Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế lào một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.09 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------  ---------------

HATSADY PHANTHAKEO

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ LÀO
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số

: 60.38.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. NGUYỄN THANH TÂM

HÀ NỘI - 2012


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất, sâu sắc nhất tới cô giáo, Tiến sĩ
Nguyễn Thanh Tâm người đã tận tâm chỉ bảo giúp đỡ em trong suốt quá trình


viết bài; thầy giáo, Tiến sĩ Nông Quốc Bình trong quá trình giúp em lựa chọn
đề tài. Nhờ sự động viên, chỉ bảo của thầy cô, mà em đã hoàn thành luận
văn này.
Em xin cảm ơn tất cả các thầy cô, bạn bè Việt Nam đã động viên, giúp
đỡ em trong mọi vấn đề. Em xin cảm ơn gia đình đã tạo điều kiện tốt nhất cho
em an tâm làm luận văn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời thực hiện
Hatsady Phanthakeo

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

CHDCND Lào: Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
CISG

: United Nations Convention on Contracts for the International
Sales of


Goods

: Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế

INCOTERMS : International Commercial Tems - Các điều kiện thương mại
quốc tế (Các điều kiện cơ sở giao hàng trong mua bán hàng
hóa quốc tế)
UNIDROIT

: International Institute for the Unification of Private Law-Viện
quốc tế thống nhất luật tư

WTO

: World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới.

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU

CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ ....................... 5
1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ....................................... 5
1.2. Xác định “tính quốc tế” của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ........... 6
1.3. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đối với sự phát triển
kinh tế của Lào .......................................................................................... 9
1.4. Đặc trưng cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ................... 10
1.4.1. Về chủ thể của hợp đồng ................................................................ 10
1.4.2. Về đối tượng của hợp đồng ............................................................. 11
1.4.3. Luật áp dụng ................................................................................... 13
1.5. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế .................. 13
1.5.1. Pháp luật quốc gia ........................................................................... 13
1.5.2. Các điều ước quốc tế điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế .............................................................................................. 15
1.5.3. Tập quán thương mại quốc tế ......................................................... 18
1.5.4. Án lệ ................................................................................................ 19
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ Ở LÀO ............................................ 24
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật .......................................................... 24
2.1.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế .... 24
2.1.2. Các trường hợp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế vô hiệu ....... 32
2.2. Các quy định về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế .......36
2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng .............................................................. 36
2.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ............................................ 37
2.2.3. Thời hạn và địa điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế .............................................................................................. 38

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

2.3. Các quy định về thực hiện hợp đồng ...................................................... 40
2.3.1. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ..... 40
2.3.2. Nghĩa vụ của bên bán ...................................................................... 41
2.3.3. Nghĩa vụ của bên mua ..................................................................... 43
2.3.4. Thời điểm chuyển dịch rủi ro .......................................................... 45
2.3.5. Thời điểm chuyển quyền sở hữu ..................................................... 45
2.3.6. Trường hợp các bên không thực hiện hợp đồng ............................. 46
2.3.7. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm ............................................. 48
2.4. Thực tiễn tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của
Lào .......................................................................................................... 50
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CHDCND LÀO VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HOÁ QUỐC TẾ ........................................................................................... 54
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật CHDCND Lào về hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế ...................................................................... 54
3.2. Những phương hướng hoàn thiện pháp luật Lào về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế .............................................................................. 55
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật CHDCND Lào về hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế ............................................................. 56
3.3.1. Cần ban hành một văn bản pháp lý riêng, điều chỉnh về vấn đề
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế một cách cụ thể ..................... 56
3.3.2. Chủ thể giao kết hợp đồng .............................................................. 57
3.3.3. Vấn đề giao kết hợp đồng ............................................................... 59
3.3.4. Các nguyên tắc trong giao kết, thực hiện hợp đồng ....................... 60
3.3.5. Phân loại hợp đồng ......................................................................... 60

3.3.6. Trường hợp không thực hiện đúng hợp đồng ................................. 61
KẾT LUẬN ................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 66

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

1

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế của
một quốc gia muốn tồn tại và phát triển không chỉ dựa vào sức mạnh bên
trong của quốc gia ấy mà còn tranh thủ các tiềm lực bên ngoài.
Đại hội Đảng nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VI năm 1986 đã đánh
dấu bước ngoặt mới đối với nền kinh tế Lào. Đại hội đã đề ra những quyết
sách có ý nghĩa lớn lao, làm cơ sở cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ đổi
mới. Nội dung cơ bản của chính sách đổi mới kinh tế đất nước là việc phát
triển các nguồn lực góp phần chuyển nền kinh tế Lào từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động mua bán hàng hoá đã ra đời và phát triển từ rất sớm, nhưng
chủ yếu là mua bán hàng hoá trong nước. Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, sự giao lưu, buôn bán giữa các nước trên thế giới đang ngày càng được

mở rộng, trong đó hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế đã trở thành hoạt
động quan trọng, kết nối các quốc gia với nhau. Hơn bao giờ hết, phải ý thức
được tầm quan trọng của hoạt động này, bởi lẽ nó không chỉ là động lực thúc
đẩy mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia mà nó còn là nhân tố không nhỏ
góp phần phát triển tiềm năng trong nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của Lào.
Chính bởi tầm quan trọng to lớn đó của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế, CHDCND Lào luôn xác định việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một điều cần thiết. Vấn đề đặt ra là
xây dựng hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đồng bộ,
chặt chẽ và hợp lý, để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hoạt động mua bán

