Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Chức năng giáo dục của gia đình theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam và thực hiện trong xã hội hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.47 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ HUYỀN TRANG

CHỨC NĂNG GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH THEO
PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
VÀ THỰC HIỆN TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Thị Mai Hiên

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn, em đã được PGS.
TS. Hà Thị Mai Hiên hướng dẫn tận tình, động viên và quan tâm sâu sắc. Em
xin được bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này.
Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Luật Dân sự và khoa Sau đại học trường Đại học Luật Hà Nội cùng gia đình,
bạn bè đã luôn khuyến khích, tạo điều kiện để em hoàn thành tốt luận văn của
mình.



1
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1

Luật Hôn nhân và gia đình

Luật HN&GĐ

2

Nhà xuất bản

Nxb

3

Trung học cơ sở

THCS

4

Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm

BLDS 2005

2005



2

MỤC LỤC
3
Lời mở đầu
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ CHỨC NĂNG GIÁO
DỤC CỦA GIA ĐÌNH
8
1.1. Khái niệm chức năng giáo dục của gia đình và vấn đề điều chỉnh của pháp
luật
1.2. Phương pháp, hình thức thể hiện chức năng giáo dục của gia đình trong
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
1.3. Các yếu tố tác động tới việc thực hiện chức năng giáo dục trong gia đình

16
19

1.4. Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và pháp luật một số nước về điều
chỉnh chức năng giáo dục của gia đình

24

8

Chương 2: NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU CHỈNH
VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH
38
2.1. Điều chỉnh thực hiện chức năng giáo dục của gia đình trong Hiến pháp và
Bộ Luật dân sự

2.2. Điều chỉnh thực hiện chức năng giáo dục của gia đình trong Luật Hôn nhân
và gia đình 2000
2.3. Điều chỉnh thực hiện chức năng giáo dục của gia đình trong một số văn bản
pháp luật khác
2.4. Thực trạng của pháp luật điều chỉnh về chức năng giáo dục của gia đình

38
41
46
50

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁO DỤC CỦA GIA
ĐÌNH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN TRONG XÃ HỘI
HIỆN ĐẠI
3.1. Thực tiễn thực hiện chức năng giáo dục của gia đình ở nước ta trong giai
đọan hiện nay
3.2. Đảm bảo thực hiện chức năng giáo dục của gia đình trong giai đoạn hiện
nay
3.3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo chức năng giáo dục của
gia đình
Kết luận
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

53
60
69
71
73



3

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với mỗi người, gia đình là nơi để lại nhiều dấu ấn nhất. Dù là
những kỷ niệm vui hay buồn thì những ảnh hưởng của gia đình luôn theo
mỗi chúng ta trong suốt cuộc đời. Trong môi trường gia đình, cha mẹ
chính là những thầy đầu tiên dạy ta điều hay, lẽ phải. Sự giáo dục đó là
bước khởi đầu và mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách của mỗi con người.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận những thành
quả về kinh tế, khoa học, công nghệ trong xã hội cùng những đóng góp
tích cực của chúng tới cuộc sống hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những
thuận lợi trong điều kiện sống của xã hội hiện đại, vẫn có một thực tế là sự
xuất hiện không ngừng của nhiều tệ nạn, tình trạng sa sút đạo đức, lối
sống xa lạ với các giá trị truyền thống dân tộc... và làm nên thực trạng đó
là sự góp mặt không nhỏ của những cá nhân ở lứa tuổi thanh thiếu niên.
Điều này đã và đang làm các bậc phụ huynh rất lo lắng và hiện có nhiều
gia đình đang rơi vào tình trạng bế tắc.
Tìm hiểu nguyên nhân về các hiện tượng trên đây, có thể thấy một
phần thuộc về việc trách nhiệm của gia đình trong việc trông nom, giáo
dục con cái. Bởi cách giáo dục, nuôi dưỡng sai lạc có thể để lại những hậu
quả đáng tiếc cho cả đời người, ngược lại, cách giáo dục và nuôi dưỡng
đúng đắn chính là nền tảng của hạnh phúc an vui cho mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội. Điều đó đã cho ta thấy ý nghĩa sâu sắc của việc giáo dục
tại gia đình. Việc giáo dục tại gia đình cũng chính là một trong các chức
năng cơ bản của gia đình ở mọi xã hội, mọi thời đại. Thực hiện có hiệu
quả chức năng giáo dục của gia đình, chúng ta sẽ khắc phục được phần
nào những lo lắng, vướng mắc, bế tắc của các bậc phụ huynh; đồng thời sẽ



4
tạo dựng được những công dân có đạo đức, phẩm chất tốt đóng góp cho sự
phát triển lâu dài của xã hội.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chức năng giáo dục của gia đình
là rất cần thiết. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra những giải pháp tiếp
tục hoàn thiện pháp luật HN&GĐ hiện hành nhằm giải quyết những
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Điều này có ý nghĩa quan
trọng về mặt lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Với những lý do đưa ra trên đây tôi lựa chọn đề tài "Chức năng
giáo dục của gia đình theo pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và
thực hiện trong xã hội hiện đại" làm Luận văn tốt nghiệp cao học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như:
Xã hội học, Tâm lí học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Luật học… Ở mỗi
ngành, gia đình được nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Về vấn đề
giáo dục trong gia đình, có một số công trình nghiên cứu như:
- “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”, Trung tâm nghiên cứu về gia
đình và phụ nữ - Đề tài KX-07-09, Nxb Khoa học xã hội, 1994.
- “Giáo dục gia đình”, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Dự án đào tạo giảng
viên THCS, Nxb Đại học sư phạm, 2007.
- “Đổi mới việc thực hiện chức năng giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ
trong gia đình nông dân Việt Nam hiện nay” (Luận án Tiến sĩ Triết
học), Dương Văn Bông, 2003.
- “Vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi THCS
ở Hà Nội hiện nay” (Luận án Tiến sĩ Xã hội học), Nguyễn Thị Tố
Uyên, 2010…
Các công trình nghiên cứu trên đây đề cập tới các nội dung như:

chức năng giáo dục gia đình, nội dung, phương pháp giáo dục gia đình,


5
điều kiện giải pháp nhằm phát huy chức năng giáo dục gia đình… Tuy
nhiên, việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề liên quan tới chức năng giáo
dục của gia đình chỉ trong một phạm vi nhất định như: lứa tuổi THCS
hoặc trong gia đình nông dân; đồng thời các giải pháp mà các tác giả đưa
ra đều mang tính xã hội theo đặc trưng của chuyên ngành, chứ không
hướng tới lĩnh vực pháp luật. Dưới góc độ Luật học, có thể thấy chưa có
công trình nào nghiên cứu về sự phát triển của các quy phạm pháp luật về
chức năng giáo dục của gia đình theo pháp luật HN&GĐ và tình hình thực
hiện chức năng này ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích:
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống những
nội dung cơ bản về chức năng giáo dục của gia đình, các quy định về việc
thực hiện chức năng giáo dục của gia đình trong pháp luật Việt Nam hiện
hành, xác định những thành tựu và bất cập trong quy định của pháp luật và
thực tiễn thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của pháp luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam về các quy định liên quan tới chức năng
giáo dục trong gia đình, đồng thời làm sáng tỏ bản chất của việc thực hiện
chức năng giáo dục của gia đình trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm pháp luật
trong việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình trên thực tiễn. Trên
cơ sở phân tích những thiếu sót, khuyết điểm và những vướng mắc của
việc áp dụng pháp luật HN&GĐ, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm

góp phần nâng cao sự nhận thức và tăng cường áp dụng thống nhất pháp
luật.


6
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc thực hiện
chức năng giáo dục của gia đình theo luật HN&GĐ Việt Nam. Cụ thể là
nghiên cứu các vấn đề như: Khái niệm gia đình và chức năng giáo dục của
gia đình, các yếu tố tác động tới việc thực hiện chức năng giáo dục của gia
đình, Luật HN&GĐ Việt Nam qua các giai đoạn, các văn bản liên quan tới
việc điều chỉnh chức năng giáo dục của gia đình.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những quy định về việc thực hiện chức năng
giáo dục của gia đình theo luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành. Đồng thời,
luận văn còn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Hôn
nhân và gia đình về việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình trong
giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về Nhà nước,
pháp luật, giáo dục, những thành tựu của khoa học, triết học, lịch sử, các
học thuyết chính trị pháp lý, xã hội học.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như phương pháp hệ thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, so sánh, tổng
hợp.
5. Những điểm mới của luận văn
Thứ nhất, luận văn đã tiếp cận chức năng giáo dục của gia đình
dưới góc độ liên ngành xã hội học – luật học. Bước đầu, luận văn đã làm

rõ cơ sở pháp lý về chức năng giáo dục của gia đình. Từ đó, đưa ra khái
niệm chức năng giáo dục của gia đình theo những quy định của pháp luật
Hôn nhân và gia đình.


7
Thứ hai, luận văn đã phân tích và làm rõ các hình thức, phương
pháp thể hiện chức năng giáo dục của gia đình trong pháp luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam. Cùng với đó, luận văn đã đánh giá thực trạng của pháp
luật hiện hành về điều chỉnh việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.
Thứ ba, bên cạnh việc tìm hiểu các quy định của pháp luật, luận văn còn
đi vào tìm hiểu thực tiễn của việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình
trong giai đoạn hiện nay, luận văn đã chỉ ra những thành công và những tồn tại
trong thực hiện chức năng giáo dục của gia đình hiện đại. Từ đó, có những đề
xuất về phương hướng hoàn thiện pháp luật trong giai đoạn tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn nghiên cứu có hệ thống những nội dung cơ bản
của chức năng giáo dục của gia đình, các quy định điều chỉnh việc thực hiện
chức năng giáo dục của gia đình trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam, đặc biệt là
pháp luật hiện hành.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn vấn đề
giáo dục trong gia đình, đặc biệt trong xã hội hiện nay, từ đó góp phần nâng cao
hiệu quả của việc xây dựng gia đình văn hóa, tạo điều kiện để cá nhân phát triển
và hạn chế sự gia tăng tội phạm vị thành niên ở nước ta.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc
nghiên cứu, học tập tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành luật ở
nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp lý về chức năng giáo dục của gia đình
Chương 2: Nội dung của pháp luật hiện hành về điều chỉnh việc thực hiện chức
năng giáo dục của gia đình
Chương 3: Thực tiễn thực hiện chức năng giáo dục của gia đình và giải pháp
nhằm đảm bảo thực hiện trong xã hội hiện đại


8

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ CHỨC NĂNG
GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH
1.1. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH VÀ
VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm chức năng giáo dục của gia đình
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trong
mỗi ngành, khái niệm về gia đình không đồng nhất mà nhấn mạnh ở
những khía cạnh khác nhau. Dưới góc độ xã hội, “gia đình là tập hợp
những người cùng chung sống thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội,
gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ
chồng, cha mẹ và con cái” [14, tr. 281]. Có thể thấy, khái niệm này nhấn mạnh
tới sự quy tụ của một nhóm người (cùng sống chung) và giữa họ có mối
quan hệ nhất định với nhau về hôn nhân hoặc huyết thống. Dưới góc độ
tâm lý, “gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội gồm hai hoặc nhiều cá nhân
cùng tiến tới chia sẻ chung những niềm tin và những giá trị” [12, tr. 515]. Qua
khái niệm này, gia đình được nhấn mạnh tới khía cạnh tình cảm – tâm lý,
coi gia đình chính là nơi chia sẻ những tâm tư, tình cảm của mỗi người. Ở
đây, vấn đề huyết thống, hôn nhân không được đặt ra.
Trong luật học, khái niệm gia đình được ghi nhận trong luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, theo đó, “gia đình là tập hợp những người

gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thông hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy
định của luật này” (Khoản 10, Điều 4). Như vậy có thể thấy, dưới góc độ
luật học, gia đình được nhấn mạnh tới nguồn gốc hình thành quan hệ gia
đình (từ hôn nhân, huyết thống hay nuôi dưỡng); đồng thời khái niệm chú


