
Mặt khác, hệ thống công nghệ kỹ thuật trong một số lĩnh vực sản xuất trong nước
hiện vẫn còn đang lạc hậu, không đồng bộ, năng suất và hiệu quả thấp, hàng hoá
không phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, nên không đủ sức cạnh tranh với hàng
ngoại ngay trên chính thị trường của mình. Theo quy luật cung - cầu và giá trị hàng
hoá trên thị trường thì cuộc cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập là không cân


15

sức, hàng nhập lậu do giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn, làm cho hàng nội không tiêu
thụ được trên thị trường dẫn đến đọng vốn, thiếu nợ vốn. Điều này dễ làm cho các
doanh nghiệp sản xuất đứng trước nguy cơ phá sản, nhất là những doanh nghiệp và
những ngành công nghiệp non trẻ, mới ra đời. Đây thực sự là mối đe dọa đời sống
của hàng nghìn công nhân trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước.
Mặt khác, BL, GLTM còn làm cho đất nước thất thu lớn về thuế XNK và các
sắc thuế khác gây ảnh hưởng đến quá trình cân đối thu - chi ngân sách của Nhà
nước, làm thất thoát ngoại tệ mạnh ra ngoài biên giới. Đồng thời, hoạt động BL,
GLTM còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội. Có thể nói, BL,
GLTM gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối nền kinh tế, văn hoá xã hội, chính
trị, đây là những hậu quả trực tiếp dễ nhận thấy. Một hậu quả khác không kém phần

nguy hại là hậu quả của buôn lậu, gian lận thương mại là làm cho cơ quan quản lý
nhà nước không kiểm soát được tình hình XNK và liên doanh đầu tư với nước
ngoài; công tác điều hành của cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn và hoạt động
kém hiệu quả [15, tr.7]
Cũng dưới góc độ quản lý, trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, hàng ngoại
nhập với lợi thế về giá cả rẻ hơn hàng nội do trốn được thuế, chất lượng tốt, mẫu mã
đẹp nên được tiêu thụ mạnh, tạo nên tâm lý ưa dùng hàng ngoại (như hàng điện tử,
gia dụng…) trong nhân dân. Nhưng do nguồn hàng không ổn định, giá cả không ổn
định nên buôn lậu là nguyên nhân gây nên những cơn sốt về hàng, về giá cả hàng
hoá làm cho thị trường nội địa không thiết lập, lưu thông hàng hoá bị rối loạn và
gây ách tắc cho sản xuất, tiêu dùng trong nước.
1.2.2. Tác động tới nền văn hoá - xã hội
BL, GLTM gây nên những hậu quả phức tạp và nặng nề về mặt văn hoá - xã
hội. Đây là một trong những yếu tố làm gia tăng sự phân hoá, chênh lệch giữa giàu
và nghèo, tạo đà cho việc thuê mướn, bóc lột sức lao động. Một số tư thương đánh
mất khuynh hướng tạo việc làm, chỉ mải mê làm giàu thông qua BL, GLTM. Hiện
tượng buôn lậu xuất hiện đã lôi kéo một lực lượng lao động khá lớn tham gia vào
đội quân “cửu vạn” mang vác hàng qua biên giới. Lực lượng đó không chỉ bao gồm
lao động tại chỗ, mà còn có cả lao động từ nơi khác đến làm cho sản xuất bị buông


16

lỏng, tình hình trật tự an toàn xã hội cũng bị biến động. Thành phần lao động bị tiền
thuê mướn cám dỗ, có cả trẻ em ở tuổi đến trường bỏ sản xuất, bỏ học hành làm
“cửu vạn”. Đây là đội ngũ tiếp tay và bao che cho buôn lậu, có những làng thuộc
khu vực biên giới đường bộ người dân ở đây bỏ cả sản xuất, coi việc mang vác, vận
chuyển “thuê” hàng hoá nhập lậu là một nghề để sinh sống.
Tệ nạn BL, GLTM là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xã hội, ảnh hưởng
xấu đến thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá dân tộc. Những kẻ buôn lậu