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

2

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

hàng hoá quốc tế, nhưng phải đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế, đáp
ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 1990, Lào đã ban hành Luật hợp đồng. Đây được coi là cơ sở
pháp lý cơ bản điều chỉnh giao dịch mua bán hàng hoá, trong đó có mua bán
hàng hoá quốc tế. Tuy nhiên, trước sự phát triển của nền kinh tế, Luật hợp
đồng 1990 đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, vì vậy, năm 2008, pháp luật Lào đã
có những thay đổi cơ bản, sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật hợp đồng

1990. Mặc dù đã có nhiều bổ sung, nhưng trước yêu cầu của thực tiễn, Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật hợp đồng 1990 vẫn còn bộc lộ nhiều
điểm hạn chế, chưa tạo ra khuôn khổ pháp lý chặt chẽ cho các chủ thể kinh
doanh trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Chính vì nhận thức được
tầm quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và những vấn đề còn
bất cập trong quy định của pháp luật về lĩnh vực này, đề tài: “Hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế Lào - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” mang tính cấp
thiết không chỉ về lý luận mà cả thực tiễn, không chỉ góp phần giúp người đọc
hiểu hơn về quy định hiện hành của pháp luật, mà còn góp phần xây dựng và
hoàn thiện pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của nền
kinh tế Lào.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đối với nền kinh tế đặc thù như Lào, việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh
tế từ nông nghiệp thuần tuý sang công nghiệp, từ sản xuất nhỏ lẻ sang nền
kinh tế thị trường, đòi hỏi một hệ thống pháp luật chặt chẽ làm cơ sở cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam, vấn đề hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, cụ thể như: Đề tài khoa
học cấp trường “Pháp luật về mua bán hàng hoá quốc tế của Việt Nam - Sự
phát triển và hoàn thiện trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế” của TS. Nông
Quốc Bình (2002); Luận văn “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế” của
Lương Thị Yến (2007); Luận văn “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế -

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

3


ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thu Trang (2010). Ở Lào
cũng đã có công trình nghiên cứu về chủ đề này, cụ thể là: “Hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế theo pháp luật CHDCND Lào” của Soulivanh
Phommachit. Như vậy, lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Lào đang
còn là lĩnh vực “mở” để các nhà nghiên cứu tập trung phân tích, tìm hiểu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích, nhiệm vụ của luận văn là nghiên cứu và làm rõ:
- Những vấn đề lý luận của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hiểu
được khái niệm, đặc điểm, các vấn đề lý luận cơ bản nhất về loại hợp đồng này;
- Đánh giá được thực trạng quy định của pháp luật;
- Từ đó đưa ra những giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật Lào về vấn đề hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Lào
về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, những vấn đề lý luận liên quan đến
các quy định này, cũng như thực trạng các quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
do phạm vi nghiên cứu rộng nên tác giả chỉ tập trung phân tích những vấn đề
mang tính lý luận chung và một số quy định cơ bản, mà không đi vào cụ thể
từng loại hợp đồng riêng biệt.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào trong sự
nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận
văn đã sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, bên cạnh đó
còn sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh với pháp luật các nước, pháp luật
đã tồn tại trong những thời kỳ trước, để từ đó có thể đánh giá được quy định
hiện hành của pháp luật.


HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

4

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6. Những điểm mới của luận văn
Dự kiến luận văn đạt được một số điểm mới sau:
- Thứ nhất, trình bày được những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán
hang hoá quốc tế, giúp người đọc hiểu được bản chất pháp lý của loại hợp
đồng này.
- Thứ hai, thể hiện được hệ thống pháp luật hiện hành của Lào điều
chỉnh giao dịch hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, các điều ước quốc tế và
sự đa dạng của chúng.
- Thứ ba, chỉ ra được những điểm hạn chế trong các quy định của pháp
luật về vấn đề hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của Lào, khi so sánh với
quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá của một số quốc gia.
- Thứ tư, trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật, tác giả mạnh
dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế

Chương 2: Một số vấn đề thực tiễn về pháp luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế Lào.

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

5

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Quan hệ hợp đồng là một loại quan hệ phổ biến trong đời sống xã hội,
đã hình thành từ thời xa xưa, theo đó, căn cứ vào hợp đồng, các bên xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ nào đó. Như vậy, hợp đồng là sự
thoả thuận của các bên, có thể được thực hiện dưới hình thức lời nói hay văn
bản hoặc có thể là hành vi. Có rất nhiều loại hợp đồng khác nhau, trong đó
hợp đồng mua bán hàng hoá là một loại hợp đồng điển hình, mang những đặc
điểm cơ bản nhất của hợp đồng nói chung.
Pháp luật Lào không đưa ra khái niệm cụ thể nào về hợp đồng mua bán
hàng hoá. Tuy nhiên, Điều 3 Luật hợp đồng 1990 sửa đổi, bổ sung năm 2008
quy định: “Hợp đồng là sự thoả thuận xác lập quyền và nghĩa vụ các bên”,

mà hợp đồng mua bán hàng hoá, về bản chất, là hợp đồng có đối tượng là
hàng hóa, nên ta có thể định nghĩa hợp đồng mua bán hàng hoá như sau:
Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự thoả thuận giữa các bên trong đó ít
nhất một bên là thương nhân, về việc xác lập quan hệ mua bán hàng hoá,
theo đó, bên người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu cho bên
mua và nhận tiền thanh toán, còn người mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên
bán, nhận hàng và chuyển quyền sở hữu theo sự thoả thuận.
Trước sự phát triển kinh tế quốc tế và sự hội nhập sâu rộng giữa các
nước trên thế giới, thì hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế càng phát triển và
trở nên phổ biến. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn có nhiều tên gọi
khác, ví dụ: hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng xuất nhập khẩu, hợp
đồng mua bán với thương nhân nước ngoài… Hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế là hợp đồng có nét đặc trưng so với các hợp đồng thông thường. Chủ

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

6

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường là thương nhân đến từ các
nước khác nhau, và việc giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng được điều
chỉnh bằng pháp luật của nhiều nước khác nhau, vì vậy có thể nói đây là một
loại hợp đồng tương đối phức tạp. Chính vì vậy, điều quan trọng đặt ra là xác
định “tính quốc tế” của hợp đồng này như thế nào.

