Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về quản lý lao động trong doanh nghiệp ở việt nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.07 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHỬ LÊ THÀNH

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG TRONG DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Thu

HÀ NỘI - 2012
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới Thầy giáo - TS. Nguyễn
Xuân Thu, người đã trực tiếp đưa ra những định hướng quan trọng và những lời
khuyên bổ ích trong quá trình nghiên cứu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu vừa qua.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của:


Các cán bộ, Thầy cô giáo Khoa sau Đại học trường Đại học Luật Hà Nội;
Các cán bộ thuộc phòng thống kê doanh nghiệptrực thuộc tổng cục thống kê
Việt Nam;
Bộ phận pháp chế, phòng quản lý nhân sự thuộc Tổng công ty xây dựng và phát
triển hạ tầng (Licogi);
Đã dành cho tôi trong thời gian quý báu và sẵn sang giúp đỡ để tôi hoàn thành
luận văn;
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình tôi, những người thân yêu đã luôn bên tôi, tin
tưởng và cổ vũ cho tôi trong suốt thời gian qua.

Hà Nội ngày 27 tháng 04 năm 2012

Học viên: Chử Lê Thành

___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. BLLĐ:

Bộ luật lao động

2. DN:

Doanh nghiệp

3. HĐLĐ:


Hợp đồng lao động

4. LĐLĐ:

Liên đoàn lao động

5. NLĐ:

Người lao động

6. NSDLĐ:

Người sử dụng lao động

7. QHLĐ:

Quan hệ lao động

8. QLLĐ:

Quản lý lao động

9. QLNN:

Quản lý nhà nước

10. XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG TẠI
DOANH NGHIỆP .......................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm quản lý lao động tại doanh nghiệp .................................................. 6
1.1.1. Quản lý lao động ....................................................................................... 6
1.1.2. Quản lý lao động tại doanh nghiệp ............................................................... 7
1.2. Phân biệt quản lý lao động tại DN với quản lý nhà nước về lao động……..11
1.3. Vai trò quản lý lao động của doanh nghiệp .................................................... 16
1.3.1. Đối với bản thân doanh nghiệp ................................................................... 16
1.3.2. Đối với người lao động ................................................................................ 16
1.3.3. Đối với xã hội ............................................................................................... 17
1.4. Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp............................................. 18
1.4.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động quản lý lao động
tại doanh nghiệp .................................................................................................... 18
1.4.2. Nội dung pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ........................ 19
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG TẠI
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 27
2.1. Về tuyển chọn, sắp xếp lao động ...................................................................... 27
2.2. Về việc ban hành nội quy lao động .................................................................. 32
2.3. Về tổ chức, điều hành lao động ........................................................................ 37
2.4. Về kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm kỷ luật lao động, xử lý trách nhiệm
vật chất đối với người lao động ............................................................................... 41
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP ......................................................................... 53
3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý

lao động tại doanh nghiệp ........................................................................................ 53
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý lao động
tại doanh nghiệp ....................................................................................................... 56
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật ................................................................................... 56
3.2.2. Các giải pháp khác ...................................................................................... 62
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 70

___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó, các DN đóng vai trò rất lớn. Theo số liệu thống kê các năm
qua, lượng các DN đang tồn tại và tăng nhanh một cách đáng kể, cùng với sự phát triển
này thì lượng NLĐ được các DN tuyển dụng cũng ngày một tăng lên. Liên quan đến
một DN, thì việc hình thành, hoạt động và chấm dứt của DN đó có rất nhiều vấn đề cần
giải quyết. Trước đây, vấn đề mà DN gặp phải thường là vốn, thuế và công nghệ,
nhưng đến nay vấn đề nóng nhất lại là nguồn lao động và những vấn đề xung quanh nó.
Ngày nay khi nói đến việc một DN hay một người giám đốc làm ăn thua lỗ thì những
yếu tố trước đây như thiếu vốn, thiếu trang thiết bị, thiếu mặt bằng không còn được
nhắc đến nhiều nữa. Việc DN hoặc người lãnh đạo đó không đủ năng lực điều hành
công việc và thiếu sự trang bị về kiến thức trong hoạt động QLLĐ luôn được đề cập
đến. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trước sự biến động mạnh mẽ của môi
trường kinh doanh, tính chất khốc liệt của sự cạnh tranh và nhu cầu đòi hỏi được đáp

ứng ngày càng cao của NLĐ, tất cả những vấn đề này đã và đang là sức ép lớn đối với
DN. Trong đó vấn đề QLLĐ là một trong những các yếu tố mang tính chất sống còn.
Chính vì vậy hoạt động này đã trở thành công việc mang tính chất thường xuyên và rất
quan trọng của mỗi DN.
Hiện nay vấn đề QLLĐ của các đơn vị sử dụng lao động nói chung và của DN nói
riêng là hoạt động đang rất được quan tâm. Cũng giống như các hoạt động khác phát
sinh trong xã hội, hoạt động QLLĐ của DN trước hết chịu sự tác động của Nhà nước
với các chính sách pháp luật. Pháp luật thể hiện sự tác động của mình thông qua việc
quy định những hoạt động QLLĐ cơ bản của DN trong các văn bản pháp luật mà quan
trọng nhất là BLLĐ. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật lao động nói chung và pháp luật
điều chỉnh hoạt động QLLĐ nói riêng của Việt Nam hiện nay còn chưa thống nhất,
chưa đồng bộ, chưa ổn định và còn có những quy định thiếu tính khả thi dẫn đến việc
thực hiện pháp luật trong hoạt động QLLĐ trong các DN còn nhiều hạn chế. Bên cạnh
đó, các quy định pháp luật lại chưa có một định nghĩa thống nhất và còn nằm rải rác ở
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


2

nhiều điều luật khiến cho việc nhận dạng những hoạt động nào là hoạt động QLLĐ của
DN không dễ dàng.
Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, bản thân tác giả nhận thấy việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật của Việt Nam, từ đó đánh giá thực trạng áp
dụng pháp luật trong hoạt động QLLĐ tại DN, tìm ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả QLLĐ trong DN là một việc làm có ý nghĩa cả về phương
diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Pháp luật về quản lý lao động
trong doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện" để làm
Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến các quy định của pháp luật về hoạt động QLLĐ trong DN tại Việt
Nam, hiện nay đã có một số đề tài nghiên cứu của các tác giả khác nhau. Được lưu trữ
tại thư viện trường Đại học Luật tính đến thời điểm hiện tại có thể kể đến các đề tài
nghiên cứu trong lĩnh vực này, bao gồm khóa luận tốt nghiệp của tác giả Đặng Thị
Oanh “Pháp luật lao động Việt Nam về nội quy lao động thực trạng và phương hướng
hoàn thiện”; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Hoàng Xuân Quang “Áp dụng pháp luật
về kỷ luật lao động trong quản trị nhân sự tại DN”; Tác giả Đỗ Đô Thành với khóa
luận tốt nghiệp: “Kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam thực trạng và
phương hướng hoàn thiện”; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Trần Thị Tuyết Nhung:
“Nội quy lao động và thực tiễn áp dụng trong các DN ”; Khóa luận tốt nghiệp của tác
giả Nguyễn Xuân Hạnh về “Trách nhiệm vật chất trong luật lao động”; Khóa luận tốt
nghiệp của tác giả Tăng Thị Hà Chi về “Pháp luật về tuyển dụng lao động trong DN Thực trạng và một số kiến nghị”.
Bên cạnh đó cũng có những luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về Kỷ luật
lao động như Luận văn thạc sĩ “Chế độ kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất trong
luật lao động Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Đỗ Thị Dung
năm 2002; Luận án tiến sĩ “Pháp luật về kỷ luật lao động ở Việt Nam – Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện” của tác giả Trần Thị Thúy Lâm... Ngoài ra, một số bài viết
cũng đề cập ở các góc độ khác nhau liên quan đến một trong các hoạt động QLLĐ tại
DN. Những công trình được công bố trên là tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả
trong quá trình nghiên cứu của mình. Mỗi công trình nghiên cứu trên đã đưa ra cách
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


