Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam về phòng chống tội phạm buôn bán người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.19 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH THỊ THUẦN

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN BÁN NGƯỜI

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Pháp luật quốc tế về phòng chống tội phạm buôn bán người

8


1.1. Khái niệm buôn bán người trong pháp luật quốc tế

8

1.2. Những quy định về phòng chống tội phạm buôn bán người trong pháp

20

luật quốc tế
Chương 2: Phòng chống tội phạm buôn bán người trong pháp luật Việt

34

Nam
2.1. Khái niệm buôn bán người trong pháp luật Việt Nam

34

2.2. Những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về buôn bán người

38

Chương 3: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

52

công tác phòng chống tội phạm buôn bán người ở Việt Nam
3.1. Thực trạng buôn bán người và công tác phòng chống tội phạm buôn

52


bán người ở Việt Nam
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống buôn bán người ở

66

Việt Nam
KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


1

LỜI NÓI ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài:
Buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em là một vấn nạn mang tính
toàn cầu và ngày càng có chiều hướng gia tăng về số vụ, tính chất tội phạm phức
tạp, nguồn lợi nhuận thu được từ hoạt động buôn bán người rất lớn khiến cho
mạng lưới tội phạm này phát triển nhanh, gây hậu quả nghiêm trọng cho cả cộng
đồng quốc tế. Thực tế cho thấy, bọn tội phạm thường lợi dụng những nước, khu
vực có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, chế độ chính trị phức tạp, xã hội bất
ổn, dân trí thấp để tiến hành hoạt động buôn bán người. Các tổ chức tội phạm
buôn bán người ngày càng phát triển và có tổ chức chặt chẽ, tinh vi, hành vi tội
phạm đa dạng và phức tạp, chúng không chỉ buôn bán người để bóc lột tình dục

hay bóc lột sức lao động mà chúng còn tiến hành hoạt động buôn bán người để
lấy bộ phận trong cơ thể người, buôn bán người phục vụ cho mục đích hôn nhân
và nhận con nuôi bất hợp pháp. Trong những năm gần đây tội phạm buôn bán
người còn tiến hành cả hoạt động buôn bán bào thai để lấy tế bào gốc, buôn bán
phụ nữ để thực hiện việc đẻ thuê. Hậu quả của tội phạm buôn bán người gây ra
rất nghiêm trọng, nó xâm hại tới sức khỏe tính mạng của nạn nhân, gây ra những
thiệt hại cho gia đình nạn nhân, gây ra sự hoang mang bất ổn cho xã hội và đe
dọa đến tình hình chung của các quốc gia và cả cộng đồng quốc tế. Mặc dù các
quốc gia đã nhận thức được tính nghiêm trọng của loại tội phạm này và đã đầu
tư nhiều tiền của và nhân lực vào công tác đấu tranh loại bỏ tội phạm này nhưng
hoạt động buôn bán người vẫn tồn tại và có xu thế phát triển mạnh, tính chất tội
phạm nguy hiểm hơn. Trước những diễn biến phức tạp của các loại tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia, Liên hợp quốc đã khuyến nghị tất cả các quốc gia cùng
hợp tác chặt chẽ để đấu tranh loại bỏ tội phạm này.
Trong lịch sử pháp luật quốc tế có rất nhiều văn bản pháp lý đã được
thông qua nhằm điều chỉnh tội phạm buôn bán người nhưng phải đến năm 2000,
khi Liên hợp quốc thông qua Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia và hai Nghị định thư bố sung cho Công ước là Phòng chống buôn bán


2

người và Chống đưa người di cư bất hợp pháp. Với mục đích đây sẽ là khung
pháp lý chuẩn mực quốc tế để cộng đồng quốc tế và các quốc gia cùng áp dụng
vào việc nội luật hóa các quy định trong Công ước và các Nghị định thư, là cơ
sở pháp lý trong đấu tranh ngăn chặn, trừng phạt tội phạm này và bảo vệ nạn
nhân của nạn buôn bán người.
Ở Việt Nam, tệ nạn buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em là một
loại tội phạm nổi cộm trong khoảng 15 năm trở lại đây và đặc biệt là trong 5
năm gần đây thì tội phạm này tăng nhanh về số vụ, tính chất phức tạp, thủ đoạn

