Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước thực tiễn tại tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.43 MB, 82 trang )

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG VĨNH SƠN

BẢO ĐẢM TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG THANH TRA
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC – THỰC TIỄN
TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số: 60 38 20

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thủy

Hà Nội, 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn
là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình khoa học nào khác

Tác giả luận văn


Đặng Vĩnh Sơn


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các giảng viên
Khoa Hành chính – Nhà nước, các giảng viên
thính giảng và các thầy cô giáo Khoa Sau đại học
trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ tôi hoàn
thành chương trình học tập lớp cao học Luật
khóa XVIII. Đặc biệt xin chân thành cảm ơn
TS. Nguyễn Thị Thủy đã giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Tác giả luận văn

Đặng Vĩnh Sơn


MỤC LỤC
1

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HOẠT
ĐỘNG THANH TRA TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm về thanh tra và hoạt động thanh tra

11

1.2. Phân biệt hoạt động thanh tra với hoạt động giám sát, kiểm tra, kiểm
toán


15
1.3. Quan niệm về tính độc lập của hoạt động thanh tra

18

1.4. So sánh tính độc lập của hoạt động thanh tra với hoạt động xét xử
của Tòa án

25

1.5. Các yếu tố pháp lý ảnh hưởng đến tính độc lập của hoạt động thanh
tra

26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG

THANH TRA TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1. Quá trình hình thành và phát triển những quy định của pháp luật về
tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt
Nam.

28
2.2. Thực trạng pháp luật hiện hành về tính độc lập trong hoạt động thanh

tra ở Việt Nam

39

2.3. Tính độc lập của hoạt động thanh tra theo một số mô hình thanh tra ở

một số nước trên thế giới, so sánh với mô hình thanh tra Việt Nam hiện nay.
48
2.4. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm tính độc
lập của hoạt động thanh tra thời gian qua tại Bình Định.

50


2.5. Đánh giá chung về các quy định của pháp luật đảm bảo tính độc lập
của hoạt động thanh tra hiện nay.

57

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO
ĐẢM TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG THANH TRA
3.1. Những định hướng nhằm bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh
tra.

61
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra
63
KẾT LUẬN:

69


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của chủ
thể quản lý hành chính nhà nước, hoạt động này chủ yếu được thực hiện bởi cơ
quan quản lý hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân được trao
quyền quản lý trong những trường hợp nhất định do pháp luật quy định. Quản lý
hành chính nhà nước được thực hiện bởi một chu trình khép kín, bao gồm nhiều
giai đoạn khác nhau như: nắm tình hình, dự đoán sự phát triển của tình hình; lập
kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện; công tác phối hợp, thanh tra, kiểm tra. Như
vậy, thanh tra với tư cách là một hoạt động, một giai đoạn của chu trình quản lý
hành chính nhà nước, thanh tra luôn gắn liền với quản lý hành chính nhà nước, ở
đâu có quản lý hành chính nhà nước thì ở đó có hoạt động thanh tra. Quản lý
hành chính nhà nước sẽ không đạt được hiệu quả nếu tách ly khỏi hoạt động
thanh tra. Thanh tra với tư cách là một hoạt động cơ bản của quản lý hành chính
nhà nước chịu sự tác động, chi phối của quản lý hành chính nhà nước. Đối tượng
quản lý hành chính nhà nước cũng là đối tượng thanh tra.
Trong quá trình quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước quy định thẩm quyền, hình thức, thủ tục hoạt động của các cơ
quan thanh tra; sử dụng các thông tin, kết luận của cơ quan thanh tra để xử lý,
giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Do đó, thanh tra bị chi phối bởi bản chất của quản lý hành chính nhà nước.
Thanh tra hướng vào hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước, nên
chịu sự tác động của các yếu tố của quản lý nhà hành chính nước như: chủ thể,
khách thể, nội dung. Các yếu tố này giúp cho cơ quan thanh tra xác định đối
tượng, nội dung, mục đích của hoạt động thanh tra.


2

Thanh tra cũng tác động trở lại quản lý hành chính nhà nước, không chỉ
phát hiện ra những sai lệch trong quản lý hành chính nhà nước mà những kiến
nghị của cơ quan thanh tra là cơ sở để các cơ quan quản lý hành chính nhà nước