không từ một thủ đoạn nào để thu được nhiều lợi nhuận bất chính, đồng tiền bất
chính đã làm hại những người đi buôn lậu, làm nẩy sinh các tệ nạn xã hội như: cờ
bạc, rượu chè… ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách con người, làm cho đạo
đức của nhiều kẻ bị tha hoá. Không chỉ có thế, BL, GLTM bao giờ cũng dẫn đến
tiêu cực, tham nhũng, dễ dẫn đến tha hoá một bộ phận cán bộ công chức của Nhà
nước. Thực tế cho thấy những ngành chức năng trong hoạt động chống BL, GLTM
trong điều hành, thực thi chính sách thương mại hoặc liên quan đến hoạt động
thương mại nếu không vững vàng sẽ bị lôi kéo, mua chuộc và trở thành nô lệ của
đồng tiền. Do bị lôi kéo bởi khoản lợi nhuận khổng lồ, gian thương tìm mọi mánh
khoé, mọi thủ đoạn để móc nối với một số cán bộ Nhà nước bị tha hoá, biến chất.
Do bị sự cám dỗ của đồng tiền mà họ đã lợi dụng vị trí, quyền lực mà Nhà nước
giao cho để cấu kết với buôn lậu, tiếp tay và bao che cho các hành vi BL, GLTM và
hình thành những đường dây phức tạp, khó phát hiện.
Trong hàng nhập lậu tuồn vào thị trường nội địa bất hợp pháp còn có nhiều
tài liệu phản động, văn hoá đồi trụy, thậm chí có cả vũ khí của những phần tử thù
địch từ nước ngoài chuyển về. Một bên là bọn buôn lậu hám lợi và phi nghĩa, một
bên là các thế lực thù địch luôn có ý đồ làm thay đổi bản sắc văn hoá dân tộc, từ đó
làm thay đổi bản chất của dân tộc được hình thành từ trong quá trình đấu tranh
chống lại áp bức bóc lột và phát triển sản xuất. Bọn buôn lậu lợi dụng triệt để quá
trình mở cửa để tăng cường chống phá ta trên mặt trận văn hoá - xã hội bằng các thủ
đoạn tuyên truyền lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền, ấn hành các sản phẩm
văn hoá phủ nhận quá khứ của dân tộc, ca ngợi lối sống hưởng thụ, chúng tuồn vào
nước ta băng hình, tác phẩm văn hoá đồi truỵ, phản động…Vì thế, những tác hại do


17

buôn lậu gây ra không chỉ thuần tuý về kinh tế, mà nó còn ảnh hưởng đến văn hoá xã hội, xâm hại thuần phong mỹ tục của đất nước.
1.2.3. Tác động tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
Những hậu quả do BL, GLTM gây ra đối với nền kinh tế và đối với nền văn

hoá xã hội đã dẫn đến những tác hại về mặt chính trị, gây khó khăn cho sự quản lý
của Nhà nước. Hàng nhập lậu, gian lận trốn thuế làm cho thị trường hỗn loạn, đời
sống kinh tế của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, tệ nạn xã hội phát triển; công
bằng, văn minh xã hội không được thiết lập; nhà nước thất thu thuế nên không cân
đối được thu - chi ngân sách, một số quỹ phúc lợi bảo hiểm xã hội bị giảm sút…
Buôn lậu và các chủ thể buôn lậu vì những khoản lợi nhuận khổng lồ đã bất
chấp pháp luật, bất chấp chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, với những
thủ đoạn tinh vi để thu lợi nhuận bất chính. Những khoản lợi nhuận này tạo cho bọn
buôn lậu giàu có và ăn chơi sa đoạ, phung phí, trong khi đại bộ phận nhân dân làm
ăn chân chính thì sống khó khăn và nghèo khổ. Chính sự bất công đó đã làm nảy
sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, kèm theo khủng hoảng cả
hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Một trong những hậu quả nữa của buôn lậu gây ra về mặt chính trị là tác hại
của nó đối với chủ quyền và an ninh quốc gia. Ngày nay, hoà bình, hợp tác để phát
triển đang trở thành xu hướng của thời đại, sức mạnh quân sự đang được thay thế
bằng sức mạnh kinh tế. Với ưu thế về kinh tế khoa học, kỹ thuật, các nước tư bản
phát triển đã và đang thực hiện chiến lược “biên giới mềm” đẩy thế giới vào cuộc
chiến tranh không có khói lửa - chiến tranh kinh tế. Kinh tế thị trường là giải pháp
hữu hiệu để tăng trưởng kinh tế, nên các nước chậm phát triển đều có xu hướng phát
triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ với nước ngoài để thu hút vốn và khoa học
kỹ thuật tiên tiến. Với chính sách mở cửa thì cuộc chiến tranh giành thị trường nổ ra
không kém phần gay go so với các hình thức chiến tranh khác [2, tr.8]
Chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa với hình thức xâm lăng mới, đó là “diễn biến
hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”, hàng hoá đến đâu là biên giới đến đó dần dần các nước chậm phát triển từng bước phụ thuộc vào kinh tế và cuối cùng
phải phụ thuộc vào chính trị. Trên thực tế, biên giới nhiều quốc gia vẫn còn nguyên