1.2. Xác định “tính quốc tế” của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế
Điểm khác biệt cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế với các
loại hợp đồng khác chính là “tính quốc tế” của nó. Để xác định “tính quốc tế”
của hợp đồng, có thể căn cứ vào nhiều loại nguồn, trong đó có Công ước La
Hay 1964 và Công ước Viên 1980. Nhìn chung, các công ước này đều xác
định “tính quốc tế” dựa trên yếu tố lãnh thổ, hay chính là địa điểm hoạt động
thương mại của thương nhân. Công ước La Hay 1964 là công ước đầu tiên
xác định “tính quốc tế” của hợp đồng mua bán hàng hoá dựa trên tiêu chí này.
Theo Điều 1 Công ước La Hay, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được ký
kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác
nhau, đồng thời có thêm một trong số điều kiện sau:
a. Hợp đồng liên quan đến tài sản mà trong thời gian ký kết hợp đồng,
tài sản đó được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc
gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác.
b. Khi mà hành vi thể hiện sự chào hàng và chấp nhận chào hàng được
thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau;
c. Khi việc giao hàng phải được thực hiện ở các quốc gia khác nhau,
mà không phải là nơi thực hiện hành vi chào hàng hoặc hành vi chấp nhận
chào hàng.
Như vậy, theo quy định của Công ước La Hay 1964, một hợp đồng mua
bán hàng hoá chỉ được coi là có “tính quốc tế” khi các bên ký kết hợp đồng có
trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và thoả mãn một trong các điều kiện

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


7

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

nêu trên. Tuy nhiên, điều kiện thứ hai trong Công ước La Hay chỉ mang tính
nguyên tắc và không phù hợp với thực tế. Cụ thể, ở điều kiện đầu tiên, tài sản
phải được chuyên chở qua lãnh thổ của các quốc gia. Như vậy, nếu trước thời
gian ký kết, hàng hoá đã được vận chuyển sẵn, và trong thời gian ký kết, hàng
hoá đang ở kho bãi, trên lãnh thổ quốc gia của một bên ký kết, thì hợp đồng
đó sẽ còn có “tính quốc tế” nữa không? Theo điều kiện thứ hai, chào hàng và
chấp nhận chào hàng phải được thực hiện trên các lãnh thổ quốc gia khác
nhau. Như vậy, ví dụ các thương nhân của các quốc gia khác nhau gặp nhau
trong các buổi giao lưu, hội nghị trên lãnh thổ một quốc gia và đặt lời chào
hàng, lời chấp nhận chào hàng với nhau ở quốc gia đó, thì theo Công ước La
Hay, hợp đồng mua bán đó, dù đã thoả mãn các điều kiện về chủ thể mua bán,
nhưng vẫn không được coi là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Chính vì
những tiêu chí xác định “tính quốc tế” của hợp đồng trong Công ước này còn
chồng chéo, không phù hợp với thực tế, nên mặc dù Công ước được thông
qua từ năm 1964, nhưng vẫn không được áp dụng rộng rãi.
Công ước Viên 1980 có những quy định linh hoạt hơn. Công ước này
không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, nhưng lại đưa ra dấu hiệu để xác định “tính quốc tế” của loại hợp đồng
này. Cụ thể, Điều 1 Công ước quy định:
“1. Hợp đồng này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa
các bên có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau…
3. Không yếu tố nào trong các yếu tố về quốc tịch của các bên, đặc
điểm dân sự hay thương mại của các bên hoặc của hợp đồng được xét tới
trong việc xác định áp dụng của Công ước này” [6].
Quy định trên cho thấy sự linh hoạt của Công ước Viên 1980 so với

Công ước La Hay 1964. Cụ thể: một mặt, cũng giống như Công ước La Hay
1964, Công ước Viên lấy tiêu chí trụ sở kinh doanh của các bên để xác định
“tính quốc tế”; mặt khác, Công ước Viên coi đây là tiêu chí cơ bản và duy

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

8

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

nhất, đồng thời nhấn mạnh không sử dụng thêm bất kỳ yếu tố nào khác để xác
định “tính quốc tế” của hợp đồng, ngay cả những yếu tố như quốc tịch của các
bên, tính chất của hợp đồng… Như vậy, một hợp đồng mặc dù được ký kết
bởi hai cá nhân có quốc tịch Lào, nhưng nếu các cá nhân đó đại diện cho các
công ty có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau, thì vẫn được coi là
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Hoặc một hợp đồng được chào hàng và
chấp nhận chào hàng tại một quốc gia và thậm chí ở thời điểm ký kết hợp
đồng, hàng hoá đó chỉ tồn tại ở một quốc gia, nhưng hợp đồng đó do các chủ
thể có các trụ sở thương mại ở hai quốc gia khác nhau ký kết, thì hợp đồng đó
vẫn đảm bảo “tính quốc tế”.
Qua việc phân tích quy định nêu trên của công ước Viên 1980, ta có thể
giải thích vì sao Công ước Viên 1980 lại được áp dụng rộng rãi và phổ biến
đến vậy.
Cũng giống như Luật thương mại Việt Nam, Luật thương mại 2005 của
Lào, Luật hợp đồng 1990 và sửa đổi và bổ sung năm 2008 cũng không đưa ra