xem xét lại cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nhằm hoàn thiện cơ chế quản
lý, chính sách, pháp luật. Thuộc tính này mang đến cho hoạt động thanh tra đạt
được mục tiêu đích thực vốn có.
Như vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa thanh tra và quản lý hành chính nhà
nước không chỉ thấy vị trí, vai trò của thanh tra trong quản lý hành chính nhà
nước mà điều quan trọng hơn là xác định mối quan hệ biện chứng giữa tổ chức,
hoạt động thanh tra với các nội dung, yếu tố của quản lý hành chính nhà nước
như chủ thể, khách thể ... trong đó mối quan hệ tác động trực tiếp là cơ chế quản
lý kinh tế, cơ chế điều chỉnh pháp luật và xu hướng vận hành của cải cách hành
chính. Đây là phương pháp luận để nhận thức đúng, lựa chọn phương án, bước đi
thích hợp trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, hoàn thiện
pháp luật thanh tra.
Khi nói đến bản chất của hoạt động thanh tra trong mối quan hệ với quản lý
hành chính nhà nước, người ta thường quan tâm đến các yếu tố tác động đến việc
hình thành quan niệm thanh tra, đặt vị trí của thanh tra trong các mối quan hệ chi
phối đến hoạt động thanh tra. Thanh tra là một loại hoạt động quản lý hành chính
nhà nước nhưng lại có những đặc điểm khác với bản thân hoạt động quản lý
hành chính nhà nước ở chỗ hoạt động đó mang tính độc lập tương đối.
Nhận thức rõ tầm quan trọng về tính độc lập của hoạt động thanh tra trong
quản lý hành chính nhà nước. Kể từ khi giành được chính quyền (1945) đến nay,
Nhà nước ta đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật
về thanh tra. Trong đó tùy vào từng hoàn cảnh lịch sử mà tính độc lập của hoạt
động thanh tra được pháp luật quy định theo hướng mở rộng hay thu hẹp.


3

Trong giai đoạn hiện nay, nhiều cơ chế, chính sách, pháp luật và điều kiện
kinh tế - xã hội có sự đổi mới, dân chủ xã hội ngày càng được mở rộng, công tác
quản lý hành chính nhà nước nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, phức tạp. Gắn với

quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị, cải cách hành chính nhà
nước, hệ thống pháp luật thanh tra ngày càng được hoàn thiện đã tạo môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị trong thời kỳ
hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung hiệu lực, hiệu
quả hoạt động thanh tra vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của công tác quản lý hành chính nhà nước: công tác thanh tra còn thiếu
tính chủ động, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau thanh tra chưa nghiêm;
hiệu quả trong công tác phòng chống tham nhũng còn thấp; tổ chức của cơ quan
thanh tra theo ngành, lĩnh vực còn thiếu thống nhất, hoạt động nhiều khi còn
trùng lặp, chồng chéo... Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân và
một trong những nguyên nhân cơ bản đó là: Trong các quy định của pháp luật và
trên thực tiễn đã có những can thiệp quá sâu của cơ quan quản lý hành chính nhà
nước vào tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra dẫn đến làm giảm tính chủ
động, tính độc lập cần thiết của hoạt động thanh tra .
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định: “Cơ cấu lại
các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp… phân cấp mạnh cho
cấp dưới gắn với hướng dẫn và thực hiện thanh tra, kiểm tra của cấp trên”;
Nghị quyết số 48/2005/NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 đã nêu: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra,
kiểm tra, bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm
tra của Chính phủ”; Nghị quyết số 21/2009/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính


4

phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020:
“Nghiên cứu sửa đổi pháp luật về thanh tra theo hướng làm rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước... tăng cường tính độc

lập và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra... tăng cường hiệu lực thi
hành các kết luận của cơ quan thanh tra”.
Năm 2010, Quốc hội thông qua Luật thanh tra mới trên cơ sở kế thừa
nhiều nội dung của Luật Thanh tra 2004, đồng thời bổ sung một số quy định
nhằm tăng cường tính độc lập cho hoạt động thanh tra. Tuy nhiên do chưa sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 nên nhìn chung các quy định nhằm bảo đảm tính
độc lập của hoạt động thanh tra vẫn nặng về hình thức, lý luận mà không được
phát huy một cách hiệu quả trên thực tiễn.
Vì vậy, nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về tính độc lập của hoạt
động thanh tra trên bình diện lý luận đồng thời phân tích, liên hệ vận dụng thực
tiễn trên cơ sở tổng kết, đánh giá những quy định của Luật Thanh tra 2004 hiện
được Luật Thanh tra 2010 kế thừa; phân tích, đánh giá khả năng thực hiện các
nội dung mới đảm bảo tính độc lập trong hoạt động thanh tra theo quy định của
Luật Thanh tra 2010 là cần thiết, nhất là trong giai đoạn Quốc hội đang dự thảo
và sửa đổi Hiến pháp cũng như việc triển khai thực hiện Luật Thanh tra 2010 mới
được hơn 01 năm.
2- Tình hình nghiên cứu:
Ở Việt Nam, vấn đề tổ chức và hoạt động của thanh tra đã được nhiều tác
giả nghiên cứu, đề cập đến ở bình diện lý luận và thực tiễn. Điển hình là một số
công trình, bài viết sau:
Luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong tổ chức và
hoạt động của thanh tra ở Việt nam” năm 2004 của Lê Thị Thu Oanh đã phân
tích khá kỹ về bộ máy tổ chức và các hình thức hoạt động của các cơ quan thanh


