Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.88 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM QUÝ ĐẠT

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN
***
Lời đầu tiên cho phép tôi được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo hướng
dẫn - TS. Nguyễn Thị Vân Anh đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo để tôi có thể hoàn
thành luận văn theo đúng yêu cầu chuyên môn và thời gian quy định.
Ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ,
động viên của gia đình, bạn bè và đặc biệt là sự tạo điều kiện, giúp đỡ của lãnh
đạo Trung tâm Luật So sánh trường Đại học Luật Hà Nội - nơi tôi đang công
tác, sự giúp đỡ của các thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp để tôi có thể hoàn
thành luận văn một cách tốt nhất.


Trong quá trình làm luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong các thầy cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp trao đổi, góp ý để tôi có thể
tiếp tục hoàn thiện các vấn đề trong nội dung của luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Phạm Quý Đạt


MỤC LỤC
***
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….1
CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ
PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA………………..6
1.1. Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa………………………6
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa…………………………………….6
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa………………………………,,,9
1.1.3. Ưu thế và hạn chế của DNNVV………………………………………...11
1.2. Pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa………………………….14
1.2.1. Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế quốc dân…………………...14
1.2.2. Sự cần thiết của pháp luật hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa…...19
1.2.3. Pháp luật về hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam………………………………19
1.2.4. Pháp luật về hỗ trợ các DNNVV một số nước trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam………………………………………………….....25

CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM…………………………………...30
2.1. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong một số lĩnh vực
và khu vực tiêu biểu……………………………………………………………..30
2.1.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp…………………30

2.1.2 Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực thương mại dịch vụ……….....34
2.1.3 Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở khu vực nông thôn………………...….35
2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa…………………………………………………………………….36
2.2.1 Các quy định pháp luật hỗ trợ về tài chính cho các DNNVV…………...36


2.2.2 Các quy định pháp luật hỗ trợ về tạo lập mặt bằng sản xuất cho các
DNNVV……………………..…………………………………………………46
2.2.3 Các quy định pháp luật hỗ trợ về nâng cao năng lực công nghệ, trình độ
kỹ thuật cho các DNNVV……………………………………………..……….50
2.2.4 Các quy định pháp luật hỗ trợ về xúc tiến mở rộng thị trường, tham gia
kế hoạch mua sắm, cung ứng dịch vụ công cho các DNNVV………………...55
2.2.5 Các quy định pháp luật hỗ trợ về thông tin và tư vấn cho các DNNVV...60
2.2.6 Các quy định pháp luật hỗ trợ về phát triển nguồn nhân lực và vườn ươm
doanh nghiệp cho các DNNVV…………………………………………...…...62

CHƯƠNG 3 - HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Việt nam………………………………………………………………..70
3.1.1 Bối cảnh trong, ngoài nước tác động đến khu vực DNNVV………….…70
3.1.2 Quan điểm định hướng trong việc hoàn thiện pháp luật hỗ trợ các
DNNVV ở Việt Nam…………………………………………………………...71
3.2 Các giải pháp cho việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam………………………75
3.2.1 Giải pháp mang tính tổng quát…………………………………………75
3.2.2 Các giải pháp cụ thể hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy
định pháp luật hỗ trợ các DNNVV……………………………………………78
KẾT LUẬN…………………………………………………………………..89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DNKH&CN

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ

GDP

Gross Donmestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)

KH&CN

Khoa học và công nghệ

MPI

Ministry of Planing and Investment (Bộ Kế hoạch và đầu tư)

SMEs


Small and Medium Enterprises ( Doanh nghiệp nhỏ và vừa)

VDB

Vietnam Development Bank (Ngân hàng phát triển Việt Nam)

VCCI

Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam

VCA

Liên minh hợp tác xã Việt Nam

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

WTO

World Trade Organisation (Tổ chức Thương mại thế giới)