9
ý tới quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình với
nhau.
Từ những khái niệm trên đây, có thể thấy, gia đình mặc dù được
nhìn nhận, nghiên cứu, đánh giá dưới các góc độ khác nhau, trong các
ngành khoa học khác nhau nhưng có một điều không thể phủ nhận đó là
những giá trị mà gia đình mang lại đối với mỗi cá nhân và xã hội.
* Khái niệm chức năng của gia đình
Theo nghĩa rộng, chức năng được hiểu là “nhiệm vụ, công dụng và
vai trò” [15, tr.314]. Lịch sử phát triển các hình thức gia đình chỉ ra rằng, ở bất
cứ một thời đại nào, gia đình cũng thực hiện các chức năng (nhiệm vụ) cơ
bản: chức năng kinh tế, chức năng giáo dục, chức năng tái sản xuất xã hội
(chức năng sinh sản), chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa các
thành viên trong gia đình.
Chức năng kinh tế: là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình
nhằm tạo ra của cải vật chất, đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có,
từ đó góp phần làm cho đời sống của mỗi gia đình phồn vinh, hạnh phúc,
đất nước giàu mạnh; Chức năng giáo dục của gia đình: đây là chức năng
xã hội quan trọng của gia đình nhằm tạo ra người con hiếu thảo, người
công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường học đầu tiên, cha mẹ là
những người thầy cô giáo đầu tiên trong cuộc đời của mỗi người. Do đó,
nội dung của giáo dục gia đình cũng phải chú ý giáo dục toàn diện bao
gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, ý thức cộng đồng, cách

cư xử…; Chức năng tái sản xuất ra con người: nhằm duy trì nòi giống và
cung cấp sức lao động cho xã hội. Việc thực hiện chức năng này trong chế
độ sản xuất mới vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội đồng
thời đáp ứng nhu cầu của bản thân con người mong muốn lưu truyền, nối
dõi những giá trị tốt đẹp ở các thế hệ sau; Chức năng thỏa mãn tâm sinh
lý, tình cảm của con người: đây là chức năng đảm bảo cho gia đình được
hạnh phúc, đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý của mỗi cá nhân vì trong cuộc


10
sống, mỗi người có những vấn đề riêng liên quan đến tâm sinh lý lứa tuổi,
giới tính, những thuận lợi, khó khăn... và họ mong muốn được chia sẻ,
được bộc lộ và giải quyết trước hết trong phạm vi gia đình.
Như vậy, qua việc tìm hiểu các chức năng của gia đình cho ta thấy
vai trò, sự tác động của gia đình đối với mỗi cá nhân và xã hội. Có thể
thấy, với các nội dung cơ bản trên đây, chức năng của gia đình mang các
đặc điểm như: các chức năng của gia đình gắn liền với các hình thức gia
đình trong lịch sử xã hội loài người; việc thực hiện các chức năng của gia
đình góp phần xây dựng một gia đình lý tưởng, ấm no, hạnh phúc; các
chức năng của gia đình tác động trực tiếp tới đời sống vật chất và tinh thần
của các thành viên trong gia đình…
Như chúng ta đã biết, mỗi chức năng của gia đình có một vị trí, vai
trò riêng. Không thể nói chức năng nào là quan trọng nhất bởi việc thực
hiện đầy đủ các chức năng của gia đình sẽ đáp ứng nhu cầu tự nhiên – xã
hội của mỗi thành viên trong gia đình, góp phần tạo nên sự cân bằng cho
mỗi gia đình và tham gia vào quá trình phát triển chung của xã hội.
* Khái niệm giáo dục
Giáo dục là “tác động có hệ thống tới sự phát triển tinh thần thể chất
của con người để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra”


[15, tr. 627]

.Từ khái niệm này, có thể thấy, giáo dục là một

phương tiện thực hiện các mục tiêu xã hội. Việt Nam là một trong nhiều
quốc gia trên thế giới coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp
chung của toàn xã hội. Trong mỗi gia đình, giáo dục là quyền và nghĩa vụ
của mỗi thành viên. Giáo dục tại gia đình là bước đầu tiên và quan trọng
để hình thành nhân cách, đồng thời tạo cơ sở ban đầu cho quá trình tiếp
nhận sự giáo dục tại nhà trường và xã hội của mỗi cá nhân.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, giáo dục có vị trí, vai trò khác nhau đối với
mỗi cá nhân và xã hội. Nhưng nhìn chung, có thể thấy giáo dục là một lĩnh
vực luôn được Nhà nước coi trọng, được chú ý đầu tư. Trước đây, do ảnh


11
hưởng của lễ giáo phong kiến, trong xã hội rất coi nặng việc giáo dục tại
gia đình theo các quy tắc, chuẩn mực: “tam cương”, “ngũ thường”, “công
dung ngôn hạnh”… Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam
khinh nữ nên việc tiếp cận quyền được giáo dục, được học tập còn hạn chế
đối với nữ giới. Ngày nay, quyền được hưởng sự giáo dục là bình đẳng
giữa các công dân trong xã hội, không phân biệt dân tộc, giới tính, văn
hóa…Điều này tạo điều kiện để mỗi chúng ta có thể tiếp cận tốt hơn với
những thành tựu của nền giáo dục hiện đại.
Khái niệm giáo dục cho thấy sự tác động một cách toàn diện của
việc giáo dục tới mỗi cá nhân, về cả mặt vật chất và tinh thần. Bởi vậy, ở
bất cứ môi trường nào, khi thực hiện hoạt động giáo dục, chúng ta đều cần
quan tâm tới chủ thể, hình thức, phương pháp thực hiện nhằm nâng cao
hiệu quả và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ những thiếu sót trong