5

tra theo Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, qua đó đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện, trong đó chủ yếu là hoàn thiện về bộ máy tổ chức. Tuy nhiên do tiếp cận
dưới góc độ chung nên luận văn chưa làm nổi bật được mối quan hệ giữa việc

đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra với việc bảo đảm tính độc
lập của hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước; Luận văn thạc sĩ
“Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra cấp tỉnh – Thực tiễn tại
Đồng Nai” năm 2003 của Lê Văn Thăng đã sử dụng số liệu thực tiễn tại tỉnh
Đồng Nai để đánh giá những ưu điểm và bất cập của mô hình tổ chức và hoạt
động của cơ quan Thanh tra cấp tỉnh theo quy định của Pháp lệnh Thanh tra năm
1990. Tuy nhiên luận văn chưa chọn lọc và phân tích số liệu thực tiễn để làm rõ
một trong những nguyên nhân của bất cập trong tổ chức và hoạt động của cơ
quan Thanh tra cấp tỉnh đó là tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý
hành chính nhà nước việc chưa được đảm bảo.
Đánh giá về mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra năm 2004, một số tác
giả đã có các bài viết đăng trên một số tạp chí. Bài viết: “Bất cập trong tổ chức,
hoạt động thanh tra và định hướng đổi mới” của Thạc sĩ Nguyễn Quốc Văn
đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 12/2009 đã đánh giá một cách tổng
quát về những bất cập trong tổ chức và hoạt động thanh tra theo Luật Thanh tra
năm 2004, đồng thời đề xuất bổ sung, sửa đổi một số quy định của Luật Thanh
tra. Trong bài viết, tác giả đã nêu được một trong những bất cập đó là “thiếu các
quy định bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra”, tuy nhiên do tiếp cận
dưới góc độ nghiên cứu nên tác giả không phân tích để làm rõ nội dung này về
mặt lý luận và thực tiễn; Bài viết “Thực trạng công tác thanh tra và những vấn
đề đang đặt ra” của tác giả Đinh Văn Minh đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập
pháp số 19/2009 đã phân tích số liệu theo các báo cáo của Thanh tra Chính phủ
để đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác thanh tra kể


6

từ khi có Luật Thanh tra năm 2004, nêu các nguyên nhân hạn chế và đề xuất các
giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh
tra. Vấn đề đảm bảo tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý hành

chính nhà nước cũng đã được tác giả đề cập dưới góc độ chung, tuy nhiên tác giả
chưa phân tích làm rõ, chưa gắn giải pháp đổi mới bộ máy tổ chức của hệ thống
các cơ quan Thanh tra với các giải pháp đảm bảo tính độc lập của hoạt động
thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước.
Đi sâu phân tích về tính độc lập của cơ quan Thanh tra, Thạc sĩ Nguyễn
Thị Thương Huyền có bài viết “Bàn về tính độc lập của Thanh tra” đăng trên
Tạp chí Thanh tra số 01/2009. Trong bài viết, sau khi đánh giá về vai trò của cơ
quan Thanh tra trong quản lý nhà nước, tác giả đề cập đến sự độc lập của “chủ
thể thanh tra” với “chủ thể quản lý nhà nước”, với “các cơ quan nhà nước khác”
và với “đối tượng thanh tra”, qua đó đi đến kết luận “tính độc lập của thanh tra
là điều kiện tất yếu cho hoạt động thanh tra”. Tuy nhiên bài viết đã không đi sâu
phân tích, làm rõ tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính
nhà nước cũng như không đưa ra được các giải pháp nhằm đảm bảo tính độc lập
của cơ quan thanh tra và của hoạt động thanh tra; Bài viết: “Các biện pháp tăng
cường tính độc lập tương đối của hoạt động thanh tra ” của Thạc sĩ Nguyễn
Tuấn Khanh - Viện Khoa học thanh tra đăng trên http/www.giri đã nêu được một
số nội dung thể hiện hoạt động thanh tra mang tính độc lập tương đối đồng thời
tác giả có một số kiến nghị nhằm “tăng tính độc lập tương đối của hoạt động
thanh tra trong điều kiện cải cách hành chính hiện nay”. Tuy nhiên dưới góc độ
nghiên cứu nên bài viết chưa đi sâu về mặt lý luận, không sử dụng thực tiễn để
phân tích làm nổi bật tính độc lập của hoạt động thanh tra, bên cạnh đó các kiến
nghị của tác giả cơ bản đã được Luật Thanh tra năm 2010 sửa đổi, bổ sung.