một khái niệm chính thức nào về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Khoản
2 Điều 1 Luật hợp đồng chỉ quy định về hợp đồng mua bán nói chung, mà
không có sự phân biệt giữa hợp đồng mua bán trong nước với hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế. Nghị định số 205/2001/NĐ-CP về quản lý xuất nhập
khẩu cũng không đưa ra khái niệm nào về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 1 Nghị định 205 quy định: “Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới hình thức xuất khẩu, nhập khẩu”. Vì
vậy, Nghị định này chỉ quy định, hướng dẫn về quyền và nghĩa vụ của các
bên xuất khẩu, nhập khẩu. Mặt khác, pháp luật Lào cũng không có sự phân
biệt giữa biên giới hải quan với biên giới quốc gia, vì vậy khái niệm xuất
khẩu, nhập khẩu chỉ được hiểu một cách đơn thuần là dịch chuyển hàng hoá
từ Lào sang quốc gia khác hoặc ngược lại, mà không quy định vấn đề dịch
chuyển hàng hoá trong khu chế xuất. Trong khi trên thực tế, các quyền và

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

9

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

nghĩa vụ của thương nhân khi dịch chuyển hàng hoá ra hoặc vào khu chế xuất
cũng giống như hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là một điểm chưa hoàn thiện
trong pháp luật Lào.
1.3. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đối với sự
phát triển kinh tế của Lào

Trong giai đoạn hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng như hiện nay,
các quốc gia không ngừng hợp tác và phát triển, trong đó vấn đề chủ chốt là
phát triển kinh tế; vì vậy hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đóng một vai
trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia nói riêng và thế giới nói chung.
Thực tế, mỗi quốc gia trên thế giới có một lợi thế riêng của mình, không một
quốc gia nào muốn phát triển mà không có sự giao lưu, thông thương với
quốc gia khác. Lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại cho thấy, các
“công xưởng thế giới”, các cường quốc hiện nay có được nền kinh tế phát triển
là do gắn liền với giao lưu buôn bán, mở rộng thị trường tới các nước khác.
Thứ nhất, sự phát triển của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế góp
phần bổ sung, đa dạng hoá hàng hoá trong nước, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
người dân, từ đó thúc đẩy nền công-nông nghiệp trong nước phát triển theo,
để cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài.
Thứ hai, góp phần tiếp thu khoa học kỹ thuật từ các nước tiên tiến trên
thế giới, đặc biệt là khi Lào đang là một nước kém phát triển, khoa học công
nghệ lạc hậu, yếu kém.
Thứ ba, góp phần khai thác các tiềm năng sẵn có ở trong nước. Cụ thể
là: thế mạnh về nông sản, lâm sản, khoáng sản ở Lào. Sau nhiều năm chiến
tranh, Lào đi lên xây dựng nền kinh tế đất nước với xuất phát điểm thấp,
chính vì vậy, việc sử dụng các tài nguyên, tận dụng các thế mạnh trong nước
là điều vô cùng quan trọng, đem về nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất nước,
cân bằng cán cân xuất nhập khẩu.

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


10

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Thứ tư, với việc mở rộng giao lưu buôn bán quốc tế, hình ảnh đất nước
Lào sẽ được bạn bè thế giới biết đến nhiều hơn; đặc biệt sẽ xây đắp mối quan
hệ của Lào với các nước, nâng cao vị thế của Lào trên trường quốc tế.
1.4. Đặc trƣng cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Để thấy được đặc điểm nổi bật của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, ta cần đặt chúng trong sự tương quan so sánh với hợp đồng mua bán hàng
hoá thông thường. Cụ thể như sau:
1.4.1. Về chủ thể của hợp đồng
Chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là các thương
nhân. Thông thường, theo pháp luật các nước, thương nhân bao gồm hai loại
cơ bản, đó là thể nhân và tổ chức kinh tế. Thương nhân là thể nhân phải là
một cá nhân hoạt động thương mại riêng biệt, độc lập. Thương nhân là tổ
chức kinh tế nghĩa là thương nhân đó là một tổ chức hợp pháp, có cơ cấu chặt
chẽ, tiến hành hoạt động thương mại, ký kết hợp đồng thương mại thông qua
người đại diện hoặc người được uỷ quyền một cách hợp pháp.
Theo quy định của các công ước quốc tế được đề cập ở trên, thì thương
nhân trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải có trụ sở thương mại đặt
ở các quốc gia khác nhau.
Trụ sở thương mại được hiểu là nơi thường xuyên tiến hành các hoạt
động thương mại của thương nhân, hoặc là nơi đặt cơ quan điều hành của
thương nhân. Nhưng trên thực tế, có thương nhân có nhiều trụ sở thương mại
và các trụ sở này đặt ở nhiều nước khác nhau, vì vậy, việc xác định đâu là trụ
sở kinh doanh để xác định “tính quốc tế” cho thương nhân là điều khá phức
tạp. Công ước Viên 1980 cũng đã có những quy định điều chỉnh vấn đề này.
Cụ thể, Điều 10 Công ước quy định: trong trường hợp này cần phải chú ý đến
trụ sở có liên quan mật thiết đến hợp đồng, và nếu các bên không có trụ sở, thì

phải xác định theo tiêu chí địa điểm thường trú của họ.