18

vẹn, bộ máy nhà nước vẫn do những cán bộ trong nước điều hành, nhưng thực chất

độc lập, chủ quyền lãnh thổ bị mất. Vì vậy, bảo vệ an ninh biên giới không chỉ là
việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà thực chất là bảo vệ các tiềm năng - yếu tố cơ
bản của phát triển kinh tế. Bảo vệ an ninh quốc gia góp phần bảo vệ vững chắc
nguồn nhân lực, vật lực, tài lực là phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế và sự
vững chắc của chế độ chính trị.
1.3. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của ngành Hải quan đối với hoạt
động phòng chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại
“Hải quan” theo từ điển tiếng Việt được hiểu là “cơ quan làm công tác kiểm
soát, đánh thuế xuất nhập cảng” [41, tr 771]. Theo nghĩa rộng, khái niệm Hải quan
được hiểu là cơ quan Nhà nước thực hiện quản lý (kiểm tra, giám sát, kiếm soát) đối
với hàng hoá, phương tiện đưa ra, đưa vào lãnh thổ quốc gia, và thu thuế quan đối
với các đối tượng theo quy định phải chịu thuế.
Xét về lịch sử phát triển, thuật ngữ “Hải quan” có nguồn gốc từ “Douane”
(thu quốc gia) của người Ai Cập ngay từ khi Nhà nước của quốc gia này hình thành.
Sau đó, La Mã đã Latinh hoá, và Pháp cũng sử dụng thuật ngữ này. Hy Lạp và Đức
gọi là Rull (thu quốc gia). Anh và các nước nói tiếng Anh gọi là “Customs” (tập
quán) ... .
Theo tập quán và thông lệ quốc tế, Hải quan là cơ quan hành pháp mà bất cứ
Nhà nước có chủ quyền nào cũng phải tổ chức ra để bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an
ninh quốc gia trong hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
Thuật ngữ “Hải quan” du nhập vào Việt Nam từ đầu những năm 1950 và
xuất hiện lần đầu tiên trên văn bản của cơ quan Nhà nước tại Nghị định số
136/BCT-KH-NĐ, ngày 14/12/1954 của Bộ Công thương về thành lập Sở Hải quan
thuộc Bộ Công thương [3, tr 85].
Ở nước ta, ngày 30 tháng 8 năm 1984, Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết số
547/NQ/HĐNN phê chuẩn việc lập Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ
trưởng, tiếp theo ngày 20 tháng 10 năm 1984 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị
định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục
Hải quan, Nghị định 139/HĐBT nêu rõ “Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội



19

đồng Bộ trưởng, là công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có
chức năng:
- Kiểm tra và quản lý hàng hóa, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ vận tải
xuất nhập qua biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Thi hành chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu;
- Ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ Hải quan và các luật lệ khác liên
quan đến việc xuất nhập khẩu;
- Chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới” [20, tr 12].
Nghị định 139/HĐBT đã đánh dấu một bước phát triển mới của Hải quan
Việt Nam. Bằng văn bản pháp lý, Nhà nước đã xác định tính chất công tác hải quan,
làm rõ sự thống nhất về đầu mối quản lý trong toàn ngành, về vai trò, vị trí của Hải
quan Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước, góp phần bảo vệ chủ quyền
quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phục vụ công tác đối ngoại.
Trong đó, chức năng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới
và các hành vi vi phạm pháp luật Hải quan khác được xác định là một trong những
chức năng cơ bản và quan trọng của ngành Hải quan.
Cùng với sự phát triển kinh tế thì tình hình đầu cơ, buôn lậu ngày càng gia
tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh kinh tế quốc tế và sản xuất trong nước.
Trong lĩnh vực xử lý hành chính, Chính phủ Nghị định 46/HĐBT, ngày 10 tháng 5
năm 1983 về “xử lý bằng biện pháp hành chính các vi phạm về buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa”, trên cơ sở đó Tổng cục Hải quan cũng đã ban hành
Thông tư số 1090/TCHQ, ngày 19 tháng 10 năm 1985 để hướng dẫn Nghị định này.
Bên cạnh đó, hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới bị coi
là tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự (Điều 97 Bộ luật hình sự năm
1985). Để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hóa qua biên giới, theo Điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì cơ quan Hải

quan có quyền “ Đối với hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm
trọng thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện
kiểm sát....” và “ Đối với hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc phức tạp thì ra quyết