7

Tóm lại: Phần lớn các công trình, bài viết trên chủ yếu chỉ tập trung nêu
và diễn giải các quy định của pháp luật hiện hành (Pháp lệnh Thanh tra năm
1990 và Luật Thanh tra năm 2004) về tổ chức và hoạt động thanh tra hoặc có đề
cập đến tính độc lập của hoạt động thanh tra nhưng chỉ gói gọn trong một phần

nhỏ của công trình hay chỉ là những bài viết ngắn. Chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý
hành chính nhà nước một cách toàn diện.
3- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Ở Việt Nam hiện nay, Thanh tra bao gồm thanh tra nhà nước và thanh tra
nhân dân. Hoạt động thanh tra chủ yếu được thực hiện bởi bộ máy thanh tra nhà
nước. Thanh tra nhà nước có bộ máy từ trung ương đến địa phương, với phương
thức hoạt động đặc thù do pháp luật quy định, vì vậy vai trò thanh tra nhà nước
đối với xã hội nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng đặc
biệt quan trọng. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các
qui định pháp luật nhằm bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra nhà
nước hiện hành mà chủ yếu là Luật Thanh tra năm 2010, Luật Khiếu nại, tố cáo,
Luật Phòng, chống tham nhũng và các Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính
phủ qua đó làm nổi bật tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý hành
chính nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu có tham khảo những quy
định về thanh tra qua các thời kỳ và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
đồng thời có mở rộng nghiên cứu một số vấn đề có liên quan để làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu của luận văn.
Về thực tiễn, trên cơ sở các đánh giá chung về những hạn chế qua thời
gian thực hiện Luật Thanh tra năm 2004 của Thanh tra Chính phủ (về bảo đảm
tính độc lập của hoạt động thanh tra), tác giả liên hệ, đánh giá, phân tích cụ thể
tình hình hoạt động thanh tra trên địa bàn tỉnh Bình Định – địa phương mà tác


8

giả đang công tác, trong thời gian thực hiện Luật Thanh tra 2004 đối với các nội
dung mà hiện nay Luật Thanh tra 2010 kế thừa. Đồng thời đưa ra quan điểm đối
với những nội dung mới của Luật Thanh tra 2010 liên quan đến tính độc lập của
hoạt động thanh tra.

4- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp triết học Mác- Lê nin:
- Phương pháp duy vật biện chứng nhằm dẫn dắt nội dung luận văn theo
hướng đi từ lý luận đến thực tiễn (tại tỉnh Bình Định) và qua thực tiễn, đánh giá,
kiến nghị để bổ sung, sửa đổi một số quy định của pháp luật, qua đó làm phong
phú thêm cơ sở lý luận về tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý
hành chính nhà nước.
- Phương pháp lịch sử dùng để phân tích các quy định của pháp luật liên
quan đến tính độc lập của hoạt động thanh tra qua các giai đoạn lịch sử của Cách
mạng Việt Nam (từ năm 1945 đến nay), qua đó đánh giá sơ bộ để làm nổi bật
được quá trình phát triển của các chế định pháp luật một cách có hệ thống.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp sử dụng để tổng hợp và phân tích các
số liệu kết quả thanh tra của Thanh tra tỉnh Bình Định từ năm 2006 đến năm
2010, qua đó làm rõ những điểm phù hợp và chưa phù hợp của các quy định
pháp luật trên thực tiễn nhằm đảm bảo tính độc lập của hoạt động thanh tra.
- Phương pháp so sánh nhằm so sánh các khái niệm về thanh tra, kiểm
tra, giám sát, kiểm toán; phân biệt hoạt động thanh tra với hoạt động xét xử của
Tòa án, so sánh các mô hình thanh tra nước ngoài với mô hình thanh tra của Việt
Nam qua đó làm rõ khái niệm về hoạt động thanh tra, đồng thời vận dụng một số
kinh nghiệm của nước ngoài để đề xuất, bổ sung sửa đổi một số quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm hơn nữa tính độc lập của hoạt động thanh tra trong thời
gian tới.


9

5- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn: Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo
đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính Nhà nước. Từ
đó đưa ra những phương hướng và giải pháp sát thực để hoàn thiện pháp luật về

thanh tra, về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng, trong đó
chủ yếu là các biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thanh tra
trong quản lý hành chính Nhà nước góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà
nước và công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện
nay.
- Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có các
nhiệm vụ sau đây:
+ Làm rõ quan niệm về hoạt động thanh tra và tính độc lập của hoạt động
thanh tra hiện nay.
+ Phân tích quá trình hình thành và phát triển về tính độc lập của hoạt
động thanh tra qua Hiến pháp và pháp luật Việt Nam các thời kỳ.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về tính độc lập của hoạt
động thanh tra ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó tìm ra những phương hướng
và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo tính độc lập của hoạt
động thanh tra trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
6- Những điểm mới của luận văn:
Luận văn là công trình bước đầu nghiên cứu vấn đề một cách có hệ thống
về tính độc lập của hoạt động thanh tra không chỉ phương diện lý luận mà còn từ
thực tiễn áp dụng pháp luật (tại một địa phương), do vậy luận văn có những đóng
góp mới sau đây:
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về tính độc lập của hoạt
động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước.