-1-


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử thế giới đã chỉ ra rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã đóng vai
trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Những ưu thế của loại hình DNNVV không
chỉ được đưa ra trong lý luận mà còn được thể hiện một cách rõ ràng và thuyết phục
trong thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới. Gần đây, khi cách mạng khoa học và công
nghệ phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hóa diễn ra khá sôi động, thực tiễn quản lý
kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những biến chuyển sâu sắc thì các DNNVV lại
càng được chú trọng hơn ở khắp các nước.
Trong hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có
những chuyển biến to lớn, nhiều tiềm năng khơi dậy, hoạt động sản xuất kinh doanh
phát triển mạnh mẽ (với số lượng các doanh nghiệp trong cả nước tăng lên nhanh
chóng, nhất là các DNNVV). Thực tế cho thấy các DNNVV ở Việt Nam chiếm số
lượng tương đối lớn, chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò
đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, tính đến thời điểm năm 2010,
DNNVV chiếm 97% tổng số các doanh nghiệp, chiếm trên 50,1% lao động trong các
doanh nghiệp và ước tính góp khoảng trên 40% GDP [23, tr.12]. Những đóng góp vào
GDP và tốc độ tăng trưởng cũng như khả năng tạo việc làm của các cơ sở kinh doanh
này đã cho thấy tầm quan trọng thực sự của nó đối với nền kinh tế. Do vậy, việc phát
triển các DNNVV là một trong những mục tiêu của chính sách được Đảng và Nhà
nước đặt ra.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định về chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 – 2010 là chú trọng vào “… Hỗ trợ phát triển mạnh các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện để hình thành các doanh nghiệp lớn, có sức
cạnh tranh trên thị trường…” [19].


-2-

Tuy nhiên, theo nhìn nhận của nhiều nhà kinh tế, DNNVV Việt Nam hiện nay

chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất
kinh doanh. Nguyên nhân một phần do bản thân các doanh nghiệp chưa có kinh
nghiệm quản lý hoạt động trong nền kinh tế thị trường, chưa đủ năng động và sáng tạo
trong kinh doanh, mặt khác quan trọng hơn là chưa có một khuôn khổ chính sách rõ
ràng của Nhà nước trong việc đưa ra những biện pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho các
DNNVV phát huy hết khả năng của mình cho sự phát triển kinh tế đất nước. Cho đến
nay, Đảng và Nhà nước vẫn chưa có chiến lược tổng thể và phát triển doanh nghiệp
nói chung và các DNNVV nói riêng, mặc dù đã có nhiều chính sách dành cho các cơ
sở kinh doanh này nhưng thiết kế lại thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với tình hình chung
của phát triển kinh tế, nhiều chính sách chưa đảm bảo tính bình đẳng cho các loại hình
doanh nghiệp, vẫn còn tư tưởng và hành động kỳ thị của doanh nghiệp của tư nhân,
đặc biệt là chưa quan tâm đúng mức đến DNNVV [21, tr229].
Để phát huy được vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế, Nhà nước và các
tổ chức trong và ngoài nước cần có những hỗ trợ để giảm bớt những bất lợi cho các cơ
sở kinh doanh này, thông qua việc cải cách tất cả các chính sách, đặc biệt là hệ thống
các văn bản hỗ trợ phát triển cho các DNNVV hiện hành để có thể góp phần thực hiện
có hiệu quả và tích cực các chính sách trên thực tế.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: “Hoàn
thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” làm luận văn thạc
sỹ Luật học chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các DNNVV là các cơ sở kinh doanh quan trọng không chỉ với Việt Nam mà
còn được chú trọng phát triển ở rất nhiều quốc gia khác trên thế giới. Các văn bản
hướng dẫn hoạt động hỗ trợ các DNNVV của Nhà nước đã tạo điều hiện cho các cơ sở
kinh doanh này phát triển nhanh chóng trong thời gian qua. Đã có một số công trình
nghiên cứu, những bài đánh giá phân tích về nhiều khía cạnh của DNNVV ở Việt


-3-


Nam như “ Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý về hỗ trợ các DNNVV cấp
trung ương và địa phương” (Đề tài khoa học cấp Bộ, 2009); “Một số giải pháp phát
triển bền vững DNNVV Việt Nam” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 2007);
“Quản trị rủi ro trong hoạt động của DNNVV ở Việt Nam” (Đinh Văn Đức – luận văn
thạc sỹ kinh tế, 2009); “Các giải pháp tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam” (Nghiêm Văn Bảy - Luận án tiến sỹ tài chính ngân hàng,
2009); “Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam” (Cao Thị
Hồng Minh – Luận văn thạc sỹ luật, 2011)…
Những đề tài nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào giải quyết vấn đề kinh tế,
sự phối hợp quản lý của Nhà nước; những thách thức của DNNVV khi Việt Nam gia
nhập WTO hay các vấn đề mang tính pháp lý như đăng ký kinh doanh, chính sách đầu
tư đối với các DNNVV…Có rất ít công trình đi sâu vào phân tích, nhìn nhận khía
cạnh pháp lý của các quy định hỗ trợ phát triển các DNNVV. Do đó, tác giả thấy cần
thiết phải nghiên cứu đưa ra những nghiên cứu, đánh giá để góp phần cùng các công
trình trước đây hoàn thiện về mặt pháp luật các chính sách hỗ trợ các DNNVV phát
triển hơn nữa trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng các chính sách và
pháp luật về DNNVV và tình hình thực hiện các chính sách và pháp luật đó trong thực
tiễn để đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ các DNNVV ở Việt nam trong giai đoạn hiện
nay.
Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm và các đặc điểm của DNNVV;