3

nhìn về một trong những hoạt động QLLĐ tại DN như tuyển dụng, ban hành nội quy,
xử lý kỷ luật NLĐ hoặc chi tiết hơn nữa đó là việc sa thải NLĐ.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả nêu trên chỉ đề
cập đến một trong các hoạt động cấu thành nên hoạt động QLLĐ tại DN hoặc chỉ dừng

lại ở mức độ nghiên cứu thực tiễn áp dụng trong một hoạt động nhỏ của QLLĐ. Chưa
có công trình hay đề tài nào đi sâu vào việc nghiên cứu một cách toàn diện về các hoạt
động QLLĐ tại DN, để từ đó xây dựng cơ sở lý luận, đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả QLLĐ tại DN theo quy định của pháp luật. Hơn nữa, việc luận
giải một cách có hệ thống yếu tố quy định của pháp luật đối với hoạt động QLLĐ trong
DN có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế quản lý dân
chủ của Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Đây là một vấn đề khá mới mẻ ở
nước ta trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Vì vậy, việc tác giả nghiên cứu đề tài nói trên là cần thiết và không trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Hoạt động QLLĐ trong DN là một loại hoạt động thể hiện sự mềm dẻo và linh
hoạt mà nhà nước trao cho DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mục đích nghiên
cứu của đề tài là phân tích, đánh giá các quy định pháp luật của Việt Nam trên cơ sở có đối
chiếu, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới về hoạt động QLLĐ trong DN. Từ
đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam và nâng cao hiệu quả QLLĐ
trong DN. Việc nghiên cứu đề tài cũng muốn thúc đẩy thực hiện được mục tiêu tạo ra
một thị trường lao động phát triển ổn định và bền vững.
Để thực hiện tốt mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động QLLĐ trong DN.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về QLLĐ trong DN tại Việt Nam trên cơ sở đối
chiếu, so sánh với luật pháp các nước để tìm ra những điểm tích cực hoặc thiếu sót, hạn
chế trong hệ thống pháp luật nước ta.
- Đề xuất, kiến nghị những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
tăng cường hiệu quả QLLĐ trong DN.
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện



4

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Pháp luật về QLLĐ trong DN là một lĩnh vực pháp luật rộng lớn, bao hàm nhiều
vấn đề phức tạp. Với điều kiện hạn chế về thời gian và với khuôn khổ của một Luận
văn thạc sĩ, tác giả không thể nghiên cứu được tất cả các vấn đề thuộc lĩnh vực pháp
luật này. Vì vậy, trong Luận văn này, tác giả xin phép được tập trung nghiên cứu các
quy định về các nội dung cụ thể sau đây:
- Tuyển chọn, sắp xếp lao động;
- Ban hành nội quy lao động;
- Tổ chức, điều hành lao động;
- Kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn bao gồm: tổng
hợp, thống kê, phân tích, so sánh...
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm các vấn đề lý luận về QLLĐ trong DN, như:
khái niệm, đặc điểm, sự khác biệt với quản lý nhà nước về lao động, nguyên tắc, nội
dung điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động QLLĐ trong DN.
- Đánh giá một cách có hệ thống thực trạng pháp luật về QLLĐ và thực tiễn
QLLĐ trong các DN của Việt Nam.
- Tổng kết, rút kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng
cường hiệu quả QLLĐ tại các DN.
Với những đóng góp như trên, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy pháp luật, đồng thời là tài liệu tham khảo cho các nhà làm luật


___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


5

trong quá trình rà soát, hoàn thiện pháp luật lao động nói chung, pháp luật về QLLĐ
trong DN nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn gồm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản lý lao động trong doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng pháp luật về quản lý lao động trong doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
- Chương III: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý lao động trong
doanh nghiệp ở Việt Nam.

___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


6

Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm quản lý lao động trong doanh nghiệp
1.1.1. Quản lý lao động

Lao động là một hoạt động vừa mang tính xã hội, vừa mang tính cá nhân. Đây là
một hoạt động chung của nhiều người khác nhau về trình độ, năng lực, tâm sinh lý,
nguyện vọng, mục tiêu... Những công việc mang tính chất xã hội ấy đòi hỏi có sự phối
hợp giữa các thành viên để đạt được kết quả như ý muốn. Để những hoạt động đó diễn
ra một cách có trật tự, ổn định hiệu quả, thực hiện được những mục tiêu của đơn vị thì
đòi hỏi hoạt động phải có sự quản lý. Những hoạt động ấy cũng có thể gọi bằng cách
khác đó là hoạt động lao động của con người, một hoạt động mang tính xã hội mà ở đó
không thể thiếu vai trò của quản lý. Kể từ khi con người biết phối hợp trong những
công việc vì lợi ích chung thì hoạt động quản lý đã xuất hiện. Các Mác đã nói: “Quản
lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất của quá trình lao động”. Ông cũng
nói thêm rằng: “tất cả mọi hoạt động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạo để điều hòa những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung” [29].
Như vậy, để hoạt động lao động của NLĐ đạt hiệu quả, không có sự chồng chéo
thì tất yếu phải có sự quản lý. Một cách khái quát có thể hiểu quản lý là việc đưa các cá
nhân trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung. Trong
lĩnh vực lao động, hoạt động quản lý xuất hiện từ khi có các hoạt động sản xuất tiền
công nghiệp, đó là khi sản xuất công nghiệp cần nhiều nhân công hoạt động chính xác
trong một chuỗi dây chuyền khép kín, những người công nhân làm việc dưới sự điều
khiển của người quản lý. Nói như vậy cũng không đồng nhất hoạt động QLLĐ dành
cho tất cả những người với các chức danh giám đốc, đốc công trong DN. Tuy nhiên,
việc QLLĐ phải được hiểu là hoạt động của NSDLĐ mà trong phạm vi nghiên cứu của
đề tài thì hoạt động quản lý này thuộc về DN.