10

- Phân tích đánh giá có hệ thống thực trạng pháp luật quy định về tính
độc lập của hoạt động thanh tra.
- Đề xuất được một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần hoàn
thiện pháp luật nhằm bảo đảm tính độc lập của hoạt động thanh tra trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài Phần mở đầu và Phần Kết luận, Nội dung của Luận văn gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tính độc lập của hoạt động thanh tra trong
quản lý hành chính nhà nước
Chương 2: Thực trạng về tính độc lập của hoạt động thanh tra trong quản
lý hành chính nhà nước.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm tính độc lập của
hoạt động thanh tra trong quản lý hành chính nhà nước.


11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG
THANH TRA TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm về hoạt động thanh tra:
Tiến hành hoạt động quản lý trên bất kỳ lĩnh vực nào, với bất cứ phạm vi,
quy mô nào, chủ thể quản lý có thẩm quyền đều phải thực hiện cả ba loại công
việc sau:
+ Đề ra chủ trương, chính sách, nhiệm vụ, kế hoạch.
+ Tổ chức chỉ đạo thực hiện những chủ trương, chính sách và biện pháp đã
đề ra.
+ Thanh tra, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng
quản lý thuộc thẩm quyền.
Như vậy, thanh tra, kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu được trong
công tác quản lý. Bàn về vai trò của hoạt động này, Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh:
“1. Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ, nhân dân tốt hay xấu.
2. Mới biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của các cơ quan.
3. Mới biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của các mệnh lệnh, nghị quyết”.
Vai trò quan trọng của hoạt động thanh tra luôn được Đảng và Nhà nước

ta nhấn mạnh trong mọi thời kỳ, giai đoạn. Thông qua thanh tra, chủ thể quản lý
nắm bắt được tình hình nhiệm vụ được giao của các đối tượng quản lý thuộc
quyền, phát hiện những thiếu sót, yếu kém, sơ hở trong quản lý, từ đó đề ra các
biện pháp khắc phục, sửa chữa cũng như các biện pháp tác động phù hợp nhằm
phát huy, nhân rộng những điển hình tích cực.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thanh tra là hoạt động “điều tra, xem xét để
làm rõ sự việc” [37; tr.1529] và Từ điển pháp luật Anh –Việt thanh tra là “kiểm
soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra” [38; tr.203]. Với nghĩa này, khái
niệm “thanh tra” được trả lại theo nghĩa gốc từ Latinh (inspectare) có nghĩa là


12

“nhìn vào bên trong” chỉ hoạt động kiểm tra, xem xét từ bên ngoài vào một đối
tượng nhất định. Khái niệm này nhìn chung còn khá đơn giản dưới góc độ giải
thích từ ngữ, điểm hạn chế là chưa nhìn nhận dưới góc độ luật học, chưa nêu rõ
được chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra cũng như nội dung, mục đích của
hoạt động thanh tra.
Tiếp cận từ góc độ luật học, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của
Trường Đại học luật Hà Nội định nghĩa thanh tra là hoạt động “kiểm tra, giám
sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của cơ
quan, tổ chức, cá nhân và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan,
người có thẩm quyền” [36; tr.106]. Với nghĩa này, thanh tra bao hàm hai hoạt
động là kiểm tra và giám sát với nội dung, chủ thể thực hiện được xác định. Tuy
nhiên khái niệm chưa nêu được mục đích của hoạt động thanh tra, đồng thời việc
quy thanh tra vào hai hoạt động kiểm tra và giám sát là chưa khái quát được hết
các điểm đặc trưng của hoạt động thanh tra .
Luật Thanh tra năm 2004 và 2010 tuy không đưa ra khái niệm chung về
thanh tra nhưng lại đưa ra các khái niệm về từng hoạt động thanh tra cụ thể,
trong đó:

“Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có


13

thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc
quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
Các khái niệm về hoạt động thanh tra trong Luật Thanh tra đã đề cập trực
tiếp đến từng loại hình cụ thể của hoạt động thanh tra, nêu khái quát được nội
dung, chủ thể thực hiện của từng loại hình thanh tra. Tuy nhiên chưa đưa ra được
một khái niệm chung thống nhất và cũng chưa làm nổi bật được mục đích của
hoạt động thanh tra.
Tóm lại: Những khái niệm về thanh tra nêu trên, do đứng dưới góc nhìn
khác nhau nên mặc dù có khái niệm đã đi vào bản chất của thanh tra và hoạt
động thanh tra nhưng vẫn chưa nêu được một cách toàn diện về thanh tra. Căn cứ
vào tính chất, nội dung, mục đích, trình tự tiến hành và chủ thể thực hiện, có thể
thấy khái niệm về thanh tra trong Giáo trình Luật thanh tra và giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Trường Đại học Luật Hà Nội là khá cụ thể và đầy đủ. Theo đó:
“thanh tra là hoạt động chuyên trách do bộ máy thanh tra đảm nhiệm có nội
dung là việc kiểm tra, xem xét, đánh giá, kết luận chính thức về việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ quan, tổ chức, cá nhân