-4-


- Thực trạng các quy định của pháp luật về hỗ trợ các DNNVV và tình hình thực
hiện các chính sách và pháp luật đó trong thực tiễn.
- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng: Các chính sách và pháp luật về hỗ trợ DNNVV và tình hình thực
hiện các chính sách và pháp luật đó trong thực tiễn; Quan điểm, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về hỗ trợ các DNNVV.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu và phân tích các chính sách hỗ trợ
được quy định trong Nghị định 59/2006/NĐ-CP về trợ giúp phát triển các DNNVV;
bao gồm các chính sách hỗ trợ về tài chính, mặt bằng sản xuất, khoa học công nghệ,
mở rộng thị trường, thông tin tư vấn và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, vườn ươm
doanh nghiệp cho các DNNVV.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận: Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mắc – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật nói chung
và pháp luật về hỗ trợ các DNNVV nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích – tổng hợp. lịch sử
kết hợp với các phương pháp khác như thống kê, so sánh, điều tra xã hội học. Đồng
thời tác giả cũng sử dụng nguồn thông tin dữ liệu từ nhiều nguồn như: từ các khảo sát,
nghiên cứu khoa học về DNNVV của các nhà nghiên cứu, các dữ liệu từ Tổng cục
thống kê, Sở kế hoạch và đầu tư, Niên giám thống kê, các kết quả khảo sát về
DNNVV của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, các bài báo, tạp chí, báo điện
tử, nhận định của các chuyên gia kinh tế về DNNVV.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn


-5-


Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về lý luận và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ DNNVV. Những đóng góp của luận văn thể hiện
tập trung ở những nội dung sau:
- Xác định rõ vai trò của việc hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ các DNNVV đối với
việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và kinh nghiệm của một số nước trên
thế giới trong hỗ trợ các DNNVV.
- Nêu lên những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện pháp luật về hỗ trợ các
DNNVV.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
các quy định pháp luật về hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cầu làm 3 chương như sau:
Chương 1 - Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa và pháp luật hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2 - Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam
Chương 3 - Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam


-6-

CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
VÀ PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái niệm doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ được
du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực

nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong
nhiều năm qua. Định nghĩa về DNNVV, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rõ ràng phải
dựa trước tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân
công, vốn đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng
chương trình phát triển khác nhau. Việc xác định khái niệm DNNVV có ý nghĩa trong
việc tìm ra các đối tượng thuộc diện DNNVV được áp dụng các chính sách hỗ trợ
phát triển của Nhà nước.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: DNNVV là những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ bé về vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
có thể chia thành ba loại căn cứ vào quy mô, đó là : Doanh nghiệp siêu nhỏ (micro),
doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới , doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp
có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10
đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước,
người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước mình.
Ở Việt Nam, vấn đề định nghĩa về DNNVV đã bắt đầu được xác định trong
thời gian trước đây. Cụ thể trong Công văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-61998 theo đó doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200
người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá


-7-

giữa VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây
dựng một bức tranh chung về các DNNVV ở Việt Nam và chủ yếu đó là quy ước
hành chính phục vụ cho việc hoạch định chính sách hỗ trợ các DNNVV. Trên thực tế
tiêu chí này không cho phép phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ nhưng
đây được coi là mốc thời gian quan trọng vì công văn này có thể hiểu là hướng dẫn
đầu tiên về DNNVV ở Việt Nam, tuy nhiên nó lại không phải là văn bản pháp luật
chính thức.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chính

thức đưa ra định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa
là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện
hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người”. Nghị định này áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (năm 1999);
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước
(1995);
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã (1996);
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày
03/2/2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh.
Cũng theo Nghị định này, các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1
đến 9 nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh nghiệp
nhỏ.
Nghị định 56/2009/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 8 năm
2009 và thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính
phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều 3 Nghị định 56/2009/NĐCP, định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định cụ thể như sau: “Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp
luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng


-8-

nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên),
cụ thể như sau:
Quy mô

Doanh
nghiệp

siêu nhỏ
Số
động

Doanh nghiệp nhỏ

lao Tổng
Số
nguồn vốn động

Doanh nghiệp vừa

lao Tổng nguồn Số lao
vốn
động

Khu vực
I. Nông, lâm nghiệp và 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên
thủy sản
trở xuống trở xuống người đến đồng
đến 200
200 người 100 tỷ đồng người
đến
300
người
II. Công nghiệp và xây 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên
dựng
trở xuống trở xuống người đến đồng
đến 200
200 người 100 tỷ đồng người

đến
300
người
III. Thương mại và 10 người 10 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 10 tỷ từ trên
dịch vụ
trở xuống trở xuống người đến đồng đến 50 50
50 người
tỷ đồng
người
đến
100
người


-9-

Như vậy, có thể thấy quan niệm về DNNVV được hiểu khác nhau tùy thuộc
vào chủ thể và mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên đều thống
nhất ở một điểm DNNVV bao gồm một tập hợp đối tượng rộng rãi: doanh nghiệp,
hợp tác xã, tổ hợp sản xuất, trang trại và cả các hộ kinh doanh đã đăng ký kinh doanh.
DNNVV là một khái niệm chỉ chung cho một khu vực cơ sở kinh doanh có quy mô
hoạt động thường là nhỏ và gặp nhiều khó khăn trong quá trình cạnh tranh trên thương
trường.
Mặc dù Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV thay thế
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP với định nghĩa mới về DNNVV nhưng cách phân loại
DNNVV trong Nghị định số 56/2009/NĐ-CP thể hiện sự bất hợp lý. Bởi theo Nghị
định số 56/2009/NĐ-CP thì việc phân loại doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ,
doanh nghiệp vừa chủ yếu dựa vào tổng nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn
của chủ sở hữu và vốn huy động dưới các hình thức khác nhau, trong khi đó, tổng
nguồn vốn của các doanh nghiệp thường xuyên biến động nên việc phân loại này

thường không chính xác, ảnh hưởng đến hoạt động hỗ trợ của Nhà nước. Bên cạnh đó,
Nghi định 56/2009/NĐ-CP lại không có quy định rõ đối tượng áp dụng đối với các
DNNVV như Nghị định 90/2001/NĐ-CP làm cho việc xác định gặp rất nhiều khó
khăn trên thực tế.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các DNNVV có những đặc điểm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, tồn tại dưới các hình
thức kinh doanh khác nhau.
DNNVV là cơ sở kinh doanh độc lập, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
do một hoặc nhiều chủ thể đầu tư vốn thành lập. Là một chủ thể kinh tế độc lập nên
các DNNVV độc lập với nhau về kinh tế, các doanh nghiệp cũng có sự độc lập về
quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của mình.


- 10 -

DNNVV thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức kinh
doanh khác nhau, bao gồm từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của khu vực kinh
tế tư nhân đến các hợp tác xã, thậm chí là các tổ hợp sản xuất, trang trại và cả các hộ
kinh doanh đã đăng ký kinh doanh (đối tượng DNNVV rất rộng). Nghị định
56/2009/NĐ-CP có dùng thuật ngữ “doanh nghiệp” với định nghĩa “DNNVV là cơ sở
kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật”, trong khi đó, Luật
Doanh nghiệp 2005 thì quy định: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”, phạm vi điều chỉnh của
Luật là các công ty TNHH, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân, công ty Cổ
phần thuộc mọi thành phần kinh tế, không điều chỉnh đối với Hợp tác xã. Do đó các
dùng thuật ngữ “doanh nghiệp” ở hai văn bản này rất dễ dẫn đến cách hiểu không
thống nhất, sẽ xảy ra trường hợp hiểu rằng các DNNVV chỉ bao gồm các loại doanh