quá trình thực hiện chức năng này.
* Khái niệm chức năng giáo dục của gia đình
Có thể thấy ở mỗi thời kỳ, việc thực hiện các chức năng của gia
đình có những nét riêng. Chức năng giáo dục của gia đình cũng mang đặc
điểm này. Có thể thấy, sự nhìn nhận và cách thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình ở từng thời điểm không hoàn toàn giống nhau. Trước đây,
việc giáo dục trong gia đình thường chỉ diễn ra một chiều (từ phía những
người đi trước đối với thế hệ đi sau); nội dung giáo dục bị ảnh hưởng lớn
bởi tư tưởng Nho giáo; các kiến thức dùng để giáo dục không phong phú,
thường nặng về giáo dục lối sống trong gia đình mà không chú trọng tới
các tri thức khoa học – xã hội. Ngày nay, việc thực hiện chức năng giáo
dục trong gia đình đã có những khác biệt về nội dung, phương pháp và
mục tiêu hướng tới. Có thể thấy sự mở rộng các lĩnh vực được giáo dục tại
gia đình; sự đa dạng, phong phú của nhiều phương pháp giáo dục và yêu
cầu ngày càng cao của xã hội về sự phát triển của một cá nhân sau khi
được giáo dục tại gia đình, nhà trường…


12
Những khác biệt trong việc thực hiện chức năng của gia đình ở mỗi giai
đoạn là do những thay đổi của hoàn cảnh kinh tế xã hội. Có thể thấy điều
này qua việc thực hiện chức năng giáo dục trong gia đình ở giai đoạn hiện
nay không chỉ giới hạn trong việc giáo dục về mặt đạo đức mà ngày càng
được mở rộng phạm vi về các mặt văn hóa, xã hội. Trong gia đình, các bậc
phụ huynh không chỉ uốn nắn, chỉ bảo con về mặt cách cư xử, lời ăn tiếng
nói mà ngày càng có nhiều phụ huynh thực hiện việc dạy dỗ, kèm cặp con
học văn hóa khi con ở giai đoạn mới tới trường. Qua đó ta thấy, những đặc
điểm của chức năng giáo dục nói chung và chức năng giáo dục trong gia
đình không phải luôn cố định mà có sự linh hoạt, phù hợp với từng giai
đoạn, từng xã hội cụ thể.

Như vậy, qua tìm hiểu các khái niệm trên đây, dưới góc độ luật học,
khái niệm chức năng giáo dục của gia đình có thể được hiểu là nhiệm vụ,
vai trò của gia đình thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các
thành viên nhằm hoàn thiện nhân cách, năng lực của mỗi cá nhân là
thành viên của gia đình.
Từ khái niệm chức năng giáo dục của gia đình, ta thấy những đặc
điểm về mặt chủ thể, cách thức, mục tiêu hướng tới của việc thực hiện
chức năng này… Để thấy rõ những đặc điểm trong chức năng giáo dục
của gia đình, chúng ta có thể so sánh với quá trình giáo dục tại nhà trường.
Thứ nhất, có thể thấy, về mặt chủ thể, thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình là các cá nhân có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng, đó thường là những người sống chung một mái nhà và việc tạo
dựng quan hệ gia đình dựa trên các căn cứ pháp lý. Trong khi đó, chủ thể
thực hiện việc giáo dục ở nhà trường là các giáo viên đối với các học sinh
của mình - đó thường là những chủ thể không có mối quan hệ gia đình
(hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng).
Bên cạnh đó, cần phải nói thêm rằng, hầu hết các chủ thể trong gia
đình hiện đại đều tham gia thực hiện chức năng giáo dục, trong đó: người


13
lớn tuổi bảo ban người trẻ, thế hệ đi trước bảo ban thế hệ đi sau, người có
kiến thức chỉ bảo người không có kiến thức… Bởi vậy, có thể thấy sự
tham gia của cả ông, bà, vợ, chồng, anh, chị, em… trong hoạt động giáo
dục tại gia đình hiện nay.
Thứ hai, mục tiêu của việc thực hiện chức năng giáo dục trong gia
đình là nhằm định hướng, nâng cao nhận thức về mặt đạo đức, lối sống mà
không nhấn mạnh tới các kiến thức văn hóa như giáo dục tại nhà trường.
Tuy nhiên, trong giai đoạn con còn nhỏ, bố mẹ thường trực tiếp hướng dẫn
con học tập cùng với việc uốn nắn thói quen, nếp sống cho trẻ. Mặc dù

vậy, hoạt động này không được diễn ra thường xuyên, liên tục đến khi con
trưởng thành và không được coi là mục tiêu chính của gia đình. Việc học
tập, trau dồi thêm tri thức văn hóa của con trẻ thường được các phụ huynh
gửi gắm ở nhà trường và coi đó là chức năng, nhiệm vụ của hệ thống giáo
dục. Trong khi đó, tại trường học, học sinh được đào tạo một cách bài bản
theo khung chương trình được quy định sẵn. Mục tiêu giáo dục về văn
hóa, tri thức là mục tiêu chính trong nhà trường, tuy nhiên vấn đề giáo dục
đạo đức cũng không bị xem nhẹ.
Thứ ba,việc thực hiện chức năng giáo dục cũng không đơn thuần là
việc cha mẹ thực hiện nghĩa vụ đối với con trong việc giáo dục tại gia
đình, mà còn bao gồm trách nhiệm của con phải tiếp thu, thực hiện những
chỉ bảo đó vào cuộc sống. Do đó, ở đây, con cái cũng có nghĩa vụ góp
phần thực hiện chức năng giáo dục của gia đình. Trong gia đình, việc thực
hiện chức năng giáo dục được hiểu là sự bảo ban, chia sẻ các thông tin,
các kinh nghiệm để các thành viên trong gia đình vận dụng các kiến thức
đó vào trong cuộc sống. Chúng ta không nên hiểu theo nghĩa hẹp, sự giáo
dục phải theo một mô típ, một hình thức cụ thể, mà trong rất nhiều trường
hợp, sự giáo dục trong gia đình được diễn ra rất tế nhị, linh hoạt như một
cuộc đối thoại, chia sẻ… nhưng hiệu quả mà những hình thức giáo dục đó
thu được lại không nhỏ. Giáo dục nói chung và giáo dục tại gia đình