___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


7


Là một lĩnh vực trong quản lý nói chung, QLLĐ cũng bao gồm những tác động
của chủ thể lên đối tượng theo mục tiêu nhất định trong lĩnh vực lao động. QLLĐ diễn
ra trong các QHLĐ và quan hệ liên quan đến lao động. Khi tiếp cận khái niệm QLLĐ,
không thể tách rời nó với một đối tượng quan trọng, không thể thiếu trong các mối
quan hệ trên là NLĐ. Theo đó, có thể hiểu: QLLĐ là những biện pháp, cách thức, công
cụ quản lý khác nhau của một chủ thể nhất định, tác động đến NLĐ dưới những hình
thái khác nhau để phối hợp, kiểm soát NLĐ trong quá trình lao động nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định.
1.1.2. Quản lý lao động trong doanh nghiệp
Khi bước vào nền kinh tế thị trường, Nhà nước đề cao quyền tự chủ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. DN là một đối tượng trong số
những “người sử dụng lao động”, đồng thời cũng là đối tượng quan trọng nhất trong
lĩnh vực này. Hoạt động QLLĐ là một hoạt động thường xuyên và có tính chất sống
còn của DN. Nhà nước cũng thừa nhận hoạt động QLLĐ của các DN trong việc mua
bán sức lao động, thuê mướn nhân công. DN là người trả tiền để mua sức lao động của
NLĐ nên họ phải được quyền sử dụng, quản lý đối với NLĐ mà họ đã thuê để đảm bảo
sự an toàn về vốn, tài sản, đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Xét theo góc độ nghiên cứu
pháp luật về QHLĐ, có thể dễ dàng nhận thấy bản thân DN là người tuyển dụng lao
động và NLĐ cũng làm việc cho DN chứ không phải chủ DN hay một chức danh quản
lý nào đó trong DN. Tùy loại hình DN và điều lệ của từng DN mà việc quản lý này
được trao cho một hoặc một số cá nhân đại diện cho DN để tổ chức lao động trong DN.
Trên thực tế, bất cứ DN nào cũng phải thực hiện hoạt động QLLĐ, vì chỉ khi thực hiện
hoạt động này DN mới thực sự tồn tại và mới có thể tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Trong mối quan hệ với QHLĐ, hoạt động quản lý vừa là kết quả vừa là
tiền đề để duy trì mối quan hệ giữa DN với NLĐ. Đối với mỗi DN, dù bằng cách này
hay cách khác, mục đích của hoạt động QLLĐ phải hướng tới sự hiệu quả trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Cũng vì mục đích này mà quản lý được coi là tất yếu phải
có trong DN.
Bên cạnh đó, hoạt động QLLĐ còn được hiểu là hệ thống các quy định của pháp
luật về quyền của DN nhằm duy trì nền nếp của quá trình lao động. Tuy nhiên, việc

QLLĐ không thể hiện một cách thật cụ thể, chi tiết trong các văn bản pháp luật, để
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


8

thực hiện hoạt động quản lý của mình, DN căn cứ trên quy định pháp luật và tự đề ra
cho mình những biện pháp quản lý tối ưu nhất. Như vậy có thể thấy rằng: Hoạt động
QLLĐ trong DN là hoạt động quản lý của DN với NLĐ của mình được thực hiện qua
việc tuyển dụng, sắp xếp và sử dụng NLĐ hợp lý nhằm bảo đảm trật tự ổn định và hiệu
quả trong hoạt động của DN.
- Bản chất quản lý lao động của DN:
DN muốn tồn tại và phát triển cần phải có hoạt động QLLĐ. Hoạt động QLLĐ
của DN thể hiện qua nhiều hình thức như ra lệnh, điều khiển, áp dụng trách nhiệm kỷ
luật… Sự chỉ huy là một trong những biểu hiện rõ nét mà người ta có thể nhận biết và
đánh giá về hoạt động QLLĐ. DN nắm giữ tài sản, tiền bạc và là người tuyển dụng lao
động, trong QHLĐ thì DN là người có lợi thế hơn hẳn so với NLĐ. Chính bởi những
yếu tố này nên bản chất của hoạt động QLLĐ trong DN đó là sự chỉ huy đơn phương,
áp đặt có chủ đích của DN lên NLĐ. Tính đơn phương trong hoạt động quản lý tạo ra
lợi thế của DN và là cơ sở để DN tự bảo vệ quyền lợi của mình vì mục tiêu phát triển
sản xuất.
Pháp luật thừa nhận hoạt động QLLĐ trong DN. Tuy nhiên, những hoạt động
này vẫn phải có một giới hạn và khuôn khổ nhất định. Thực tế DN là người đáp ứng
vai trò “cầu” trên thị trường lao động còn NLĐ là nguồn “cung”. Mối quan hệ giữa
NLĐ và NSDLĐ luôn có sự qua lại và tác động lên nhau ngay từ khi mối QHLĐ được
hình thành. Hơn nữa, hoạt động QLLĐ không phải là một thứ công cụ dùng để áp đặt
một cách sơ cứng lên NLĐ, vì vậy DN cũng cần phải biết áp dụng một cách phù hợp
vừa thu hút NLĐ, vừa phát huy những lợi thế và sức mạnh vốn có của mình. Sau cùng,
xuất phát từ quyền chỉ huy đơn phương mà DN thực hiện những mục tiêu đề ra một

cách hiệu quả.
- Đặc điểm hoạt động quản lý lao động của DN:
+ Về chủ thể quản lý:
Chủ thể QLLĐ trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này là DN (NSDLĐ).
QHLĐ trong nền kinh tế thị trường là quan hệ bình đẳng, tự do thỏa thuận. Với xu thế
phát triển mạnh mẽ như hiện nay, DN đóng vai trò là NSDLĐ phổ biến nhất trên thị
trường lao động Việt Nam, đảm bảo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Trong
quan hệ giữa DN và NLĐ, DN đóng vai trò là NSDLĐ. Chỉ khi là NSDLĐ, DN mới có
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


9

thể tiến hành các công việc tuyển dụng, sắp xếp, bố trí…lao động mà ta gọi chung là
hoạt động QLLĐ.
+ Về tính chất và phạm vi:
Quản lý lao động trong DN là hoạt động mang tính hành chính, đơn phương và
có giới hạn.
Một hệ thống QLLĐ bao giờ cũng có tính hành chính. Tất cả những vấn đề quản
lý liên quan đến thẩm quyền, chủ thể, biện pháp, thủ tục, phương tiện, đối tượng,
không gian, thời gian… đã nói lên điều đó. Hệ thống QLLĐ phải dựa trên các hành vi
và thủ tục mang tính chất hành chính. Chỉ những người có thẩm quyền trong DN mới
được thực hiện chức năng quản lý, và phải áp dụng các biện pháp phù hợp vào đúng
đối tượng theo một trình tự đã hoặc chưa được quy định trước nhưng phải phù hợp với
pháp luật.
Cơ sở của tính đơn phương trong quan hệ quản lý xuất phát ngay ở các chủ thể
tham gia quan hệ này, đó là người quản lý và người bị quản lý. Sự đơn phương trong
hoạt động quản lý NLĐ là điều cần thiết. Trong trường hợp NSDLĐ là DN thì chính
DN là người có quyền QLLĐ, DN không cần phải bàn bạc thảo luận với ai trong việc