trong quản lý hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp
luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước” [33; tr.35]
Nhìn nhận từ góc độ quản lý hành chính nhà nước, thanh tra là một loại
hình hoạt động có các đặc trưng cơ bản sau:
Một là: Thanh tra là hoạt động mang tính chuyên trách, chủ yếu do cơ
quan thanh tra nhà nước thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đảm nhiệm.
Để tiến hành hiệu quả hoạt động kiểm tra, xem xét việc thực hiện các
nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, một bộ máy chuyên trách đảm nhiệm


14

công tác thanh tra đã được thiết kế, thành lập và đi vào hoạt động trên cơ sở các
quy định pháp luật về thanh tra.
Cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm cơ quan thanh tra được thành lập
theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo
ngành, lĩnh vực để đảm nhiệm hoạt động thanh tra nhà nước. Các cơ quan này tổ
chức thành một hệ thống trực thuộc bộ máy hành chính nhà nước và chịu sự chỉ
đạo trực tiếp về tổ chức, hoạt động của bộ máy này. Do được phân công thực
hiện chuyên trách hoạt động thanh tra nên các cơ quan thanh tra nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù, phù hợp với tính chất, công
việc mà nó đảm nhiệm. Cũng xuất phát từ điều này, Nhà nước đã trao cho cơ
quan thanh tra nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt đảm bảo cho nó
hoàn thành một cách tốt nhất những nhiệm vụ được giao.
Hai là: Nội dung của hoạt động thanh tra là kiểm tra các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch
nhà nước, trên cơ sở đó đưa ra kết luận chính thức về vụ việc thanh tra cũng như
những kiến nghị, biện pháp xử lý phù hợp với quyền hạn của bộ máy thanh tra
theo quy định của pháp luật.

Xét về nội dung, thanh tra là hoạt động bao hàm công việc kiểm tra. Công
việc này do một bộ máy chuyên trách (bộ máy thanh tra) đảm nhiệm, nhằm vào
đối tượng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước với mục đích góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động thanh tra được tiến hành dựa
trên những căn cứ do pháp luật quy định. Những căn cứ này xác lập cơ sở cho
việc thực hiện hoạt động thanh tra đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
trong việc thực hiện pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của Nhà nước. Thông qua
hoạt động này, cơ quan thanh tra sẽ phát hiện ra những việc làm trái pháp luật


15

(bất hợp pháp), thiếu đúng đắn, không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn quản lý
hành chính nhà nước (bất hợp lý) của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trên cơ sở
đó, cơ quan thanh tra sẽ áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp trong khuôn khổ,
quyền hạn được pháp luật cho phép nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật, trật tự
quản lý hành chính nhà nước đã bị xâm hại, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu
lực của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Ba là: Hoạt động thanh tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục, dưới
hình thức do pháp luật quy định.
Là hoạt động nhằm mục đích đảm bảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện đầy đủ, đúng đắn chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch đặt ra
trong quản lý hành chính nhà nước, cho nên khi tiến hành thanh tra, pháp luật đòi
hỏi cơ quan thanh tra phải tuân thủ đầy đủ những quy định về trình tự, thủ tục
cũng như hình thức. Những quy định này góp phần đảm bảo cho công tác thanh
tra tiến hành theo nguyên tắc khách quan, công khai, dân chủ và đúng pháp luật.
Ba đặc trưng cơ bản nêu trên của thanh tra làm nên tính đặc thù, là cơ sở
để phân biệt hoạt động thanh tra với các hoạt động khác có tính chất tương đồng
như hoạt động giám sát, hoạt động kiểm tra, hoạt động kiểm toán…

1.2. Phân biệt hoạt động thanh tra với hoạt động giám sát, kiểm tra,
kiểm toán:
Xuất phát từ nguyên tắc mang tính bản chất của nhà nước ta là xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân ủy quyền cho các cơ quan nhà
nước thực hiện quyền lực của mình. Quyền lực nhà nước là thống nhất, không
phân chia nhưng có phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Trong cơ chế hoạt động của mình, các cơ quan hành
chính nhà nước ngoài việc thường xuyên tự kiểm tra mình còn phải chịu sự giám