nghiệp theo Luật doanh nghiệp và theo đó sẽ không bao gồm các loại hình kinh doanh
như: hộ kinh doanh, hợp tác xã. Trong khi đó, hộ kinh doanh và Hợp tác xã là những
chủ thể kinh doanh vừa và nhỏ tồn tại với một số lượng lớn và rất cần thiết cho khu
vực nông thôn.
Thứ hai, DNNVV có quy mô vốn nhỏ và số lượng lao động ít.
Nghị định 56/2009/NĐ-CP xác định doanh nghiệp nhỏ có tổng vốn từ 10-20 tỷ
đồng trở xuống và số lao động từ trên 10 người đến 200 người, Doanh nghiệp vừa có
tổng nguồn vốn từ trên 10 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng với số lao động từ trên 50 đến 300
người. So với Nghị định 90/2001/NĐ-CP thì mức vốn của doanh nghiệp được quy
định ở Nghị định 56/2009/NĐ-CP đã tăng lên gấp 10 lần. Nguyên nhân của sự thay
đổi này là do tác động từ kinh tế - xã hội của đất nước, sau 8 năm kể từ khi ban hành
Nghị định 90/2001/NĐ-CP, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc,
các doanh nghiệp lớn mạnh không ngừng. Do vậy, nếu vẫn giữ mức quy định vốn như
Nghị định cũ thì không phù hợp với tình hình phát triển chung của doanh nghiệp Việt


- 11 -

Nam và sẽ khó hỗ trợ tích cực cho các DNNVV. Trong tương lại khi nền kinh tế tiếp
tục phát triển, các quy định này cũng sẽ thay đổi theo để đáp ứng kịp thời yêu cầu của
tình hình mới.
Thứ ba, DNNVV phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Các cơ
sở kinh doanh là các DNNVV đều phải thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh ngành
nghề, lĩnh vực mà mình hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
Bảng : Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
Tên quốc
gia

Tên và tiêu chuẩn phân định


Doanh nghiệp nhỏ: Nhân viên từ 5 – 19 người, vốn khoảng 70 triệu
Indonesia Rubi (trừ bất động sản)
Doanh nghiệp vừa: Số nhân viên khoảng 20 – 29 người
Malaysia

Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nhân viên khoảng dưới 250 người, vốn tài
sản cố Ringis triệu 1 khoảng sản tài hoặc định

Công nghiệp quy mô nhỏ và vừa: Tổng tài sản trên 250 nghìn và dưới
1 triệu Pêsô. Công nghiệp quy mô nhỏ: Chủ doanh nghiệp chỉ mọi đạo
Philippin
người, 99 – 5 từ viên nhân lượng số có và xuất sản ngoài động hoạt
.Pêsô triệu 1 đến nghìn 100 là sản tài tổng
Singapore

Doanh nghiệp nhỏ: Tài sản cố định dưới 5 triệu đô la Sing
Doanh nghiệp vừa: Vốn cố định từ 5 – 10 triệu đô la Sing

Thái Lan

Công nghiệp quy mô nhỏ:vốn đăng ký dưới 2triệu Bath

(nguồn: Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý, Cơ chế quản lý trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, năm 2008, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.)
1.1.3. Ưu thế và hạn chế của DNNVV
1.1.3.1. Ưu thế của DNNVV


- 12 -


Với những đặc điểm đã phân tích ở trên, các DNNVV có những ưu thế nhất định
trong hoạt động của mình. Những ưu thế đó là:
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy quản lý gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay
đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất
đơn giản là có thể bắt đầu hoạt động. Vòng quay sản phẩm nhanh nên có thể sử dụng
vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ
quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ của nó,
doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng
chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén
trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong
phát triển kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
Các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao động nên sẵn sàng
gánh chịu rủi ro trong kinh doanh nếu cần thiết. Trong trường hợp thất bại thì cũng
không bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên
cạnh đó các DNNVV có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé
về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây chuyền
hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh mạo
hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với
chi phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng ít,
do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời doanh
nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát triển, đầu
tư đúng đắn, sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các DNNVV có thể đạt được
hiệu quả kinh tế - xã hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng


- 13 -


tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động.
Quy mô DNNVV tất nhiên là không lớn. Số lượng lao động trong một doanh nghiệp
không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Mối quan
hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó, nếu xảy ra xung đột, mâu
thuẫn thì dễ dàn xếp.
1.1.3.2. Hạn chế của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bên cạnh những ưu thế nói trên, các DNNVV cũng bộc lộ những hạn chế và
những hạn chế này lại xuất phát từ chính đặc điểm của nó.
Đặc điểm về vốn thấp và số lượng lao động ít mà các DNNVV hạn chế trong
việc tiếp cận với nguồn tín dụng, nguồn vốn xã hội. Điều này rất dễ thấy và nó ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát triển của các DNNVV. Do không có
tài sản cầm cố, thế chấp nên các DNNVV rất khó vay được các khoản vay lớn từ các
tổ chức tín dụng và các quỹ tín dụng. Trong khi đó phần lớn các DNNVV đều rất hạn
chế về vốn tự có vì vậy nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh là rất lớn và việc hình
thành một nguồn vốn cho khu vực doanh nghiệp này là yêu cầu bức xúc.
Cũng chính vì đặc điểm về vốn và số lượng lao động dẫn đến các chủ DNNVV
có khả năng quản lý thấp. Để tiết kiệm cho doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp
thường vừa quản lý, vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn
trong quản lý không cao. Đôi khi việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng,
những người quản lý các bộ phận cũng thường tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất.
Bên cạnh đó, do nguồn vốn ít nên các chủ DNNVV không đủ khả năng cạnh
tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những người lao động có tay nghề cao.
Bản thân người lao động không thường xuyên được đào tạo, đào tạo lại do kinh phí
hạn hẹp vì vậy trình độ tay nghề và kỹ năng của người lao động trong DNNVV thấp.



- 14 -

Nguồn vốn thấp ảnh hưởng đến việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của
DNNVV do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai. Nhiều khi các DNNVV có
những sáng kiến công nghệ tiên tiến nhưng không đủ tài chính cho việc triển khai nên
không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị các doanh nghiệp lớn mua lại với giá rẻ.
Tuy nhiên, các DNNVV rất linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ sản xuất do giá trị
của dây truyền công nghệ thường thấp và họ thường có những sáng kiến đổi mới công
nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này cũng
tạo nên sự khác biệt về sản phẩm để chúng có thể tồn tại trên thị trường.
Đặc điểm về tài chính dẫn đến khả năng tiếp cận thị trường của DNNVV kém,
đặc biết đối với thị trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là dó các DNNVV
thường là những doanh nghiệp mới hình thành, khả năng tài chính cho các hoạt động
marketing không có và họ cũng chưa nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó,
quy mô thị trường của các doanh nghiệp này thường bó hẹp trong phạm vi địa
phương, việc mở rộng ra các thị trường mới là rất khó khăn.
1.2. Pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế quốc dân
Pháp luật đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội tương đối ổn định, đối với
hoạt động của DNNVV, sự can thiệp, hỗ trợ càng trở nên cần thiêt hơn khi vai trò của
các DNNVV ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân. Những vai trò
đó có thể khái quát thành những điểm chính sau đây:
Thứ nhất, DNNVV tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp. Các cơ sở doanh
nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các biện pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được
công nhận là phương thức giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất.
Do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này thường phân
tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối
tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế,



- 15 -

với các đối tượng lao động có trình độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải quyết
thất nghiệp vừa góp phần giảm dòng người di chuyển về thành phố tìm việc làm.
Do tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với các thay đổi của thị trường của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp có biến động xảy ra, các doanh
nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không phải vì cấp quản lý bất tài mà bởi vì
doanh nghiệp lớn thì khó xoay trở nhanh (bộ máy quản lý cồng kềnh). Họ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi
phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong
khi đó do khả năng linh hoạt, có thể thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện
pháp cắt giảm lao động.
Việt Nam là quốc gia đang trong giai đoạn dân số trẻ, nhu cầu việc làm cao và
nếu không giải quyết được vấn đề việc làm sẽ dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp cho các
nhà quản lý. Các DNNVV góp phần giúp lực lượng lao động tiếp cận được việc làm
một cách dễ dàng hơn và phong phú hơn, giải quyết phần nào tình trạng thiếu việc làm
đang là thực trạng không chỉ của Việt Nam và trên toàn thế giới trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế.
Thứ hai, các DNNVV cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể
về cả chất lượng, số lượng và chủng loại. Các DNNVV thu hút một lượng lớn lao
động và tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh
trực tiếp với các công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa
dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa
chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì
doanh thu từ đó quá nhỏ. Ở Việt Nam, các thương hiệu lớn đã dần khẳng định được
chỗ đúng của mình trên thương trường nhờ đầu tư về mọi mặt. Tuy nhiên, không phải
các sản phẩm này đều là sự lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng Việt Nam, xuất
phát từ lý do đơn giản là thu nhập của người dân chưa cao, chưa thể sử dụng các dịch