20

định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển cho cơ
quan điều tra....”.
Ngày 4 tháng 4 năm 1989, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự, theo điều 28 của Pháp lệnh thì Hải quan có thẩm quyền khởi tố vụ
án, tiến hành điều tra đối với tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới theo Điều 97 của Bộ luật hình sự năm 1985. Ngày 28 tháng 12 năm 1989,
Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự, theo đó
một số hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép trái phép hàng hóa qua biên giới do
có tính chất quản lý nhà nước đối với các mặt hàng đó, nên đã quy định thành một
tội riêng như: Ma túy, vũ khí. chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ, chất độc. Vì vậy,
Hải quan không có thẩm quyền khởi tố vụ án và tiến hành hoạt động điều tra đối với
các tội danh này.
Trên cơ sở, kế thừa thành tựu và kết quả đã đạt được, Pháp lệnh Hải quan
được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 20 tháng 2 năm 1990 quy định chức năng
của Hải quan Việt Nam là: “quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt nam. Đấu tranh
chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối, tiền Việt Nam qua
biên giới”. Sự ra đời của Pháp lệnh Hải quan năm 1990 đánh dấu một giai đoạn phát
triển quan trọng về chất của ngành Hải quan cả về quy mô, phương thức và hiệu quả
hoạt động.
Trong giai đoạn từ 1987 - 1993, công tác kiểm soát chống buôn lậu và vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới của ngành Hải quan tập trung vào việc
chuyển biến nhận thức, tư tưởng và tổ chức hoạt động. Trong các năm từ 1987 1990, ngành Hải quan đã phát hiện được nhiều vụ buôn lậu, trong đó có một số vụ

lớn, tinh vi. Công tác kiểm soát kết hợp với biện pháp quản lý công khai đã giúp
Hải quan phát hiện tài liệu phản động, ấn phẩm đồi trụy, vũ khí, chất nổ,.... thẩm lậu
vào nước ta, ngăn chặn nhiều vụ xuất lậu đồ cổ.
Để thể chế hóa kịp thời các quan điểm đổi mới của Đảng về chính sách phát
triển kinh tế - xã hội có liên quan đến Hải quan và đáp ứng đòi hỏi các cam kết quốc
tế liên quan đến hoạt động Hải quan mà Việt nam tham gia hoặc có nghĩa vụ phải
thực hiện. Sau một thời gian chuẩn bị dự án Luật Hải quan, ngày 29 tháng 6 năm


21

2001 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X toàn văn Luật Hải quan đã được thông qua.
Điều 11, Luật Hải quan quy định nhiệm vụ của Hải quan: “Hải quan Việt Nam có
nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng chống
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật
về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương biện pháp
quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hóa hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu”. Điều 32 của Luật Hải quan năm 2001 đã chính thức hóa về mặt pháp lý đối
với công tác kiểm tra sau thông quan, đây là một trong những biện pháp nghiệp vụ
của phương pháp quản lý hải quan hiện đại đó là việc kiểm tra các chứng từ thương
mại, chứng từ sổ sách kế toán sau khi hàng đã được thông quan, để thẩm định lại
mức độ chính xác của các thông tin về các lô hàng, do chủ hàng khai báo trước đó
[25, tr 68].
Trên cơ sở, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 , Chính phủ đã
ban hành Nghị định 138/2004/NĐ-CP, ngày 17 tháng 6 năm 2004 quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan.
Năm 2003, Quốc hội ban hành Bộ luật tố tụng hình sự thay thế Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
hình sự, thì thẩm quyền điều tra của Hải quan được quy định cụ thể tại Điều 111,

khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
trong lĩnh vực quản lý của mình thì cơ quan hải quan có thẩm quyền “ Đối với hành
vi phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, ít nghiêm trọng
thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ
cho Viện kiểm sát....” và “ Đối với hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc phức tạp thì
ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành hoặc hoạt động điều tra ban đầu và chuyển
cho cơ quan điều tra....”.
Ngày 20 tháng 8 năm 2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh
số 23/2004/PL-UBTVQH11 về tổ chức điều tra hình sự, Điều 20 của Pháp lệnh đã
trao quyền thực hiện một số hoạt động điều tra hình sự cho cơ quan Hải quan khi
thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh quản lý của mình phát hiện tội phạm quy định tại
Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật hình sự.


×