14
không nhất thiết phải dùng tới lời lẽ nghiêm trang, lên giọng, áp dụng các
hình phạt mà hiện nay việc thực hiện chức giáo dục đã được đa dạng hơn
về hình thức, phong phú về nội dung và cách thức nhưng lại đem tới một
hiệu quả rất lớn.
Từ việc tìm hiểu các khái niệm xoay quanh chức năng giáo dục của
gia đình và bước đầu đưa ra khái niệm chức năng giáo dục của gia đình
dưới góc độ luật học, có thể thấy những nét đặc trưng trong việc thực hiện

chức năng này của gia đình về mặt chủ thể, phương thức thực hiện, mục
tiêu hướng tới… Những nội dung này sẽ giúp chúng ta có những hoạt
động phù hợp nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất chức năng giáo dục
tại gia đình trong giai đoạn hiện nay.

1.1.2. Vấn đề điều chỉnh của pháp luật về việc thực hiện chức năng
giáo dục của gia đình
Từ khái niệm chức năng giáo dục của gia đình như đã đề cập ở nội
dung trên đây, ta thấy vị trí, vai trò và những ảnh hưởng của việc thực
hiện chức năng này tới mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Đối với cá nhân,
việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình sẽ trang bị cho mỗi chúng
ta những nền tảng cơ bản ban đầu cho sự phát triển về thể chất và tinh
thần. Đối với gia đình, điều đó góp phần duy trì và phát triển văn hóa gia
đình, sự hòa hợp và yên vui của mỗi mái ấm… Đối với xã hội, nó cống
hiến một nguồn nhân lực có chất lượng cao, tạo động lực, sức mạnh cho
sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Như chúng ta đã biết,
chức năng giáo dục của gia đình được xuất phát một cách tự nhiên. Nó tồn
tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của các hình thái gia đình
trong lịch sử. Tuy nhiên, nếu để chức năng này diễn ra tự nhiên như nó
vốn có thì chúng ta sẽ mất nhiều thời gian để trải nghiệm và đúc rút kinh
nghiệm; đồng thời, trong quá trình đó có thể gặp những sai lầm đáng tiếc.


15
Vì vậy, cần có sự điều chỉnh của pháp luật để việc thực hiện chức năng
giáo dục của gia đình diễn ra ổn định, khoa học và đạt hiệu quả cao.
Có thể thấy, pháp luật không chỉ tác động tới mỗi cá nhân với tư
cách một chủ thể riêng biệt mà còn tác động lên mối quan hệ giữa các chủ
thể trong những hoàn cảnh nhất định. Trong việc thực hiện chức năng giáo
dục của gia đình, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các thành viên

trong gia đình, từ đó giúp họ nhận thức được quyền hạn, trách nhiệm của
mình và vị trí, vai trò của chức năng giáo dục trong gia đình. Bên cạnh đó,
các làm luật còn đưa ra những cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện các quy
định của pháp luật bằng những chế tài, giới hạn, những khuyến khích…
Những quy định điều chỉnh việc thực hiện chức năng giáo dục của gia
đình không chỉ gói gọn trong luật Hôn nhân và gia đình mà còn được ghi
nhận ở các văn bản khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những quy
định này tác động tới cá nhân với tư cách là một thành viên của xã hội
cũng như với tư cách là thành viên của gia đình. Bởi việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của công dân bên cạnh ý nghĩa là tấm gương đối với các thành
viên khác trong xã hội còn có ý nghĩa giáo dục đối với mỗi thành viên của
gia đình. Đó là một cách giáo dục rất tự nhiên và hiệu quả…
Như vậy, từ mối quan hệ giữa chức năng giáo dục của gia đình và
những tác động của pháp luật tới mỗi gia đình, ta thấy pháp luật nói chung
và pháp luật Hôn nhân và gia đình nói riêng đã có những điều chỉnh tới
việc thực hiện chức năng này. Trong phạm vi gia đình, sự điều chỉnh đó
được luật Hôn nhân và gia đình quy định với những quy phạm mang đặc
điểm riêng. Những đặc điểm đó được thể hiện qua phương pháp, hình thức
thực hiện được ghi nhận trong luật Hôn nhân và gia đình ở nước ta.


16
1.2. PHƯƠNG PHÁP, HÌNH THỨC THỂ HIỆN CHỨC NĂNG
GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Những quy định của pháp luật điều chỉnh chức năng giáo dục của
gia đình đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quá trình giáo dục nói
chung và chức năng giáo dục của gia đình nói riêng. Các quy định này đã
đưa ra một giới hạn tối thiểu, giúp các chủ thể định hướng được các hoạt
động của mình để mang lại những kết quả như mong muốn của các nhà