- 16 -

vụ và hàng hóa đắt tiền. Do đó, các DNNVV đã hướng đến một số lượng lớn người
tiêu dùng bình dân với đầy đủ các loại hàng hóa, dịch vụ phong phú cả về chất lượng,
số lượng và chủng loại
Thứ ba, DNNVV gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. Một số
những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các công ty
lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô
vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó các
công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn
Microsoft của tỷ phú Bill Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20
tuổi vẫn còn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp
riêng của mình. Chưa đầy 30 năm sau đó trở thành người giàu nhất thế giới, là một
điển hình của người làm giàu dựa vào năng lực của mình.
Các công ty nhỏ còn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn. Các
nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty
lớn đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh

Quan hệ với khách hàng

Kiểm soát và quản lý nhân viên

Quy định xuất nhập khẩu

Quản lý thời gian

Công nghệ thông tin hiện đại


Điều hành văn phòng

Các quy định về thuế

Hậu cần

Hệ thống cung cấp và phân phối

Bán hàng và tiếp thị

Các quy định pháp luật và điều lệ của công ty

Xúc tiến sản phẩm và dịch vụ

Quan hệ với quan chức cơ quan nhà nước

Định giá và lợi nhuận
Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào tạo
chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ”
khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được
các công ty lớn thu nhận. Trong điều kiện Việt Nam ngày càng chảy máu số lượng và


- 17 -

chất lượng “chất xám” thì DNNVV chính là môi trường tốt để các tài năng tích lũy
kinh nghiệm và hoàn thiện khả năng của mình trước khi chính thức bước ra môi
trường kinh doanh khốc liệt hơn là cạnh tranh với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn
trong và ngoài nước.
Thứ tư, DNNVV làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Các công ty

lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị kinh tế nhỏ hơn
chúng vì một nguyên nhân đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý
là khối lượng một vật càng lớn thì quán tính của nó càng lớn. Do vậy, các đơn vị kinh
tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách
khác là sức ì càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài
nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp và
phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ
thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp
thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao. Đánh giá được đúng vai trò
này, Việt Nam đang ngày càng quan tâm hơn nữa đến việc hỗ trợ các DNNVV cho
phù hợp với thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập sâu và rộng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh
tế thị trường là phải năng động, mềm dẻo và hiệu quả.
Thứ năm, DNNVV cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
Việc phân định ra các khu vực kinh tế mang đến nhiều thuận lợi ngay cho các nhà đầu
tư và cho cả Nhà nước. Mỗi khu vực kinh tế lại có tính đặc thù riêng không giống
nhau nên mỗi khu vực kinh tế nên cần được chú ý tạo điều kiện về mọi mặt. Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong từng khu vực kinh tế đều có quan hệ với
nhau và với cả các doanh nghiệp lớn. Điều này có lợi không chỉ cho bản thân các
doanh nghiệp trong việc tìm đối tác sản xuất, kinh doanh mà còn tạo cho nền kinh tế
quốc dân trở nên gắn kết cùng phát triển dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Việt Nam tiếp tục khẳng định đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đề cao vai trò của
khu vực kinh tế tư nhân, ngày càng xóa bỏ vai trò của các thành phần kinh tế Nhà


- 18 -

nước, kinh tế tập thể lạc hậu trước đây góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh
công bằng và lành mạnh giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
Thứ sáu, DNNVV phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần
tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng sâu”,