16

sát, kiểm tra, kiểm toán của các cơ quan khác trong và ngoài hệ thống chính trị.
Các hoạt động này tuy khác nhau nhưng cũng có nhiều nét tương đồng. Vì vậy,
việc phân biệt khái niệm cũng như xác định ranh giới giữa hoạt động thanh tra
với hoạt động giám sát, kiểm tra, kiểm toán là vấn đề hết sức quan trọng.
1.2.1- Phân biệt thanh tra với giám sát:
Giám sát là khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực
nhà nước, các cơ quan tư pháp, các tổ chức xã hội và mọi công dân nhằm đảm
bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Hoạt động thanh tra khác hoạt động giám sát ở một số điểm sau:
+ Chủ thể thanh tra có phạm vi hẹp hơn và mang tính chuyên trách chủ
yếu được thực hiện bởi các cơ quan thanh tra và cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra. Trong khi đó chủ thể của hoạt động giám sát bao gồm hệ
thống cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan tư pháp, các tổ chức xã hội và
toàn thể nhân dân.
+ Đối tượng thanh tra chủ yếu là các cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước và chịu trách nhiệm thực hiện việc thanh tra đối với chính
hệ thống cơ quan này. Trái lại đối tượng bị giám sát không cùng nằm trong cùng

một hệ thống, hay nói cách khác, cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát
không nằm trong một hệ thống trực thuộc nhau theo chiều dọc.
+ Hoạt động thanh tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định và mang tính nghiệp vụ cao. Hoạt động giám sát được thực
hiện bằng nhiều hình thức khác nhau và được thực hiện thường xuyên, liên tục
không cần phải thông báo hoặc ra quyết định như hoạt động thanh tra.
+ Kết quả thanh tra được thể hiện bằng Kết luận thanh tra có hiệu lực về
mặt pháp lý, còn kết quả giám sát thường thể hiện bằng Báo cáo, nội dung chủ
yếu là các kiến nghị đối với các cơ quan chức năng.


17

1.2.2- Phân biệt thanh tra với kiểm tra:
Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ
quan nhà nước cấp dưới (trong mối quan hệ trực thuộc) nhằm xem xét, đánh giá
mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi thấy cần thiết hoặc trong trường hợp cần
kiểm tra một vấn đề cụ thể nào đó. Vì vậy hoạt động kiểm tra khác hoạt động
thanh tra ở chỗ:
+ Chủ thể tiến hành thanh tra là bộ máy thanh tra - bộ máy chuyên trách,
được tổ chức và hoạt động tương đối độc lập với đối tượng thanh tra. Sự độc lập
này đảm bảo tính chất khách quan, vô tư trong hoạt động của các cơ quan thanh
tra. Trong khi đó, kiểm tra là hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước tiến hành đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền và nó có thể là hoạt
động tự kiểm tra đối với công việc của chính mình.
+ Kiểm tra là hoạt động có tính chất thường xuyên, liên tục đối với mọi
hoạt động quản lý kể cả những hoạt động quản lý có tính chất đơn giản diễn ra
hàng ngày nhằm phát hiện những yếu kém trong công tác quản lý, kịp thời có
những biện pháp khắc phục, sửa chữa. Trong khi đó, hoạt động thanh tra hướng
vào những vụ việc có tính chất phức tạp hơn, với yêu cầu phải kiểm tra một cách

tỉ mỉ, toàn diện và sâu sắc hơn đối với một vấn đề, hoạt động hay lĩnh vực nào đó
của quản lý hành chính nhà nước.
+ Hoạt động thanh tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định và thông thường nó đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công
sức hơn so với hoạt động kiểm tra.
+ Kết quả kiểm tra có thể dẫn đến việc cơ quan cấp trên hoặc thủ trưởng
cơ quan áp dụng trực tiếp các biện pháp xử lý kỷ luật, bồi thường thiệt hại hoặc
động viên khen thưởng về vật chất hoặc tinh thần. Kết quả thanh tra cũng dẫn
đến việc xử lý nhưng ngoài các biện pháp xử lý trực tiếp của thanh tra chuyên


18

ngành thì hầu hết là những yêu cầu các cơ quan chức năng có thẩm quyền để xử
lý (xử lý gián tiếp).
1.2.2- Phân biệt thanh tra với kiểm toán nhà nước:
Hoạt động kiểm toán nhà nước là hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà
nước kiểm tra các báo cáo, quyết toán của cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách
nhà nước.
Hoạt động kiểm toán nhà nước và hoạt động thanh tra tài chính có nhiều
điểm giống nhau. Tuy nhiên hai hoạt động này do hai cơ quan độc lập tiến hành
nên chúng có những điểm khác biệt sau:
+ Kiểm toán nhà nước là hoạt động nhằm xác định tính đúng đắn, hợp
pháp của tất cả các báo cáo quyết toán thực hiện ngân sách sau một thời kỳ thực
hiện của các cơ quan, đơn vị só sử dụng ngân sách nhà nước. Thanh tra là hoạt
động được tiến hành trên mọi lĩnh vực của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, trong đó có lĩnh vực tài chính – ngân sách. Việc xem xét các báo cáo quyết
toán của các cơ quan, đơn vị là đối tượng hoạt động thanh tra chỉ được đặt ra
trong trường hợp cần thiết cho việc kết luận của cơ quan thanh tra.
+ Hoạt động thanh tra tài chính – ngân sách có phạm vi rộng hơn so với