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

11

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

1.4.2. Về đối tượng của hợp đồng
Đối tượng hợp đồng là cái mà các bên hướng đến khi thực hiện hợp
đồng. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, đối tượng của hợp đồng
chính là hàng hoá. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hàng hoá phải
là sản phẩm, là kết tinh của sức lao động, sau đó được đưa vào lưu thông, trao
đổi, mua bán. Hàng hoá có thể bao gồm hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô
hình. Hàng hoá hữu hình như gạo, ngô, rau quả…, hàng hoá vô hình như
quyền sở hữu trí tuệ.
Pháp luật của các nước trên thế giới cũng có những quy định khá rõ
ràng về khái niệm “hàng hoá”. Cụ thể, theo Bộ luật thương mại Hoa Kỳ, hàng
hoá có nghĩa là “tất cả các tài sản (bao gồm cả những hàng hoá được sản
xuất đặc biệt) là động sản, tại thời điểm tham gia hợp đồng mua bán, khác
hơn tiền mà giá cả phải được trả, chứng khoán, đầu tư và những quyền vô
hình khác. Hàng hoá cũng bao gồm những gia súc chưa ra đời, cây trồng và
những tài được nhận biết khác gắn liền với bất động sản như được mô tả
trong phần nói về hàng hoá được tách rời từ bất động sản”. Pháp luật
Australia và New Zealand quy định: “hàng hoá là động sản hữu hình, không

phải là tài sản vô hình và tiền, bao gồm cả mùa màng hoa lợi và những vật
gắn liền với đất và tạo thành một phần của đất mà được thoả thuận tách rời
khỏi đất trước khi bán”. Đó là các khái niệm về hàng hoá, được pháp luật các
nước quy định theo cách khác nhau trong văn bản pháp luật nước mình. Tuy
nhiên, theo Điều 2 Công ước Viên 1980, cách hiểu về hàng hoá trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế lại bị thu hẹp phạm vi, theo đó hàng hoá
trong mua bán quốc tế bao gồm:
a) Các hàng hoá dùng cho cá nhân, gia đình, nội trợ…;
b) Bán đấu giá;
c) Để thi hành án hoặc thực hiện bởi các cơ quan công quyền;
d) Các cổ phiếu, cổ phần, chứng chỉ đầu tư, quỹ đầu tư, các công cụ
chuyển nhượng hoặc tiền;
HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

12

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

e) Tàu thuỷ, máy bay, các phương tiện chạy trên đệm không khí;
f) Điện năng.
Như vậy, Công ước Viên 1980 không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào
về hàng hoá trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, mà chỉ dùng phép liệt
kê để liệt kê các đối tượng nêu trên. Do đó, chỉ những đối tượng nào được liệt
kê ở trên mới được coi là “hàng hoá” trong hợp đồng mua bán quốc tế được
Công ước Viên điều chỉnh. Như vậy, “hàng hóa” thuộc phạm vi điều chỉnh

của Công ước phải là tài sản hữu hình, không bao gồm các quyền tài sản.
Bên cạnh đó, pháp luật mỗi quốc gia còn có những quy định khác nhau
về hàng hoá được phép mua bán ở phạm vi quốc tế. Điều đó nghĩa là không
phải mọi hàng hoá như đã liệt kê ở trên đều thỏa mãn điều kiện để trở thành
hàng hoá trong hợp đồng quốc tế, mà chỉ những hàng hoá nằm trong danh
mục được phép của quốc gia mới đựơc coi là hàng hoá trong hợp đồng quốc
tế. Trong khi đó, pháp luật mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau về
danh mục hàng hoá trong hợp đồng quốc tế. Có những hàng hoá ở quốc gia
này là hàng hoá được xuất nhập khẩu, nhưng ở quốc gia khác lại bị cấm xuất
nhập khẩu. Sở dĩ có sự quy định khác nhau đó là do chính sách phát triển kinh
tế-xã hội, chủ trương đường lối và mục đích bảo hộ ở mỗi quốc gia và cam
kết khác nhau trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, các quốc gia trên thế giới đã
ký kết các điều ước quốc tế, trong đó quy định về hạn ngạch xuất nhập khẩu,
về chất lượng sản phẩm… Nếu hàng hóa không đáp ứng được yêu cầu về vệ
sinh an toàn thực phẩm, về điều kiện kỹ thuật, ví dụ như hàm lượng chất bảo
quản, hàm lượng chì… thì sẽ không được xuất, nhập khẩu vào quốc gia khác
cùng tham gia Công ước. Do vậy, phạm vi được phép lưu thông của hàng hoá
quốc tế được quy định rất chặt chẽ, phải tương ứng với chính sách của quốc
gia và các tiêu chuẩn quốc tế.
Như vậy, hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế phải là hàng hóa thuộc danh mục được phép mua bán, xuất nhập khẩu của
quốc gia và phải thoả mãn quy định về kỹ thuật cũng như vệ sinh.
HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

13


ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

1.4.3. Luật áp dụng
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, thông thường sẽ có nhiều
hệ thống pháp luật có thể được áp dụng cho hợp đồng. Xuất phát từ việc hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế do các bên có trụ sở ở các quốc gia khác nhau
ký kết, mà mỗi quốc gia lại có một hệ thống pháp luật riêng, thêm vào đó là
sự tồn tại các điều ước quốc tế, như vậy, hợp đồng có thể chịu sự điều chỉnh
của ít nhất ba hệ thống pháp luật, đó là chưa kể đến việc các bên thoả thuận
áp dụng pháp luật nước khác, hoặc hợp đồng được ký kết ở quốc gia khác
không phải là nơi có trụ sở của hai bên. Ví dụ: Hợp đồng mua bán gạo giữa
hai doanh nghiệp của Việt Nam và Lào được ký kết tại Campuchia. Trong
hợp đồng có thoả thuận việc giao hàng theo điều kiện của INCOTERMS
2000. Như vậy, hợp đồng này có thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt
Nam, pháp luật Lào, pháp luật Campuchia và các điều kiện giao hàng cơ sở
được quy định trong INCOTERMS 2000.
1.5. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, việc tìm hiểu nguồn luật
áp dụng có vai trò vô cùng quan trọng, bởi với mỗi nguồn luật khác nhau,
quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong hợp đồng sẽ khác nhau. Vì vậy,
phải tìm ra hệ thống luật áp dụng cho phù hợp để đảm bảo quyền lợi của các
bên, và phù hợp với pháp luật quốc tế. Hiện nay, hệ thống nguồn luật áp dụng
cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bao gồm: pháp luật quốc gia, các điều
ước quốc tế song phương và đa phương, tập quán thương mại quốc tế và án lệ.
1.5.1. Pháp luật quốc gia
Luật quốc gia được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
khi các bên trong hợp đồng thoả thuận với nhau việc áp dụng, hoặc khi điều
ước quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật quốc gia, hoặc khi không có
điều ước quốc tế có liên quan điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ. Pháp