lập pháp và xã hội. Trong việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình,
để đạt được hiệu quả, thỏa mãn nhu cầu của phụ huynh và đáp ứng yêu
cầu của xã hội thì việc chỉ thực hiện các quy định của pháp luật là chưa
đủ. Bởi nếu chỉ áp dụng các quy định của pháp luật vào trong giáo dục tại
gia đình, nhà trường và xã hội thì sự giáo dục không sinh động và thiếu sự
phong phú; trong khi đó sự tiếp nhận của các đối tượng có phần hạn chế,
hiệu quả đạt được không cao. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những mặt
tích cực mà các quy định pháp luật mang lại cho quá trình thực hiện chức
năng giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Trong đó, các văn bản pháp
luật đã đưa ra những phương pháp, hình thức nhằm đảm bảo sự thực hiện
chức năng giáo dục của gia đình.
Các quy định trong pháp luật Hôn nhân và gia đình luôn nhấn mạnh
tới phương pháp giáo dục bằng cách nêu gương, trong đó ông bà, cha, mẹ,
anh, chị là những người đi trước bằng hành vi, thói quen, lối sống của
mình để làm gương cho các thế hệ đi sau. Phương pháp giáo dục này được
ghi nhận trong Luật HN&GĐ, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em
2004, Luật Giáo dục 2005… của nước ta. Đây là một phương pháp giáo
dục quen thuộc và mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, việc áp dụng phương
pháp này trong các gia đình là điều không đơn giản, bởi khi đó, chủ thể
thực hiện việc giáo dục cần phải mẫu mực trong mọi không gian và thời
gian. Để thực hiện điều này một cách thuận lợi, mỗi người cần tự tu


17
dưỡng, rèn luyện để các hành vi tốt, lối sống đẹp được xuất phát từ chính
bản thân mình. Từ đó, việc nêu gương sẽ tự nhiên mà không gượng ép,
hiệu quả giáo dục sẽ được nâng cao.
Bên cạnh đó, các nhà lập pháp còn ghi nhận cha mẹ giáo dục con
qua sự“thương yêu, nuôi nấng, giáo dục con cái” (Điều 17, Luật HN&GĐ
1959). Đây chính là một trách nhiệm của cha mẹ đối với con em mình,

đồng thời, thể hiện một cách thức giáo dục mang tính chất mềm mỏng dựa
trên những quan hệ tình cảm trong gia đình. Việc thực hiện quá trình giáo
dục nói chung và thực hiện chức năng giáo dục của gia đình nói riêng
muốn đạt hiệu quả cần dựa trên phương pháp kết hợp giữa học và hành,
giữa lý thuyết và thực tiễn, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất…
(Điều 3, Luật Giáo dục 2005). Mặc dù là một phương pháp giáo dục
không mới mẻ nhưng việc áp dụng nó trên thực tế không phải luôn được
thực hiện và không phải lúc nào cũng mang lại những kết quả như ý. Quá
trình áp dụng phương pháp này còn phụ thuộc vào điều kiện trong từng
trường hợp, ở từng lĩnh vực cụ thể. Do đó, trong một số trường hợp, vì
những lý do như: cơ sở vật chất, thời gian, không gian… mà việc kết hợp
đồng thời giữa học và hành, lao động và giáo dục đã chưa thực hiện được.
Bởi vậy, để phát huy được những ưu điểm của phương pháp giáo dục này,
chúng ta cần quan tâm đồng bộ tới các điều kiện chủ quan và khách quan
của quá trình giáo dục để có được những kết quả như mong muốn.
Những nội dung liên quan tới việc thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình được ghi nhận ở các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của các thành viên trong gia đình (Luật HN&GĐ); quy định về trách
nhiệm của gia đình, Nhà nước, nhà trường và công dân (Luật Giáo dục
2005); quy định về mối quan hệ giữa gia đình - nhà trường - xã hội (Luật
HN&GĐ, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em 2004, Luật Giáo dục
2005)… Những quy định trong các văn bản này không chỉ là hình thức
chứa đựng, thể hiện của chức năng giáo dục của gia đình mà cũng chính là


18
hình thức để thực hiện chức năng này trên thực tế. Đây là cơ sở pháp lý
giúp các chủ thể ý thức được quyền và trách nhiệm của mình, đồng thời là
căn cứ để họ bảo vệ mình khi có những vi phạm từ phía những cá nhân, tổ
chức khác. Bên cạnh đó, việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình

còn được ghi nhận tại Điều lệ của trường theo quy định của Luật giáo dục
2005. Điều này đã nhắc nhở chúng ta về sự phối kết hợp của toàn xã hội
nhằm chung tay xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục của nước nhà
trong giai đoạn hiện nay.
Hình thức thực hiện chức năng giáo dục của gia đình được thể hiện
qua các quy định về: các nguyên tắc của Luật HN&GĐ, các chủ thể trong
quan hệ gia đình, quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình,
các chế tài. Trước hết, có thể thấy trong quy định của pháp Luật HN&GĐ,
giáo dục đã được ghi nhận như một nguyên tắc (Điều 2, Luật HN&GĐ
2000). Bên cạnh đó, về mặt chủ thể, qua lịch sử phát triển của pháp luật
Hôn nhân và gia đình, có thể thấy các chủ thể là thành viên của gia đình
ngày càng được mở rộng. Nếu ở Luật HN&GĐ 1959 quy định gia đình chỉ
bao gồm cha, mẹ, con (được thể hiện trong quy định tại Điều 1 và chế
định “Nghĩa vụ và quyền lợi của vợ chồng” - chương 3) thì đến Luật
HN&GĐ 1986 phạm vi gia đình đã bao gồm cả ông, bà (“ông bà có nghĩa
vụ nuôi dưỡng, giáo dục cháu chưa thành niên trong trường hợp không
còn cha mẹ”, Điều 27) và đến Luật HN&GĐ 2000 gia đình được xác định
bao gồm cả bố dượng, mẹ kế (Điều 38). Cùng với các quy định trên đây,
các văn bản pháp luật ra đời sau luôn được mở rộng về các chế định, các
nguyên tắc và các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình xây
dựng, phát triển gia đình. Nhờ những quy định đó, chúng ta ngày càng có
cơ sở pháp lý vững chắc để đạt được các mục tiêu xã hội đã được đặt ra.
Bên cạnh đó, các quy định mang tính chất chế tài trong luật Hôn nhân và
gia đình cũng góp phần không nhỏ để hiện thực hóa các quy định của pháp
luật điều chỉnh việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.