áp dụng các biện pháp quản lý của mình. Thực chất DN không thể tự mình thực hiện
việc quản lý, mà phải thông qua bộ máy điều hành gồm các chức danh như chủ tịch,
giám đốc… Tuy nhiên, trên bình diện rộng, với quan hệ quản lý chỉ tồn tại hai chủ thể
mà DN là chủ thể quản lý duy nhất. Các quyết định được cân nhắc và áp dụng tùy
thuộc hoàn cảnh và đối tượng quản lý nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. Tính đơn phương
trong QLLĐ của DN không phải là tuyệt đối mà phải nằm trong khuôn khổ pháp luật,
và DN cũng có thể tiến hành tham khảo hoặc thỏa hiệp trước khi ra quyết định. Tính
đơn phương trong QLLĐ là đặt trong mối quan hệ với NLĐ.
Hoạt động QLLĐ là hoạt động có giới hạn và nằm trong những quy định của
pháp luật. Điều này xuất phát từ những cơ sở lý luận, kinh tế xã hội và pháp lý. Một
cách logic theo quan điểm triết học thì quyền năng quản lý một cách tuyệt đối không
tồn tại. Điều này có thể hiểu bởi các sự vật, hiện tượng, quá trình đều có tính độc lập và
có sự vận động trong không gian và thời gian nhất định. Giới hạn dễ dàng nhận ra nhất
chính là giới hạn về mặt không gian và đối tượng quản lý của DN. Mỗi DN có phạm vi
đối tượng quản lý riêng, có khu vực địa lý riêng, có tài sản riêng…, lẽ dĩ nhiên DN chỉ
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


10

thực hiện hoạt động quản lý của mình trong những phạm vi đó. Về mặt pháp lý, hoạt
động QLLĐ phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật hay quyền QLLĐ của DN
không thể cao hơn quyền của Nhà nước. Về mặt lý luận, Nhà nước có quyền cho phép,
mở rộng, hạn chế, tước bỏ những hoạt động QLLĐ bất hợp lý của DN. Nhà nước vừa
thừa nhận, vừa trao quyền cho NSDLĐ nói chung và DN nói riêng trong QLLĐ của
đơn vị mình.
+ Quản lý lao động cho phép DN kiểm soát toàn diện.
Trong quá trình quản lý, các hoạt động từ giao việc, cấp phát, bàn giao phương
tiện, công cụ đến việc quan sát, đánh giá sản phẩm và khả năng của NLĐ được gọi

chung là kiểm soát. Kiểm soát đảm bảo cho mỗi một NLĐ, mỗi một khâu trong cả hệ
thống chung hoạt động trong khuôn khổ cho phép. DN có thể áp dụng nhiều phương
pháp khác nhau để thực hiện sự kiểm soát hoạt động chung cũng như hành vi của từng
NLĐ. Nếu không có kiểm soát thì việc quản lý sẽ không thực hiện được chức năng của
mình. Khi các bộ phận trong một DN vận hành, cần có kiểm soát để nắm được tình
hình hoạt động để có những điều chỉnh khi cần thiết. Thông qua kiểm soát, hoạt động
quản lý được thắt chặt hơn và còn là cơ sở của nhiều hoạt động quản lý khác. Sự kiểm
soát có thể được diễn ra ở một khâu, một khu vực nhưng cũng có thể được mở rộng ở
mọi khâu. Thông thường ở các DN có hệ thống kiểm soát để kết hợp tất cả những
phạm vi kiểm soát đó.
+ Về nội dung và biện pháp quản lý:
Nội dung QLLĐ trong DN rất đa dạng, bao gồm những việc như tuyển dụng,
sắp xếp, bố trí nhân sự… Tất cả hoạt động quản lý đều ít nhiều liên quan đến những bộ
phận tạo nên QHLĐ. Trước hết, quản lý được thực hiện từ phía DN đối với NLĐ, là
các chủ thể của QHLĐ. Bên cạnh đó, việc quản lý hướng tới việc đảm bảo chuyển giao
sức lao động là khách thể trong QHLĐ một cách hiệu quả và chính xác theo thỏa thuận
giữa các bên. Cuối cùng, quyền và nghĩa vụ của DN và NLĐ được đảm bảo trong hoạt
động quản lý vì hoạt động này luôn ở trong khuôn khổ mà pháp luật cho phép chứ
không phải một thứ quyền lực tuyệt đối của DN.
Trong quá trình thực hiện hoạt động QLLĐ, DN có quyền sử dụng những biện
pháp khác nhau để đảm bảo thực hiện việc QLLĐ một cách có hiệu quả. DN có thể có
các biện pháp quản lý riêng, miễn không trái với quy định của pháp luật. Thậm chí có
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


11

những DN chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ quản lý nhân sự, điều đó cho thấy sự đa
dạng trong các biện pháp quản lý. Cũng không nhất thiết một DN chỉ sử dụng một biện

pháp quản lý nào đó mà có thể kết hợp chúng với nhau. Các biện pháp được áp dụng có
thể chia thành biện pháp tinh thần, biện pháp kinh tế và biện pháp pháp lý. Trong đó,
biện pháp có tính răn đe và biểu hiện rõ nhất là trách nhiệm pháp lý. Đây là biện pháp
buộc NLĐ vi phạm các quy tắc pháp lý phải chịu những trách nhiệm pháp lý tương ứng
với hành vi vi phạm đã thực hiện trong quá trình lao động nhằm duy trì trật tự trong
DN. Hai loại trách nhiệm pháp lý quan trọng có thể được áp dụng đối với NLĐ trong
DN là trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất. Đối với DN, bên cạnh những quy
định trong nội quy, thỏa ước lao động tập thể hoặc điều lệ DN, quyền áp dụng trách
nhiệm pháp lý còn được Nhà nước chuyển giao qua công cụ pháp luật, cụ thể là Bộ luật
dân sự và BLLĐ.
1.2. Phân biệt quản lý lao động trong DN với quản lý nhà nước về lao động
Lao động là nguồn tài nguyên quý giá nhất của một quốc gia. Chính vì vậy, mỗi
quốc gia trong hệ thống chính sách của mình đều quan tâm tới lĩnh vực sử dụng lao
động và sẽ tìm cách quản lý có hiệu quả nguồn nhân lực. Vấn đề quản lý, sử dụng
nguồn lao động như thế nào luôn thu hút sự quan tâm không chỉ của các chủ sử dụng
lao động mà còn của cả Nhà nước - chủ thể có trách nhiệm lớn nhất trong việc tổ chức
thực hiện các hoạt động kinh tế, xã hội, trong đó việc bảo vệ nguồn lực lao động luôn
được quan tâm. Việc làm rõ sự khác biệt giữa QLLĐ trong DN và quản lý nhà nước về
lao động có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện pháp
luật cũng như việc bảo vệ pháp luật lao động.
- Thứ nhất, về cơ sở và đối tượng của hoạt động quản lý lao động:
Hoạt động QLNN về lao động thực chất là sự thể hiện quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực lao động nhằm bảo vệ tốt nhất cho các chủ thể tham gia QHLĐ. Nhà nước
phải thực hiện bổn phận đảm bảo gìn giữ, bảo vệ, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn
nhân lực. Bởi lẽ, nhân lực là yếu tố không thể thiếu để thực hiện các hoạt động lao
động - hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá
trị tinh thần của xã hội. Nhà nước phải có trách nhiệm lớn nhất trong việc tổ chức các
hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có việc sử dụng lao động trong các DN và các đơn
vị sử dụng lao động khác. Về phương diện kinh tế - xã hội, việc QLLĐ của Nhà nước
___________________________________________________________________________________________

Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


12

có vai trò đặc biệt trong việc quản lý nguồn nhân lực quốc gia, khắc phục những khía
cạnh tiêu cực của lao động, làm cho các QHLĐ, quá trình lao động trở nên có tổ chức
và có hiệu quả hơn. Về phương diện pháp lý, Nhà nước là chủ thể có quyền lực pháp lý
lớn nhất, có quyền ban hành và thực thi pháp luật, áp dụng các trách nhiệm pháp lý đối
với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật [15]. Như vậy, cơ sở của việc thiết lập quyền
QLLĐ của Nhà nước trước hết xuất phát từ vị trí, vai trò của Nhà nước trong xã hội, đó
là thiết lập, củng cố và duy trì trật tự xã hội trên thị trường lao động, bảo đảm việc bảo
vệ liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức - những
NLĐ trong xã hội, thông qua quyền quản lý nguồn nhân lực và QLLĐ bằng pháp luật
để có chính sách phát triển, phân bố nguồn nhân lực, phát triển đa dạng các hình thức
sử dụng lao động và giới thiệu việc làm thông qua hệ thống cơ quan QLNN về lao
động các cấp; khuyến khích việc QLLĐ dân chủ, công bằng, văn minh trong DN và
mọi biện pháp, kể cả việc trích thưởng từ lợi nhuận của DN, làm cho NLĐ quan tâm
đến hiệu quả hoạt động của DN, nhằm đạt hiệu quả cao trong QLLĐ, sản xuất của DN;
hướng dẫn NLĐ và NSDLĐ xây dựng mối QHLĐ hài hòa và ổn định, cùng nhau hợp
tác vì sự phát triển của DN. Bên cạnh đó ta cũng có thể thấy được vì những lý do đặc
trưng như vậy nên đối tượng quản lý của nhà nước bao gồm NLĐ, DN và những
NSDLĐ khác.
DN là chủ sử dụng lao động, thực hiện các hoạt động quản lý NLĐ. DN là người
tổ chức, theo dõi, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ của NLĐ trong quá trình lao
động. Bởi lẽ, khi tham gia QHLĐ, mỗi NLĐ thực hiện các nghĩa vụ từ HĐLĐ mang
tính cá nhân, đơn lẻ, song hoạt động lao động của NLĐ là hoạt động mang tính xã hội,
vì thế hiệu quả của hoạt động lao động phụ thuộc vào sự phối hợp, tương tác qua lại
của cả tập thể NLĐ dưới sự điều hành quản lý của DN thông qua các cá nhân có thẩm
quyền. DN là người được hưởng lợi từ kết quả lao động của NLĐ, có nghĩa vụ trả

lương và các quyền lợi khác cho NLĐ kể từ thời điểm HĐLĐ phát sinh hiệu lực. Như
vậy, cơ sở của hoạt động QLLĐ của DN trước tiên là hoạt động dành cho các đối
tượng là DN với tư cách là NSDLĐ nhằm duy trì hoạt động của DN một cách nề nếp
đem lại hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Đối tượng quản lý của hoạt động QLLĐ trong DN là NLĐ. Những nội dung của
hoạt động QLLĐ có phạm vi khá rộng, bao gồm việc xác lập, duy trì, chấm dứt QHLĐ
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


13

với NLĐ. Từ tất cả những phân tích trên ta có thể thấy được sự khác nhau về cơ sở
hình thành, chủ thể, đối tượng trong QLNN về lao động và QLLĐ tại DN.
- Thứ hai, về mục đích của việc quản lý lao động:
Nhà nước thực hiện việc QLLĐ trước hết là để bảo vệ các bên tham gia QHLĐ,
bảo đảm quyền tự do của các bên tham gia QHLĐ, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật các bên tham gia QHLĐ. Mục đích việc QLLĐ của Nhà nước thể hiện
sự điều hành cả ở tầm vĩ mô và vi mô đối với quá trình QLLĐ, tổ chức thanh tra, kiểm
tra việc thi hành chính sách, pháp luật lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh trong
quá trình lao động. Hoạt động QLNN về lao động có tác động trực tiếp đến mọi mặt
của đời sống xã hội, đặc biệt là các chính sách của Nhà nước đối với xã hội. Trong các
giai đoạn phát triển khác nhau, Nhà nước buộc phải giải quyết hài hòa giữa mục tiêu
tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, do vậy, phải coi trọng chính sách
xã hội là động lực để phát triển kinh tế, nhưng đồng thời lại phải coi phát triển kinh tế
là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội. Việc đưa ra các bảo đảm cho
NLĐ, nhất là về chính sách xã hội là điều hết sức cần thiết, nhưng phải cân nhắc mức
độ phù hợp theo từng thời kỳ để nâng dần từng bước, có tính đến các khả năng kinh tế
chung của đất nước và khả năng chi trả của NSDLĐ, cần xét tới phạm vi, biện pháp và
bước đi nếu không sẽ có thể gây thiệt hại cho chính bản thân NLĐ, trước hết là về việc

làm, sau là không đạt được mục tiêu của chính sách, không bảo vệ được NLĐ trong
thực tế.
Mục đích của việc thực hiện hoạt động QLLĐ của DN trước hết là sự thể hiện
quyền của DN trong QHLĐ, thể hiện quan hệ lệ thuộc của NLĐ vào NSDLĐ, là một
trong những đặc điểm cơ bản của quan hệ pháp luật lao động. Thông qua hoạt động
QLLĐ của DN sẽ bảo đảm việc tổ chức thực hiện quá trình lao động, theo dõi, giám sát
NLĐ trong quá trình lao động... Như vậy, mục đích của việc QLLĐ của DN chính là
bảo đảm cho quá trình lao động diễn ra có trật tự, tránh tổn thất tài sản của DN và kiểm
soát hiệu quả việc sử dụng sức lao động của NLĐ nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Bên
cạnh đó, thông qua hoạt động QLLĐ, DN có thể nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng
của NLĐ để có biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ hữu hiệu nhất và
thông qua đó, thực hiện tốt các nghĩa vụ mà pháp luật quy định trong quá trình lao
động.
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


14

- Thứ ba, về hình thức thể hiện, phạm vi áp dụng hoạt động quản lý lao động:
Nhà nước thực hiện hoạt động QLLĐ trên cả ba mặt: ban hành cơ chế, chính
sách, pháp luật về lao động; tổ chức thực hiện pháp luật lao động; theo dõi, kiểm tra,
giám sát NSDLĐ, NLĐ trong việc tuân thủ pháp luật lao động trong quá trình lao
động, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật lao động của các bên tham gia QHLĐ. Bên
cạnh đó, các biện pháp quản lý của Nhà nước còn mang tính chất định hướng, khuyến
khích DN, NLĐ để hướng họ vào các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đồng thời bảo
vệ quyền lợi của họ. Để thực hiện việc QLLĐ, Nhà nước phải nắm vững sự thay đổi
cung cầu việc làm phục vụ cho nhiệm vụ phân bổ nguồn nhân lực, ban hành văn bản
pháp luật, thanh tra, kiểm tra… Đây là hoạt động QLLĐ của Nhà nước nhằm tạo lập
môi trường pháp lý thuận lợi cho các bên tham gia QHLĐ bằng việc quy định cụ thể

các quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia QHLĐ cũng như các thiết chế thực thi quyền
và nghĩa vụ đó trong thực tiễn; quy định cụ thể nội dung, phương thức QLNN về lao
động, các biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật lao động của các bên
tham gia QHLĐ. Đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật về QLLĐ ở nước ta có thể
nói là tương đối đầy đủ, ở nhiều cấp độ văn bản pháp luật khác nhau. Như vậy, phạm vi
quản lý Nhà nước về lao động bao trùm lên mọi hoạt động tồn tại QHLĐ. Thực hiện
qua hệ thống cơ quan hành pháp với những chức năng nhiệm vụ khác nhau, biện pháp
quản lý của Nhà nước mang tính chất mệnh lệnh thi hành buộc các bên trong QHLĐ
phải thực hiện theo ý chí của Nhà nước.
QLLĐ trong DN trước tiên cũng phải tuân theo những quy định chung do pháp
luật đề ra. Tuy nhiên, pháp luật không gò ép hay bắt buộc các doanh nhiệp phải áp
dụng một cách thức quản lý nhất định nào đó. DN thực hiện hoạt động QLLĐ của mình
thông qua các hoạt động cơ bản và cụ thể theo định hướng của pháp luật. Thông qua
các hình thức này, hoạt động QLLĐ của DN có liên quan trực tiếp đến việc tạo lập môi
trường lao động cho NLĐ. DN có biện pháp QLLĐ tốt, khuyến khích NLĐ, đem lại
hiệu quả hoạt động cao thì DN đó tồn tại và phát triển. Ngược lại, DN QLLĐ không tốt
thì người chịu thiệt hại chính là bản thân DN. Như vậy, hoạt động QLLĐ trong DN bao
trùm lên các hoạt động DN trong đó pháp luật chỉ can thiệp để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các bên trong QHLĐ, mà chính quyền QLLĐ của DN cũng là một quyền
năng được pháp luật bảo vệ.
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


15

- Thứ tư, về biện pháp thực hiện quản lý lao động:
Hoạt động QLLĐ của Nhà nước được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà
nước thông qua hệ thống các cơ quan QLLĐ. Pháp luật lao động hiện hành quy định
trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong QLNN về lao

động. Nhà nước sẽ đưa ra định hướng về cơ chế, chính sách, giải pháp xây dựng
QHLĐ lành mạnh; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan đến
vệc phòng ngừa, giải quyết tranh chấp lao động, đình công. Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội thực hiện chức năng QLNN về các lĩnh vực việc làm, dạy nghề, lao
động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động… trong phạm vi cả
nước theo quy định tại Nghị định 186/2007/NĐ-CP ngày 25/12/2007 của Chính phủ.
Công tác QLNN về lao động ở địa phương do Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện thực
hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 10/2008/TTLT-LĐTBXH-BNV ngày
10/07/2008 giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và nhiệm vụ QLNN về lao động của Ủy ban nhân dân
cấp xã. Một đặc điểm đáng chú ý khi đề cập đến cơ quan QLLĐ, đó là sự tham gia của
tổ chức công đoàn trong công tác QLNN về lao động trong DN và tổ chức đại diện của
NLĐ là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt
Nam, Hiệp hội các DN vừa và nhỏ Việt Nam.
DN thực hiện quyền QLLĐ của mình thông qua HĐLĐ, sổ lao động, hệ thống
thang bảng lương, nội quy, kỷ luật lao động và thỏa ước lao động tập thể và các biện
pháp khác. Các quy định pháp luật hiện hành đã tạo điều kiện và trao quyền cho NLĐ,
DN thỏa thuận những điều kiện lao động thuận lợi cho NLĐ như giảm giờ làm việc
trong tuần, tăng số ngày nghỉ hàng năm, ngày nghỉ vì việc riêng, tiền lương, thưởng
hàng tháng, thưởng lương tháng thứ muời ba, thưởng từ lợi nhuận của DN; nghỉ học
tập, hội họp đoàn thể tính vào giờ làm việc; hỗ trợ tiền ăn giữa ca, tiền xăng xe, tiền tàu
xe khi nghỉ hàng năm, tiền thuê nhà trọ; gửi lao động đi bồi dưỡng nâng cao trình độ;
mua bảo hiểm thương mại, bảo hiểm nhân thọ cho một số người lao động [14]. Như
vậy, khác với biện pháp QLLĐ của Nhà nước thông qua các biện pháp mang tính
cưỡng chế nhà nước như xử lý hình sự, xử phạt vi phạm hành chính, tạo môi trường
thuận lợi cho các bên thỏa thuận xây dựng QHLĐ hài hòa cả ở tầm vĩ và vi mô, thì
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện



16

biện pháp QLLĐ của DN mang tính chất tác động đến hành vi xử sự cụ thể của NLĐ
trong quá trình lao động. Các biện pháp tác động QLNN của DN vừa mang tính cưỡng
chế trên cơ sở pháp luật, vừa mang tính động viên, khuyến khích NLĐ trong quá trình
lao động.
1.3. Vai trò quản lý lao động của doanh nghiệp
1.3.1. Đối với bản thân doanh nghiệp
Sự tồn tại của DN luôn có mối liên hệ với sự vận động của nền kinh tế - xã hội,
đặc biệt DN là bộ phận chính trong nền kinh tế thu hút phần lớn nguồn nhân lực của
một quốc gia. Lẽ đương nhiên, hoạt động của DN không nằm ngoài sự điều chỉnh của
pháp luật. Pháp luật trao cho DN quyền QLLĐ trước hết vì nó phù hợp với thực tế
khách quan trong mối quan hệ giữa NLĐ và DN (NLĐ khi giao kết HĐLĐ với DN là
dường như họ đã tự đặt mình trong khuôn khổ của QLLĐ), và sau đó là tạo điều kiện
để DN hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đem lại nguồn lợi cho phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không nên chờ đợi vào pháp luật, trong DN cần xây dựng
môi trường không chỉ trên bình diện QHLĐ mà thể hiện trong việc quan tâm đến đời
sống của NLĐ vì trong QHLĐ không thể tách rời yếu tố tâm tư, tình cảm của NLĐ.
QLLĐ trong DN tạo ra trật tự về tổ chức và hoạt động trong DN, đảm bảo NLĐ làm
việc đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Với địa vị là NSDLĐ, trong quá trình thực
hiện hoạt động quản lý, DN khẳng định được vai trò và quyền lực của mình với NLĐ.
Xuất phát từ việc duy trì nền nếp trong DN, quản lý giúp duy trì hoạt động hiệu quả
của DN. Không chỉ điều hòa ổn định mối QHLĐ, phát huy sở trường của từng NLĐ
mà QLLĐ còn thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Bên cạnh đó, thông
qua quản lý còn cho phép DN kiểm soát và xử lý những NLĐ có hành vi vi phạm kỷ
luật lao động. Tuy nhiên, QLLĐ không tự nó tạo ra sự hiệu quả trong hoạt động DN
mà nó chỉ tạo ra cơ sở và điều kiện để DN vận hành hệ thống cơ quan của mình một
cách thông suốt. Hiệu quả hoạt động của DN không chỉ phụ thuộc vào chất lượng quản
lý mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chiến lược, thị trường, tình hình nền kinh

tế… Nhưng QLLĐ ngày nay đã trở thành một thành phần không thể thiếu, thậm chí
trong nhiều trường hợp tạo nên danh tiếng cho một DN.
1.3.2. Đối với người lao động
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