luật quốc gia ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm pháp luật nước bên

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

14

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

bán, pháp luật nước bên mua và pháp luật nước thứ ba. Tuỳ vào thoả thuận
giữa các bên trong hợp đồng, mà có thể áp dụng pháp luật nước bên nào. Trên
thực tế, pháp luật các nước về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có nhiều
nét tương đồng.
So với Việt Nam và các nước khác trên thế giới, pháp luật nước
CHDCND Lào về vấn đề hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ra đời muộn
hơn và chưa quy định rõ ràng. Luật hợp đồng của Lào được ban hành năm
1990 với 4 chương, 54 điều luật, nhưng chủ yếu điều chỉnh vấn đề mua bán
hàng hoá trong nước. Năm 2008 sửa đổi bổ sung Luật hợp đồng, mở rộng
phạm vi điều chỉnh bao gồm cả hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước và
quốc tế. Luật thương mại 2005 điều chỉnh hoạt động thương mại giữa các bên
chủ thể, và mua bán hàng hoá quốc tế cũng là một hoạt động thương mại.
Luật dân sự 2005 được coi là “luật gốc” điều chỉnh mọi giao dịch, do đó cũng
điều chỉnh loại hợp đồng này. Bên cạnh đó, có Nghị định số 205/2001/NĐ-CP
hướng dẫn hoạt động xuất nhập khẩu; Thông tư số 1691/2005/TT-CP hướng
dẫn quy trình và thủ tục dịch chuyển hàng hoá. Đây là những văn bản pháp
luật hiện hành ở Lào điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.

Pháp luật nước ngoài: Bên cạnh việc áp dụng pháp luật quốc gia của
các bên trong hợp đồng, thì các bên có thể áp dụng pháp luật nước ngoài.
Pháp luật nước ngoài này được hiểu là pháp luật của nước thứ ba, không phải
là nước các bên đóng trụ sở. Việc áp dụng pháp luật này có thể do các bên
thoả thuận, hoặc do sự dẫn chiếu luật theo nguyên tắc của tư pháp quốc tế, ví
dụ: áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng… Khi áp
dụng pháp luật nước ngoài, điều kiện đặt ra là pháp luật đó phải không trái
với các nguyên tắc pháp luật của nước có toà án áp dụng, không xâm phạm
trật tự công cộng của quốc gia liên quan. Hơn nữa, việc giải thích, xác định
nội dung văn bản luật đó phải giống như việc giải thích, áp dụng ở quốc gia
ban hành nó, có như vậy mới đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của văn bản
pháp luật.
HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

15

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

1.5.2. Các điều ước quốc tế điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
Trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế, có một số điều ước quốc tế
điều chỉnh, cụ thể là: Công ước Viên năm 1980, Công ước La Hay năm 1964,
Công ước Rô-ma năm 1980, và các hiệp định thương mại song phương giữa
các quốc gia.
a) Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Công ước Viên 1980 được coi là Công ước có giá trị pháp lý nhất, được
sử dụng rộng rãi nhất, và được đánh giá cao như vậy là nhờ tính linh hoạt, sát
thực với thực tế của Công ước.
Công ước Viên 1980 còn được gọi là CISG (United Nations
Convention on Contracts for the International Sales of Goods), do Uỷ ban liên
hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo, nhằm áp dụng
thống nhất pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Tính đến thời
điểm hiện nay (tháng 3/2012), Công ước đã có 74 thành viên [23].
Điều 1.1 Công ước quy định phạm vi điều chỉnh như sau:
“Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các
bên có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau:
a) Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước; hoặc
b) Khi các quy tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu tới việc áp dụng luật của
một nước thành viên Công ước này” [6].
Như vậy, nếu hai quốc gia là hai bên trong hợp đồng và đều là thành
viên của Công ước Viên thì dĩ nhiên luật áp dụng sẽ là Công ước Viên. Bên
cạnh đó, nếu như các bên không phải là thành viên Công ước, nhưng thoả
thuận luật áp dụng là Công ước thì vẫn nằm trong phạm vi điều chỉnh của
Công ước. Hoặc nếu các bên thoả thuận áp dụng pháp luật nước thứ ba, có thể
là nước nơi ký kết, nơi thực hiện hợp đồng… và nước thứ ba này lại là thành
viên Công ước, thì cũng dẫn chiếu tới việc áp dụng Công ước Viên. Xuất phát