hoạt động kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước chỉ được tiến hành đối với
hoạt động thu chi ngân sách đã được thực hiện thông qua các báo cáo quyết toán.
Trong khi đó thanh tra có thể thực hiện đối với các hoạt động thu chi ngân sách
đã thực hiện, đang thực hiện và các hoạt động tài chính có liên quan đến các dự
án sẽ thực hiện trong tương lai.
1.3. Quan niệm, vai trò của tính độc lập của hoạt động thanh tra:
1.3.1. Quan niệm:
Thanh tra là một loại hoạt động quản lý nhà nước nhưng lại có những đặc
điểm khác với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy quản lý nhà


19

nước ở chỗ hoạt động đó mang tính độc lập tương đối. Đây là đặc điểm vốn có,
xuất phát từ bản chất của thanh tra, ngoài khía cạnh mang tính thứ bậc hành
chính như các cơ quan quản lý hành chính nhà nước khác thể hiện trong tổ chức
và hoạt động, thanh tra còn có nhiệm vụ xem xét, đánh giá một cách khách quan
“việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân”.
Như vậy, bên cạnh chức năng quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực
thanh tra, Thanh tra còn được quy định là tổ chức độc lập, tựa hồ như người phán
xét đúng, sai trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của các chủ thể quản lý.
Tính độc lập của hoạt động thanh tra được thể hiện trên các mặt:
- Chỉ tuân theo pháp luật .
- Tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội
theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định.
- Khách quan trong quá trình thanh tra: yếu tố này được cấu trúc từ tính
độc lập của thanh tra. Mặc dù bản thân hoạt động thanh tra thông qua con người,
có yếu tố chủ quan nhưng xét theo tính chất, mục đích của quản lý chứ không
phải của một cá nhân hay tập thể nào, hoạt động thanh tra mang tính khách quan

phải được thể hiện ở tất cả các giai đoạn từ việc phân tích ưu, khuyết điểm, lập
chương trình đến việc đề xuất, kiến nghị với chủ thể quản lý.
- Ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo quy định của pháp luật
về kết quả của hoạt động thanh tra; chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của
mình.
Nhưng tính độc lập của hoạt động thanh tra chỉ tương đối mà thôi, bởi vì
sự thống nhất của quá trình quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi phải liên kết
những hoạt động ấy lại với nhau. Đối với hoạt động thanh tra, sự liên kết ở đây
thể hiện ở chỗ các cơ quan thực hiện công việc thanh tra nhất thiết bị lôi cuốn


20

vào quỹ đạo quản lý của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm
quyền. TS. Phạm Tuấn Khải có nhận xét một cách có hình tượng rằng: “hoạt
động thanh tra đóng vai trò là một trở ngại chi phối toàn bộ quá trình thực hiện
những yêu cầu quản lý đã đề ra”.[21; tr.42]
Để khắc phục những quan niệm trên, trong hoạt động thanh tra đòi hỏi các
cơ quan thanh tra phải xuất phát từ thực tế, căn cứ vào pháp luật và chính sách
hiện hành, đặt sự vật, hiện tượng, việc làm trong sự phát triển biện chứng với
quan điểm khoa học lịch sử.
Khi xác định tính độc lập là một thuộc tính bản chất của hoạt động thanh
tra, cần phải hiểu đây là quan niệm mang tính tương đối, không nên cho rằng
tính độc lập của thanh tra là hoàn toàn biệt lập, tách rời quản lý hành chính nhà
nước. Khi nói đến tính độc lập của thanh tra cần phải xem xét sự độc lập đó đến
đâu; độc lập với chủ thể, đối tượng nào; sự độc lập đó thể hiện như thế nào và
giới hạn của sự độc lập đó. Hiện nay ở nước ta còn có những quan niệm khác
nhau về tính độc lập của thanh tra:
Quan niệm thứ nhất cho rằng, tính độc lập của thanh tra đề cập ở hai khía
cạnh: Độc lập về tổ chức và về hoạt động. Tuy vẫn nằm trong bộ máy hành

chính nhưng cơ quan thanh tra phải được tổ chức độc lập theo ngành dọc từ
trung ương tới địa phương; Thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp trên trực tiếp bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp dưới trực tiếp.
Trong hoạt động, cơ quan thanh tra độc lập trong việc ra quyết định thanh tra;
kết luận thanh tra và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan thanh tra.
Với quan niệm trên, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định tổ chức thanh tra
nhà nước theo ngành dọc; và nguyên tắc trong hoạt động thanh tra “ chỉ tuân
theo pháp luật”. Với quan niệm và quy định vậy thì hoạt động thanh tra đã tách
ly hoàn toàn với chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Tuy bảo đảm được tính


×