17

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, QLLĐ là một trong những yếu tố đem lại
sự thành công cho DN bằng cách thông qua tổng thể các biện pháp pháp lý và các biện
pháp nghiệp vụ khác NSDLĐ sẽ điều hành hoạt động của NLĐ, hạn chế những mặt
tiêu cực, phân công công tác dựa trên khả năng chuyên môn của từng người. Việc
QLLĐ hiệu quả cũng sẽ giúp cho DN hoạt động ổn định và phát triển. Điều này cũng
sẽ tác động tới các điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ mà NLĐ trong DN đó được
hưởng. Về phía NLĐ thì thông qua hoạt động QLLĐ sẽ gắn kết NLĐ với đơn vị làm
cho NLĐ nhận thức được rằng lợi ích của của họ cũng gắn liền với sự phát triển của
đơn vị sử dụng lao động từ đó mà thúc đẩy họ tích cực, hăng say đóng góp cho đơn vị
mình. Một khía cạnh cũng có thể nhận thấy đó là dưới tác động của QLLĐ thì NLĐ
làm việc có kỷ luật và trách nhiệm hơn cũng sẽ giúp cho họ có tác phong làm việc
chuyên nghiệp hơn, nâng cao được trình độ, tay nghề. Điều này có thể giúp cho NLĐ
sẽ nhận được những đánh giá tích cực từ phía DN và nâng cao được thu nhập. Trong
bối cảnh hội nhập kinh tế, việc NLĐ có thể nâng cao trình độ, năng lực khi làm việc
trong một môi trường mà hoạt động QLLĐ là tất yếu từ phía DN rõ ràng là một dấu
hiệu tích cực cho bản thân NLĐ nói riêng và cho DN nói chung.
1.3.3. Đối với xã hội
Dưới góc độ kinh tế- xã hội, QHLĐ là quan hệ trao đổi giữa DN và NLĐ, trong
đó DN là người mua hàng hóa sức lao động của NLĐ. Trong quan hệ mua bán đó, sự
chuyển giao không thể nhận biết giống như đối với các hàng hóa thông thường khác.
Thành quả của lao động thể hiện ở kết quả, sản phẩm được hình thành trong quá trình

lao động của con người bằng sức lao động của họ. Thông qua lao động, NLĐ cũng đã
chuyển giao sức lao động của mình cho DN. Yếu tố con người trong mọi quá trình sản
xuất với sự cộng tác là hết sức quan trọng. Với lý do đó, DN phải chủ động thực hiện
các biện pháp QLLĐ để kiểm soát quá trình chuyển giao sức lao động vì nó liên quan
đến sự thành công hay thất bại của DN. QLLĐ không chỉ có vai trò quan trọng đối với
DN mà nó còn có những vai trò nhất định đối với xã hội và NLĐ trong DN. Chịu sự
QLLĐ từ phía DN, NLĐ phát huy tính tự giác, thậm chí là phát huy sở trường trong lao
động. QLLĐ tạo ra sự công bằng giữa những NLĐ, quản lý phù hợp tạo cho NLĐ có
một môi trường làm việc tốt, từ đó gắn kết họ với DN. Về phía Nhà nước, QLLĐ trong
DN tạo ra trật tự trong hoạt động của một bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế.
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


18

Ngoài ra QLLĐ còn đóng vai trò gián tiếp trong việc thu hút vốn đầu tư vào DN, và
giải quyết vấn đề việc làm cho NLĐ trong chính sách điều chỉnh nguồn lao động của
nhà nước.
1.4. Pháp luật về quản lý lao động trong doanh nghiệp
1.4.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động quản lý lao
động trong doanh nghiệp
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam
thừa nhận sự tồn tại của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. DN có thể phát triển
được thì trước tiên chúng ta phải tôn trọng quyền tự chủ của DN trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Hiện nay trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới thì quyền
tự do kinh doanh đã được Nhà nước tại hầu hết các quốc gia thừa nhận và bảo vệ. Hoạt
động QLLĐ trong DN là hoạt động thường xuyên và rất cần thiết trong bất cứ DN nào.
Pháp luật lao động của nhiều nước trên thế giới cũng thừa nhận quyền quản lý của
NSDLĐ là một quyền không thể thiếu khi tiến hành hoạt động sản xuất. Nhưng với

quyền quản lý trong tay NSDLĐ sẽ rất dễ lạm quyền đi ngược lại với lợi ích của Nhà
nước, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của NLĐ nên việc pháp luật lao động cần thiết
phải quy định một cách chặt chẽ về vấn đề này.
Nhà nước của các quốc gia trên thế giới sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt
động QLLĐ trong DN trước hết là để bảo vệ các bên tham gia QHLĐ, bảo đảm quyền
tự do của các bên tham gia QHLĐ, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm của các
bên khi tham gia QHLĐ. Mục đích của việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động
QLLĐ trong DN thể hiện sự điều hành cả ở tầm vĩ mô và vi mô đối với quá trình
QLLĐ, tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thi hành chính sách, pháp luật lao động và giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình lao động.
Trước đây, các quy định pháp luật đã can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế, đi
ngược lại quy luật khách quan của thị trường và làm kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước cho phép chủ đầu tư được lựa
chọn ngành nghề kinh doanh, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư, chủ động mở rộng quy
mô và ngành nghề kinh doanh và trong quá trình QLLĐ, Nhà nước đã trao quyền cho
NSDLĐ là các DN, có quyền tuyển chọn, thuê mướn, sử dụng nhân công, có quyền
duy trì kỷ luật lao động trong đơn vị, có quyền sắp xếp bố trí nhân công. Như vậy, Nhà
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


19

nước đã thừa nhận quyền quản lý của DN là một quyền không thể thiếu khi tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, việc thực hiện hoạt
động QLLĐ của DN trước hết là sự thể hiện quyền của DN trong QHLĐ, thể hiện quan
hệ lệ thuộc của NLĐ vào NSDLĐ, là một trong những đặc điểm cơ bản của QHLĐ.
Với hoạt động quản lý trong tay NSDLĐ sẽ rất dễ lạm quyền đi ngược lại với lợi ích
của Nhà nước, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của NLĐ. Trong mối quan hệ với
NSDLĐ, NLĐ luôn đứng ở vị trị yếu thế hơn, điều này là một thực tế không thể thay

đổi. Có thể dễ dàng hiểu rằng không một doanh nhân nào bỏ thời gian, tiền bạc, trí tuệ
ra để kinh doanh với đầy những rủi ro mà lại chấp nhận một vị thế thấp kém hơn chính
nhân viên của anh ta. Vì vậy, pháp luật lao động có nhiệm vụ thu hẹp sự cách biệt này
đến một mức độ chấp nhận được, chứ không thể san bằng được khoảng cách này. Do
đó, pháp luật lao động là công cụ cần thiết để điều chỉnh hoạt động QLLĐ trong DN
sao cho phù hợp. Nói cách khác, pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của
NLĐ và NSDLĐ, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và QLLĐ. Chính vì
vậy việc điều chỉnh pháp luật đối với QLLĐ là hết sức cần thiết nhằm mang lại sự hiệu
quả quản lý của DN mà còn giữ vững sự phát triển của toàn xã hội.
1.4.2. Nội dung pháp luật về quản lý lao động trong doanh nghiệp
Hoạt động QLLĐ trong DN được điều chỉnh trong pháp luật lao động của mỗi
quốc gia là rất phong phú và đa dạng. Ví dụ như ở các quốc gia ASEAN, hầu hết các
nước đều theo hệ thống dân luật, trong khi đó một vài nước lại theo truyền thống luật
chung (thông luật). Các truyền thống, văn hóa, hệ tư tưởng chính trị và hoàn cảnh kinh
tế, xã hội khác nhau đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự đa dạng trong nội
dung pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý lao động. Mỗi quốc gia có một hệ thống
pháp luật riêng biệt điều chỉnh các hoạt động QLLĐ trong DN, song tựu chung lại pháp
luật về quản lý lao động trong DN tập trung ở các nội dung cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, tuyển chọn, sắp xếp lao động:
QLLĐ luôn gắn liền với QHLĐ, vì vậy khâu đầu tiên xác lập quan hệ này chắc
chắn không nằm ngoài chức năng QLLĐ của DN. Hoạt động tuyển chọn lao động là
hoạt động gần như đương nhiên và phổ thông để bắt đầu cho một QHLĐ, có lẽ vì vậy
rất hiếm có luật lao động của quốc gia nào đưa ra định nghĩa về hoạt động này, ngoại
trừ Luật Lao động Philippin đã đưa ra một định nghĩa khá chi tiết và rõ ràng tại Điều
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