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

16


ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

từ việc xác định phạm vi điều chỉnh rộng, cùng với quan niệm “tính quốc tế”
trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của Công ước Viên linh hoạt, nên
Công ước này phát huy giá trị trong thực tiễn, được áp dụng rộng rãi trong
quan hệ mua bán hàng hóa giữa các bên. Hiện nay, Lào vẫn chưa là thành
viên của Công ước, tuy nhiên, trong quan hệ thương mại quốc tế, các hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế của Lào không tránh khỏi việc áp dụng Công
ước, vì vậy, pháp luật Lào cần cụ thể hoá các quy định của Công ước vào
pháp luật nước mình.
b) Công ước La Hay năm 1964 về mua bán hàng hoá quốc tế
So với Công ước Viên 1980, Công ước La Hay xuất hiện sớm hơn, với
mục đích tạo sự thuận lợi cho các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế. Tuy nhiên, do việc xác định “tính quốc tế” của hợp đồng, theo Công ước,
khá phức tạp, nên việc áp dụng Công ước trong thực tiễn còn nhiều hạn chế.
Cụ thể, điều kiện thứ nhất để hợp đồng được coi là có “tính quốc tế” là
hợp đồng được ký kết bởi các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau.
Điều kiện thứ hai là hàng hoá được dịch chuyển từ nước này sang nước khác;
hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được lập ở các
nước khác nhau. Vì Công ước quy định phải tồn tại cả hai điều kiện nêu trên,
nên thực tế đã gây khó khăn cho việc xác định “tính quốc tế” của hợp đồng
giữa các bên. Cụ thể, nếu hợp đồng do hai chủ thể có trụ sở thương mại ở hai
nước khác nhau nhưng hàng hoá không được dịch chuyển qua biên giới hai
nước mà hợp đồng được ký kết tại một trong hai quốc gia, thì hợp đồng vẫn
không được chấp nhận là hợp đồng quốc tế. Công ước La Hay quy định hợp
đồng phải tuân thủ pháp luật mà các bên lựa chọn. Nếu không có sự thoả
thuận chọn luật giữa các bên, thì luật áp dụng là luật nước nơi người bán
thường trú, trừ một số trường hợp ngoại lệ như: khi đơn hàng được giao cho
một chi nhánh của người bán thực hiện thì áp dụng luật nước nơi có chi

nhánh; khi đơn hàng được giao cho nước người bán hay đại lý của họ ở nước

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

17

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

người mua thì luật của nước người mua thường trú được áp dụng. Cơ quan có
thẩm quyền có thể xác định luật áp dụng trên cơ sở mối liên hệ chặt chẽ, gắn
bó của hợp đồng với một nước nhất định.
c) Công ước Rô-ma ngày 19/06/1980 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng
Công ước Rôma 1980 được 15 nước châu Âu ký kết tại Rô-ma (Ý).
Công ước đưa ra nguyên tắc: luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế là luật do các bên lựa chọn. Các bên có thể lựa chọn bất cứ hệ thống
pháp luật nước ngoài nào mà không vi phạm các quy phạm mệnh lệnh, thậm
chí có thể lựa chọn hai hay nhiều hệ thống luật khác nhau, nhưng các hệ thống
này điều chỉnh các vấn đề riêng biệt của hợp đồng. Nếu các bên không lựa
chọn luật áp dụng từ trước, thì hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật mà nước
đó có mối quan hệ gần gũi nhất. Tuy nhiên, nếu việc áp dụng pháp luật dẫn
tới việc vi phạm trật tự công cộng, thì các bên có quyền từ chối áp dụng nó.
d) Các hiệp định thương mại song phương
Bên cạnh các điều ước quốc tế đa phương, các hiệp định thương mại
song phương có một vai trò quan trọng, là nguồn luật điều chỉnh trực tiếp, thể

hiện cam kết ý chí của các bên tham gia. Vì vậy, có thể nói các hiệp định
thương mại giữa Lào với các nước có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh
các hợp đồng thương mại quốc tế. Trong các hiệp định thương mại thường ghi
nhận quyền và nghĩa vụ của các bên, đặc biệt là cam kết, các nguyên tắc quốc
tế mà hai bên quốc gia thừa nhận dành cho nhau, một số nguyên tắc điển
hình như nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, nguyên tắc tối
huệ quốc…
Hiệp định thương mại giữa CHDCND Lào và Việt Nam là một trong
những hiệp định quan trọng, được ký kết ngày 13/3/2009. Theo đó, hiệp định
đề cập đến hầu hết các lĩnh vực quan hệ thương mại quốc tế của hai quốc gia
và hướng tới mục tiêu hợp tác kinh tế, đôi bên cùng có lợi. Hiệp định là sự cụ
HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

18

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

thể hoá những ưu đãi mà hai nước đã và đang dành cho nhau, đồng thời tạo
hành lang pháp lý cho các hoạt động thương mại tiếp theo[9].
1.5.3. Tập quán thương mại quốc tế
Tập quán thương mại quốc tế được hiểu là những quy tắc xử sự phổ
biến được hình thành lâu đời trong thực tiễn thương mại quốc tế và được các
chủ thể công nhận giá trị pháp lý. Đó thường là những thói quen diễn ra trong
hoạt động thương mại một cách thường xuyên, liên tục và được các bên thừa
nhận. Mặc dù điều ước quốc tế là hệ thống pháp luật quốc tế quy mô nhất,