19
Như vậy, có thể thấy, việc quy định phương pháp, hình thức thực
hiện chức năng giáo dục của gia đình trong pháp luật Hôn nhân và gia

đình của nước ta có ý nghĩa không chỉ về mặt pháp luật mà còn về mặt
thực tiễn. Tìm hiểu các quy định này sẽ giúp ta thấy được những thành
tựu, hạn chế trong pháp luật thực định cũng như ý thức được hơn về quyền
và nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện chức năng giáo dục của gia
đình.

1.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC THỰC HIỆN CHỨC
NĂNG GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH
Như chúng ta đã biết, gia đình là một trong những thiết chế xã hội
quan trọng. Sự thay đổi của gia đình ở các thời kỳ khác nhau chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố như: chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật…
Trong đó, sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử luôn có
những tác động tới các yếu tố xã hội khác. Đối với việc thực hiện chức
năng giáo dục của gia đình, có thể thấy sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn
hiện nay và thời kỳ phong kiến - khi trình độ kinh tế - xã hội có sự khác
biệt đáng kể. Ở thời kỳ chế độ cũ, nền kinh tế quốc dân còn có những hạn
chế nhất định, sự đầu tư cho giáo dục của quốc gia cũng chưa được chú
trọng. Do đó, ở thời kỳ này, hạ tầng cơ sở, các chính sách, quy định của
pháp luật chưa tập trung nhiều cho lĩnh vực giáo dục. Trong gia đình, ngân
quỹ cho việc thực hiện chức năng giáo dục eo hẹp, và thường tập trung
cho con trai được ăn học… Ngày nay, nhận thức được vai trò quan trọng
của sự nghiệp giáo dục, Nhà nước cùng gia đình đã chăm chút, đầu tư
nhiều cho vấn đề này. Cùng với đó, nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội
cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình có điều kiện tích lũy, làm giàu và tự do đầu
tư vào các hoạt động theo nhu cầu của mình. Nhờ đó, chức năng giáo dục
của gia đình được cải thiện đáng kể. Trong các gia đình, con trai và con
gái đều được tới trường học tập và được chuẩn bị những cơ sở vật chất cần


20

thiết cho việc thực hiện giáo dục tại gia đình. Có thể thấy, những cố gắng
qua các cuộc cách mạng xã hội đã có kết quả đáng khích lệ, sự mong đợi
của các thế hệ đi trước giờ đây đã trở thành hiện thực trong xã hội chúng
ta, tạo bình đẳng cho cả nam và nữ được thụ hưởng sự giáo dục từ gia
đình, nhà trường và có cơ hội thực hiện quyền học tập của mình.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ đã tạo điều kiện để con
người có cơ hội tiếp xúc với các ứng dụng mới. Sự phổ biến của Internet,
điện thoại di động… đã có những tác động không nhỏ tới việc giáo dục
nói chung và giáo dục tại gia đình nói riêng. Ngày nay, trẻ được tiếp xúc
nhiều với mạng Internet, máy tính, điện thoại, từ điển điện tử… Nhờ đó,
chúng có thêm một kênh để trao đổi, học hỏi. Điều này đã góp phần tiết
kiệm thời gian, chi phí và mở rộng tầm hiểu biết cho mỗi cá nhân, bởi dù
chúng ta đang ngồi ở bất cứ địa điểm nào nhưng vẫn có thể trao đổi, cập
nhật thông tin, học hành… Tuy nhiên, trong các gia đình, sự ảnh hưởng –
chi phối của các sản phẩm có ứng dụng khoa học, công nghệ cũng là một
nỗi lo đối với các bậc phụ huynh. Trong nhiều trường hợp, trẻ đã lạm
dụng các ứng dụng này để phục vụ nhu cầu không chính đáng, gây lãng
phí và ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm lý của mình (như việc chơi điện tử quá
mức, quên ăn, quên học… dẫn tới kết quả học tập giảm sút, sức khỏe bị
ảnh hưởng, tâm lý mất cân bằng). Ở nhiều gia đình, sức “hấp dẫn” và sự
chi phối của các sản phẩm, các công nghệ hiện đại đã đẩy xa cha mẹ và
con cái. Điều này đã gây những khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện
chức năng giáo dục của gia đình bởi thời gian các thành viên bên nhau
ngày càng hạn hẹp, sự gắn bó giữa các cá nhân bị suy giảm đáng kể.
Về mặt chính trị, có thể thấy sự ổn định của của môi trường chính
trị là một yếu tố góp phần phát triển mọi mặt của xã hội. Khi môi trường
sống có sự trật tự, ổn định thì việc thực hiện các chức năng của gia đình,
trong đó có chức năng giáo dục sẽ được đầu tư hơn về mặt thời gian, công
sức. Nhờ đó, chúng ta sẽ thu được những hiệu quả như mong đợi. Ngược