“vùng xa”. Đó là các khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển,
hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu
vực đó vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi
khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí phụ trội của vùng đó cao. Nếu
một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển
không đều giữa các vùng, không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động
của nền kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí phụ trội của các vùng này là chấp nhận
được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các
chính sách ưu đãi thích hợp của chính quyền địa phương. Thực tế cho thấy, Việt Nam
có rất nhiều các vùng kiểu này, để thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển toàn
diện, hạn chế dần khoảng cách giữa các vùng phát triển và các vùng sâu, vùng xa, biên
giới thì Nhà nước luôn quan tâm hỗ trợ các DNNVV hoạt động ở các khu vực này.
Một mặt sự hỗ trợ của Nhà nước giúp kinh tế địa phương phát triển một cách chủ động,
giải quyết vấn đề việc làm, mặt khác góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của
cả nền kinh tế quốc gia.
Thứ bảy, DNNVV giúp giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể
hiện bản sắc dân tộc. Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói là rất thích hợp
cho sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất,
kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các
ngành nghề này. Và đó cũng là một điều cần phải xảy ra trong thời đại công nghiệp.
Việt Nam với đặc thù rất nhiều làng nghề truyền thống trải dài từ Bắc vào Nam, đây
không chỉ là một nét văn hóa đặc sắc mà còn là một phần của lịch sử dân tộc do đó để
giũ gìn và phát huy nó Nhà nước luôn có sự quan tâm đặc biệt đến các DNNVV kinh


- 19 -

doanh hoạt động trong lĩnh vực này như hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, hỗ trợ tài
chính…

1.2.2. Sự cần thiết của pháp luật hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV được nhìn nhận với tư cách là một chủ thể kinh doanh độc lập nên nó cũng
có đầy đủ những quyền và nghĩa vụ của một chủ thể kinh doanh được quy định trong
Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Hợp tác xã 2003 và các văn bản có liên quan.
Tuy nhiên, hoạt động của các DNNVV Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế,
nguyên nhân chủ quan là do chính bản thân các chủ doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm
hoạt động trong nền kinh tế thị trường, chưa phát huy được sự năng động trong kinh
doanh, mặt khác lý do quan trọng hơn là bởi nguyên nhân khách quan về chính sách.
Thực tế Nhà nước chưa đưa ra một khuôn khổ chính sách rõ ràng, cụ thể với những
biện pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho các DNNVV phát huy hết khả năng của mình
cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hiến pháp và pháp luật ghi nhận quyền tự do kinh doanh của các cá nhân và
bình đẳng trong kinh doanh của các doanh nghiệp là như nhau, nhưng do những định
kiến về khu vực kinh tế tư nhân (phần lớn thuộc về các DNNVV) và khu vực kinh tế
nhà nước nên DNNVV còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi tham gia vào các hoạt
động kinh doanh. Chính vì vậy, ngoài những quy định chung về quyền kinh doanh,
pháp luật còn có quy định riêng dành cho nhóm DNNVV, đó là các quy định về hỗ trợ
và đảm bảo cho sự phát triển của DNNVV là hết sức cần thiết.
Tóm lại, do vai trò quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế quốc dân và
những hạn chế trong quá trình phát triển của khu vực này nên các DNNVV cần được
hỗ trợ và khuyên khích phát triển nhằm phát huy những vai trò quan trọng và tích cực
của chúng trong nền kinh tế.
1.2.3 Pháp luật hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ khá lâu, trải qua
nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường khác nhau. Quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam chia thành hai giai đoạn
chính sau đây:
1.2.3.1 Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1997



- 20 -

Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bước ngoặt,
Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau, thay đổi quan điểm
với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành
công nghiệp, dịch vụ, thương mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến năm 1997, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư
nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ chính
trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27/HĐBT/1988 quy định về chính
sách đối với kinh tế cá thể; Nghị định 28/HĐBT/1988 quy định về chính sách đối với
kinh tế tập thể; Nghị định 29/HĐBT/1988 quy định về chính sách đối với kinh tế kinh
gia đình; Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Luật khuyến
khích đầu tư trong nước (1994), Luật đầu tư nước ngoài (1987) đã tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Đặc biệt trong giai đoạn này có một văn bản pháp luật đặc biệt quan trọng ra
đời kịp thời đáp ứng được những yêu cầu đổi mới đó là Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của Việt Nam. Những vấn đề được
Hiến pháp ghi nhận có giá trị pháp lý cao nhất. Trong Hiến pháp (1992) chưa có điều
khoản cụ thể quy định trực tiếp về phát triển loại hình DNNVV nhưng Điều 21 đã quy
định rõ “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động
trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh”. Hiến pháp (1992) tiếp tục
đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở rộng các hình thức tổ chức sản xuất
cho doanh nghiệp, không kể doanh nghiệp tư nhân hay quốc doanh đều được khuyến
khích thành lập và phát triển. Quy định này đã tạo tiền đề cho DNNVV phát triển, cho



×