điều chỉnh nhiều quan hệ thương mại quốc tế nhất, tuy nhiên, hình thành
trong hoạt động thương mại những thói quen mà người ta không thể bỏ được,
đó là các tập quán thương mại, mà các tập quán này đã góp phần không nhỏ
điều chỉnh các vấn đề mà điều ước quốc tế chưa phát huy được.
Khác với điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế không phải là
một văn kiện pháp lý mà là một hành vi thực tế được lặp đi lặp lại thường
xuyên trên một phạm vi rộng gồm nhiều quốc gia. Thông thường, tập quán
thương mại quốc tế chỉ có giá trị áp dụng trong các trường hợp sau: thứ nhất,
các bên trong hợp đồng thoả thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế, đưa
tập quán đó trở thành điều khoản trong hợp đồng; thứ hai, luật quốc gia áp
dụng trong hợp đồng đó công nhận giá trị của tập quán thương mại quốc tế,
sau khi dẫn chiếu tới luật quốc gia này thì luật quốc gia lại dẫn tới việc áp
dụng các tập quán; thứ ba, khi toà án hay trọng tài thương mại công nhận tập
quán này với tư cách là một nguồn luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong
hợp đồng.
Ngày nay, tập quán thương mại quốc tế không còn được hiểu đơn thuần
là những nguyên tắc thương mại được truyền miệng nữa, với những giá trị
đóng góp không nhỏ vào nguồn luật quốc tế, vì vậy, các tập quán thương mại
đã được ghi nhận một cách rõ ràng và được áp dụng rộng rãi. Thực tế cho
thấy, không phải thói quen thương mại nào cũng được coi là tập quán thương
HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

19

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


mại quốc tế. Các thói quen này phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản, đó là:
thứ nhất, thói quen được nhiều quốc gia áp dụng và áp dụng thường xuyên;
thứ hai, thói quen đó phải có nội dung rõ ràng, xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể đối với nhau.
Hiện nay, một số tập quán thương mại quốc tế sau đây được áp dụng
phổ biến nhằm điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế:
a) INCOTERMS
INCOTERMS - International Commercial Terms, là một trong những
tập quán thương mại thông dụng hiện nay, là các điều kiện giao hàng cơ sở
trong mua bán hàng hóa quốc tế. INCOTERMS được Phòng thương mại quốc
tế (ICC) ban hành năm 1936 và sửa đổi qua các năm 1953, 1967, 1980, 2000
và 2010, nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh giữa các bên, nhưng không có
tính chất áp đặt các quốc gia phải áp dụng, nghĩa là nó chỉ có giá trị đối với
các bên khi được các bên lựa chọn là luật áp dụng.
b) Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế
(PICC)
Bộ nguyên tắc UNIDROIT là tập hợp các nguyên tắc về hợp đồng
thương mại quốc tế nói chung, trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế. Bộ nguyên tắc UNIDROIT được ban hành năm 1994, sửa đổi bổ sung năm
2004, tiếp đó là bản sửa đổi năm 2010. Bộ nguyên tắc này ra đời nhằm đưa ra
một hệ thống pháp luật chứa đựng các giải pháp pháp lý cho các bên trong
hợp đồng. Có thể nói Bộ nguyên tắc là tài liệu tham khảo có giá trị đối với các
bên khi tham gia quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế nói chung và hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng.
1.5.4. Án lệ
Án lệ chủ yếu được áp dụng tại các nước thuộc hệ thống pháp luật
Anh-Mỹ. Ngày nay, không chỉ các nước thuộc hệ thống pháp luật này mới áp
dụng án lệ. Trước xu thế hội nhập pháp luật và hài hoà hóa pháp luật, các


HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

20

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

nước thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, tùy phạm vi và bối cảnh cụ thể
của từng nước, đã đề cao vai trò của án lệ. CHDCND Lào, nước thuộc hệ
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, quan niệm văn bản pháp luật là nguồn luật
chủ đạo, song ngày nay cũng tìm hiểu bổ sung quy định pháp luật bằng việc
nghiên cứu các nguồn luật khác, trong đó có án lệ; biểu hiện cụ thể là việc
thường xuyên tiến hành tổng kết công tác xét xử hàng năm để rút ra những
kinh nghiệm trong quá trình xét xử, đưa các bản án trở thành công cụ quan
trọng cho quá trình giải quyết các vụ việc.
Mối quan hệ giữa các nguồn luật
Có thể nói, các nguồn luật có mối quan hệ qua lại, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau. Bởi thực tế, quan hệ pháp luật nói chung và trong lĩnh vực hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng không ngừng mở rộng và phát triển, vì
vậy, một nguồn luật không thể điều chỉnh hết các vấn đề nảy sinh trong lĩnh
vực đó. Do vậy, việc tìm hiểu nhằm kết hợp áp dụng các nguồn luật với nhau
là điều vô cùng quan trọng. Đặc biệt là trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc
tế, pháp luật các quốc gia mặc dù đã có nỗ lực xích lại gần nhau, nhưng điểm
khác biệt vẫn rất lớn, bởi vậy, cần đánh giá được vai trò, vị trí và sự tác động
của các nguồn luật.
Các điều ước quốc tế là hệ thống văn bản pháp luật quy mô nhất, thể

hiện sự nỗ lực gắn kết pháp luật của các quốc gia. Trong các điều ước quốc tế
đã thể hiện sự nhất chí chung của không ít các quốc gia, vì vậy, điều ước quốc
tế mang giá trị pháp lý rất cao. Bên cạnh đó, các tập quán thương mại quốc tế
và án lệ là những nguồn bổ trợ quan trọng trong hoạt động giải quyết các
tranh chấp, và hoàn thiện các điều ước quốc tế. Lĩnh vực mua bán hàng hoá
quốc tế ngày càng phát triển, vì vậy, điều cần thiết là phải sử dụng linh hoạt,
biết kết hợp các nguồn luật với nhau. Trên thực tế, giá trị pháp lý của các
nguồn luật là không giống nhau, nên khi áp dụng các quy định này cũng phải
tiến hành theo những thứ tự ưu tiên. Trước hết, đó là các điều ước quốc tế.

HATSADY PHANTHAKEO

LỚP: CH18


×