20


13: “Tuyển mộ và bố trí là hành động sàng lọc, tuyển, ký hợp đồng, vận chuyển, sử
dụng, tuyển dụng hoặc dắt mối NLĐ và bao gồm các việc cung cấp thông tin, dịch vụ
môi giới, hứa hẹn hoặc quảng cáo để tuyển dụng lao động, trong hoặc ngoài nước, bất
luận có vì lợi nhuận hay không: miễn là người đó hoặc thể nhân đó, theo bất kỳ cách
thức nào, chào mời hoặc hứa hẹn tuyển dụng từ hai người trở lên, có thu phí, thì đều
được coi là tham gia vào tuyển mộ và bố trí lao động”.
Có thể thẩy rằng hoạt động tuyển chọn bao gồm rất nhiều các hoạt động nhỏ bên
trong mà để vận hành được các hoạt động đó, DN đều phải sử dụng đến quyền năng,
kinh nghiệp quản lý của mình. Tuy nhiên, phải thấy rằng quy định pháp luật về việc
tuyển chọn lao động ở mỗi quốc gia là khác nhau. Hầu hết các nước đều thừa nhận
quyền này nằm trong tay DN (Indonesia, Lào, Thái Lan, Singapore…) nhưng có một
số nước lại có những quy định rất riêng biệt và việc tuyển dụng NLĐ của DN phải theo
các quy tắc rất chặt chẽ.
Có thể kể đến Luật Lao động Campuchia đã dành hẳn Chương X để quy định về
vấn đề sắp xếp và tuyển dụng lao động; trong đó tại Điều 258 có quy định “Bất cứ ai
tìm kiếm việc làm có thể yêu cầu hoặc đăng ký với văn phòng sắp xếp việc làm của Bộ
lao động hoặc với văn phòng việc làm ở tỉnh hoặc thành phố của họ. Mọi NSDLĐ cần
thông báo với văn phòng sắp xếp việc làm của Bộ lao động hoặc văn phòng việc làm
của tỉnh hoặc thành phố về các vị trí cần tuyển dụng trong DN hay các nhu cầu mới về
nhân sự. NSDLĐ có thể tuyển dụng lao động trực tiếp cho DN tuy nhiên phải đáp ứng
các yêu cầu tại Điều 21”. Theo đó, mỗi NSDLĐ nếu muốn trực tiếp tuyển dụng lao
động phải khai báo cho Bộ Lao động bằng văn bản. Luật Lao động Brunei trao quyền
này cho những người tuyển dụng được Nhà nước cấp phép, những người này sẽ thực
hiện việc tuyển dụng cho một người sử dụng lao động cụ thể. Hay tại Philippin, hoạt
động tuyển chọn lao động được quản lý khá chặt chẽ khi đưa ra các yêu cầu về quốc
tịch, về vốn và thẩm quyền điều chỉnh trực tiếp hoạt động này của Bộ trưởng Lao động.
Bên cạnh việc tuyển chọn NLĐ là các đối tượng lao động phổ thông, pháp luật
lao động ở hầu hết các quốc gia đều có những quy định khá cụ thể về việc tuyển dụng
lao động nữ, vị thành niên và trẻ em làm việc. Ví dụ như, Luật Lao động Brunei quy
định hạn chế tuyển dụng trẻ em làm việc trừ khi Quốc Vương cho phép, không được


___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


21

tuyền dụng phụ nữ làm việc ban đêm, hạn chế tuyển dụng phụ nữ và lao động vị thành
niên làm việc dưới lòng đất…
Khi NLĐ được nhận vào DN cũng có nghĩa đã xác lập QHLĐ giữa họ với DN,
hoạt động QLLĐ được thể hiện rõ ràng hơn, bắt đầu từ việc sắp xếp lao động. Sắp xếp
lao động cũng có thể diễn ra trong trường hợp khác, trong quá trình NLĐ đang làm
việc cho DN. Dù trong trường hợp nào, DN cũng thể hiện rõ vai trò quản lý, DN sẽ cho
NLĐ biết họ làm việc ở vị trí nào, công việc của họ là gì. Liên quan đến thỏa thuận
trong HĐLĐ, DN bị ràng buộc phải thực hiện đúng đã cam kết, tuy nhiên việc sắp xếp
vị trí và công việc cụ thể không phải trong mọi trường hợp đều được mô tả chi tiết.
- Thứ hai, ban hành nội quy lao động làm công cụ QLLĐ:
Nội quy lao động là văn bản được tạo ra theo trình tự, thủ tục nhất định có hiệu
lực bắt buộc thi hành đối với các thành viên của tổ chức ban hành. Nội dung chính của
nội quy lao động trong DN phục vụ cho việc QLLĐ thường quy định việc tuân theo
thời gian, công nghệ, trật tự trong DN và sự điều hành công việc của DN. Ban hành nội
quy lao động là quyền năng quan trọng của DN, đồng thời nội quy lao động tạo ra cơ
sở pháp lý để thực hiện hoạt động QLLĐ. Bên cạnh các văn bản pháp luật của Nhà
nước, nội quy lao động được ví như “đạo luật” riêng của mỗi DN. Thông qua nội quy
và các quy chế, DN có thể thực hiện được các hoạt động quản lý của mình. Ngoài ra,
nó cũng có tác động gián tiếp đến ý thức NLĐ trong DN, tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho DN trong quản lý.
Có thể thấy rằng những quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một
trong các nội dung của nội quy và quy chế lao động xuất hiện tại hầu hết luật pháp lao
động của các quốc gia tuy nhiên không phải pháp luật nào cũng có những quy định rõ

ràng và cụ thể về nội quy và quy chế lao động (Malaysia, Philippin). Các quốc gia có
quy định về nội quy lao động là Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Thái Lan và
Singapore và Việt Nam.
Tại Điều 58, Luật Lao động của Brunei quy định “Mỗi NSDLĐ sẽ thu xếp lắp
đặt và trưng bày ở một nơi dễ nhận thấy tại địa điểm làm việc một bảng thông báo trên
đó sẽ ghi các đặc điểm rõ ràng, tên địa điểm làm việc và tên và địa chỉ của người chịu
trách nhiệm quản lý và, tình hình của văn phòng đăng ký của công ty nếu NSDLĐ là
một công ty”.
___________________________________________________________________________________________
Pháp luật về quản lý lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện


×