21
lại, khi tình hình chính trị bất ổn, môi trường sinh hoạt không ổn định thì
tâm lý, thời gian đều bị chi phối và việc tập trung cho bất cứ một hoạt
động cụ thể nào đạt thành quả là điều không dễ dàng.
Về sự ảnh hưởng của yếu văn hóa tới việc thực hiện chức năng giáo
dục trong gia đình. Như chúng ta đã thấy, sự tác động của phong tục, tập
quán có những ảnh hưởng nhất định đối với đời sống của mỗi cá nhân
trong xã hội cũng như của mỗi thành viên trong gia đình. Trong thời kỳ
phong kiến, do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia
đình, sự giáo dục thường được thực hiện bởi người đàn ông – người giữ
vai trò gia trưởng. Các nội dung giáo dục thường xoay quanh cách đối
nhân xử thế trong gia đình (gia phong), thể hiện qua các học thuyết “tam
cương”, “ngũ thường” với các quan niệm “tam tòng”, “tứ đức”, trọng nam
khinh nữ… Do những đặc điểm về mặt văn hóa, xã hội nên việc giáo dục
trong gia đình rất cứng nhắc, phạm vi không bao quát các vấn đề xã hội
mà thường tập trung chủ yếu vào các quan hệ tại gia đình. Điều này đã
hạn chế sự hiểu biết của mỗi cá nhân đối với các vấn đề xã hội bên ngoài
gia đình. Ngày nay, với thành tựu của các cuộc cách mạng xã hội, quyền
bình đẳng giới đã được thiết lập. Nhờ đó, trong gia đình và ngoài xã hội
người phụ nữ được tôn trọng và được trao quyền nhiều hơn. Trong việc
thực hiện chức năng giáo dục tại gia đình, người phụ nữ (người bà, người
mẹ) cũng được quyền tham gia giáo dục con cái, trong nhiều gia đình, đó
là những “người thầy” chính trong việc giáo dục con nhờ sự gần gũi và có
thời gian hơn các thành viên khác trong gia đình. Nội dung giáo dục đối
với các con không chỉ dừng ở các quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ gia
đình mà bao gồm cả cách ứng xử ngoài xã hội, các kiến thức chung về xã
hội, khoa học… trong đó bao gồm cả các kiến thức văn hóa. Nhờ nhận
được sự giáo dục phong phú trong nhiều lĩnh vực, nên khi được tiếp xúc
với xã hội, các bé có sự thích nghi dễ dàng hơn, đồng thời có nền tảng ban

đầu về mặt đạo đức và văn hóa.


22
Ngày nay, trong mỗi gia đình, cha mẹ không chỉ là chủ thể thực
hiện việc giáo dục mà trong nhiều trường hợp họ còn là chủ thể chủ động
tiếp nhận những kiến thức, thông tin từ phía con cái của mình, qua đó học
hỏi, mở rộng thêm vốn hiểu biết của mình để hỗ trợ cho công việc, cũng
như cuộc sống. Sự tích cực, chủ động học hỏi của cha mẹ từ con cái thể
hiện mối quan hệ gần gũi, gắn bó trong gia đình. Điều này đặc biệt phổ
biến trong xã hội ngày nay, khi con trẻ có cơ hội tiếp xúc với những thành
tựu khoa học tiên tiến, đồng thời, chúng có khả năng nắm bắt nhanh và
được học hỏi bài bản tại trường. Do đó, chúng thường “đi trước” các phụ
huynh về kiến thức trong một số lĩnh vực, từ đó chúng có cơ hội hướng
dẫn, chia sẻ lại cho cha mẹ mình. Như vậy, có thể thấy tính hai chiều trong
việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình hiện đại mà không đơn
thuần chỉ một chiều như trong hoạt động giáo dục ở thời kỳ phong kiến
hay trong cách giáo dục tại nhà trường. Đây chính là một biểu hiện của sự
ảnh hưởng từ yếu tố văn hóa – xã hội trong việc thực hiện chức năng giáo
dục của gia đình trong giai đoạn hiện nay.
Một yếu tố tác động mạnh mẽ tới việc thực hiện chức năng giáo dục
trong gia đình đó là pháp luật. Việc pháp luật ghi nhận trách nhiệm giáo
dục con cái của cha mẹ và quyền lợi của trẻ em trong gia đình sẽ tạo cơ sở
pháp lý cho việc đảm bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.
Tuy nhiên, có thể thấy trong các văn bản pháp luật không ghi nhận một
cách trực tiếp thuật ngữ chức năng giáo dục của gia đình, nhưng qua các
quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục… có thể thấy mối quan hệ giữa gia
đình và pháp luật về việc giáo dục mỗi cá nhân - công dân. Nói cách
khác, việc thực hiện các quy định của pháp luật về giáo dục trong gia đình

cũng chính một trong các cách nhằm hiện thực chức năng giáo dục của gia
đình.


23
Như vậy, việc thực hiện chức năng giáo dục có sự ảnh hưởng của
các yếu tố trên đây. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó không diễn ra một cách
đơn lẻ và một chiều mà chúng có sự tác động đồng bộ, qua lại giữa các
yếu tố. Khi một trong các yếu tố có sự thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của
một hoặc một số yếu tố khác. Như khi nền kinh tế xã hội có những thay
đổi sẽ kéo theo những biến đổi trong đời sống chính trị, trong lối sống,
trong phong tục… khi đó, yếu tố pháp luật cũng có những thay đổi và tác
động tới thói quen, đời sống của mỗi công dân. Sự thay đổi của pháp luật
có thể theo chiều hướng tích cực hoặc ngược lại, trong phạm vi giáo dục
tại gia đình, điều đó có thể dẫn tới việc mở rộng hoặc thu hẹp các quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ, con cái trong việc thực hiện chức năng giáo dục
của gia đình.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng có sự tác động trở lại đối với xã hội
nói chung cũng như đối với các hoạt động kinh tế, giáo dục… Khi pháp
luật tiến bộ, có sự phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội thì nó sẽ
thúc đẩy sự phát triển của xã hội; ngược lại, khi pháp luật không theo kịp
sự phát triển của kinh tế xã hội hoặc đi trước quá nhiều với sự phát triển
của hạ tầng cơ sở thì sẽ không những không phát huy được hiệu quả của
nó mà còn có thể kìm hãm sự phát triển của các lĩnh vực khác nhau của xã
hội.
Cùng với sự tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế, chính trị, văn
hóa, pháp luật…, không thể không kể tới những tác động ngược trở lại từ
việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình. Hiệu quả của việc thực
hiện chức năng giáo dục của gia đình sẽ góp phần tạo dựng những công
dân có nhân cách tốt, có trình độ học vấn, nhờ đó đóng góp cho xã hội một

nguồn lực rất giá trị (nhân lực); đồng thời, với một tập thể công dân có tư
cách tốt sẽ củng cố trật tự xã hội và mở rộng lối sống lành mạnh, văn
minh.


×