tội phạm tinh vi và có sự kết nối với các tổ chức tội phạm ở nước ngoài. Nạn
nhân của loại tội phạm này chủ yếu là phụ nữ và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn,
nhận thức xã hội hạn chế, nhẹ dạ cả tin, dễ bị lừa gạt. Hoạt động của bọn tội
phạm buôn bán người không còn mang tính nhỏ lẻ và địa bàn buôn bán người
không chỉ giới hạn ở trong nội bộ quốc gia nữa mà ngày nay tội phạm này đã
phát triển một cách có tổ chức và có sự cấu kết với các tổ chức tội phạm ở nước
ngoài để thực hiện hành vi phạm tội trong và ngoài nước. Nạn buôn bán người
diễn ra thường xuyên trên các tuyến giữa biên giới Việt Nam với các nước láng
giềng, mỗi năm hàng ngàn phụ nữ và trẻ em bị bán qua các nước, họ bị bóc lột
tình dục, bóc lột sức lao động và có một số không nhỏ những phụ nữ bị bán sang
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc làm vợ. Các cơ quan có thẩm quyền đã bắt
giữ cả những vụ buôn bán nội tạng người và buôn bán bào thai. Hoạt động tội
phạm phức tạp, hậu quả mà tội phạm này gây ra rất nghiêm trọng có ảnh hưởng
xấu trong xã hội, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội. Đảng, Chính Phủ đã
và đang tiến hành nhiều biện pháp, nhiều chương trình, kế hoạch hành động để
phòng ngừa, ngăn chặn và loại phạm này. Trong công tác lập pháp, Nhà nước đã
có mối quan tâm đặc biệt trong việc tạo ra một khung pháp lý để điều chỉnh tội
phạm buôn bán người. Bên cạnh đó, Chính phủ và các cơ quan ban nghành cũng
có nhiều chương trình hành động nhằm góp phần hạn chế hoạt động buôn bán
người. Tình hình tội phạm buôn bán người ngày càng phức tạp, các văn bản
pháp quy trước đây đã bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình vận dụng. Để đáp
ứng đòi hỏi đó, Quốc hội đã tiến hành soạn thảo Dự thảo Luật phòng chống mua


3

bán người và được đưa ra các kỳ họp Quốc hội để lấy ý kiến đóng góp. Phải đến
kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 03 năm 2011 Quốc hội khóa 12, bản dự thảo luật đã
được hoàn thiện và thông qua. Như vậy, để đạo luật này được thực thi và áp
dụng trong thực tiễn thì cần phải có rất nhiều văn bản hướng dẫn của Chính Phủ

cũng như của các cơ quan chức năng. Điều đó có nghĩa là trong thời gian tới
những vấn đề có liên quan đến phòng chống buôn bán người ở Việt Nam vẫn
còn nhiều bất cập chưa được giải quyết triệt để. Với mục đích hoàn thiện hệ
thống pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm buôn bán
người ở Việt Nam và để theo kịp với xu thế chung của pháp luật quốc tế trong
lĩnh vực này, Tác giả đã lựa chọn việc nghiên cứu những quy định của pháp luật
quốc tế về phòng chống tội phạm buôn bán người từ đó đối chiếu sang luật thực
định của Việt Nam về phòng chống buôn bán người. Luận văn đưa ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống buôn bán người ở
Việt Nam.
Nhận thức như vậy, tác giả đã chọn vấn đề :“Pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam về phòng chống tội phạm buôn bán người” làm đề tài luận văn
Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề phòng chống tội phạm buôn bán người, đặc biệt là nạn buôn bán
phụ nữ và trẻ em được một số nhà lý luận và cán bộ hoạt động thực tiễn quan
tâm nên cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu. Trong đó phải kể đến
như:
- Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam: “Chương trình hành động về phòng
chống nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002)”, Nhà xuất bản
Phụ nữ, Hà Nội, 1999.
- Vũ Ngọc Bình: “Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em”, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
- Bộ tư pháp: “Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên
tinh thần các Nghị định thư của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán người và di


4

cư trái phép, bổ sung cho Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ

chức xuyên quốc gia”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004.
- Phạm Hồng Thiết: “Nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm mua bán
phụ nữ qua biên giới của trinh sát Biên phòng tỉnh Lào Cai”, Luận văn Thạc sỹ
luật học, Học viện Biên phòng, 2005.
- Đặng Xuân Khang: “Tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới
Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2007.
- Phùng Tiến Quân: “ Hoạt động phòng ngừa phạm buôn bán người trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang theo chức năng của lực lượng cảnh sát nhân dân”,
Luận văn thạc sỹ luật học. Học viện Cảnh sát nhân dân, 2011.
- Nguyễn Trung Hòa: “Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm buôn
bán người qua biên giới của bộ đội biên phòng tỉnh Hà Giang”, Luận văn thạc sỹ
luật học. Học viện Cảnh sát nhân dân, 2011.
Bên cạnh đó còn một số luận văn thạc sỹ và các công trình nghiên cứu
được đăng trên các tạp chí chuyên nghành như: Công an nhân dân, An ninh thế
giới, Cảnh sát nhân dân, Biên phòng…. ; nhiều buổi hội thảo của các tổ chức và
các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực phòng chống buôn bán người đặc biệt là
buôn bán phụ nữ và trẻ em. Các công trình nghiên cứu và các bài viết trên, bước
đầu đã khái quát được tình hình buôn bán người ở Việt Nam, đồng thời đề cập
đến cơ sở pháp luật về công tác phòng chống tội phạm buôn bán người. Qua đó
nêu ra những bất cập, thiếu sót của hệ thống pháp luật Việt Nam và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.
Do cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau nên các công trình đó
mới chỉ dừng lại ở những góc độ nhất định và vẫn chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ có hệ thống và toàn diện về pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về phòng chống tội phạm buôn bán người.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:


5


Luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến lĩnh vực phòng chống buôn bán người được quy định trong pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Hành vi buôn bán người là một loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm
hại đến quyền con người, trật tự xã hội và an ninh của mỗi quốc gia và của cả
cộng đồng quốc tế. Việc phòng chống tội phạm buôn bán người liên quan đến
nhiều đối tượng được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác nhau. Do đó, trong
khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung vào nghiên cứu, phân tích thực trạng
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam liên quan đến công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm buôn bán người. Từ đó nêu ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm buôn bán
người ở Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu những văn bản pháp luật quốc tế và thực trạng pháp luật
Việt Nam liên quan đến công tác phòng chống tội phạm buôn bán người nhằm
góp phần cung cấp cơ sở lý luận để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Đặc biệt là tác giả mong muốn đóng góp một số ý kiến về Đạo luật phòng chống
buôn bán người vừa được Quốc hội thông qua để Đạo luật này có hiệu quả trong
việc áp dụng trong thực tiễn, góp phần đẩy lùi loại tội phạm này. Bên cạnh đó,
hệ thống pháp luật được hoàn thiện tương đồng với các quy định của pháp luật
quốc tế cũng là một mục đích mà Nhà nước đang có gắng đạt được khi tham gia
vào các quan hệ quốc tế.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của pháp luật quốc tế về phòng chống tội phạm
buôn bán người.



6

-

Phân

tích



sở



luận

của

pháp

luật

Việt

Nam

về phòng chống tội phạm buôn bán người.
- Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về phòng chống tội phạm buôn

bán người.
- Tổng kết lý luận, đánh giá thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm buôn bán người, dự báo tình hình tội phạm buôn bán người trong thời gian
tới. Từ đó, luận văn đề ra phương hướng và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện
pháp luật về phòng chống tội phạm buôn bán người ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .
5.1.Cơ sở lý luận :
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ ghĩa Mac –
Lenin – tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về
pháp luật phòng chống buôn bán người. Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu
trên cơ sở thực tiễn pháp luật quốc tế để hoàn thiện pháp luât về phòng chống tội
phạm buôn bán người ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu .
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của chuyên nghành lý luận nhà nước và pháp luật và các phương pháp
nghiên cứu khác như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn….
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn.
Luận văn là công trình chuyên khảo, nghiên cứu một cách có hệ thống các
quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về phòng chống tội phạm
buôn bán người nên kết quả nghiên cứu của luận văn có những nội dung được
coi là mới, có đóng góp cho khoa học chuyên nghành, cụ thể là:
- Phân tích đánh giá có hệ thống pháp luật quốc tế liên quan trực tiếp đến
phòng chống tội phạm buôn bán người.
- Phân tích đánh giá có hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến phòng
chống tội phạm buôn bán người.


7


- Từ việc phân tích đánh giá pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về
phòng chống tội phạm buôn bán người, để phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế
đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm buôn bán người ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Pháp luật Quốc tế về phòng chống tội phạm buôn bán người.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về phòng chống tội phạm buôn bán người.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật phòng chống tội
phạm buôn bán người ở Việt Nam.


8

Chương 1:

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHỒNG CHỐNG TỘI PHẠM
BUÔN BÁN NGƯỜI.
1.1.KHÁI NIỆM BUÔN BÁN NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ.

1.1.1, Tình hình tội phạm buôn bán người trên thế giới và trong khu vực
Đông Nam Á.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, hành vi buôn bán người đã
xuất hiện từ rất sớm, nó bắt đầu có từ khi xã hội loài người bước vào giai đoạn
phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Khi đó, xã hội bị phân chia
thành nhiều tầng lớp, tầng lớp thấp kém nhất là nô lệ, họ mất quyền tự do, họ
không có tài sản và bị lệ thuộc vào lớp người sở hữu họ. Chính vì vậy người nô
lệ lúc này trở thành một loại hàng hóa để trao đổi mua bán kiếm lời giữa các ông

chủ hay giữa các nhà buôn nô lệ. Việc buôn bán người diễn ra khắp các châu
lục, nhiều nhất là những nhà buôn từ châu Âu, họ buôn những người nô lệ da
đen từ châu Phi sang châu Âu làm nô lệ cho các gia đình quý tộc, cho các xưởng
sản xuất và buôn người da đen sang châu Mỹ phục vụ và lao động trong các đồn
điền. Buôn bán người trong giai đoạn này chủ yếu là với mục đích bóc lột sức
lao động của những người nô lệ là chính, hành vi ấy được coi là hợp pháp không
bị pháp luật ngăn cấm hay trừng phạt. Đến năm 1807 Vương quốc Anh là nước
đầu tiên ban hành sắc lệnh cấm buôn bán người da đen,1 mặc dù chỉ giới hạn
trong phạm vi nước Anh và các nước thuộc địa của Anh nhưng nó là đạo luật
đầu tiên cấm hành vi buôn bán người, bảo vệ người nô lệ.
Trong xã hội tư bản, cùng với sự phát triển của nền sản xuất, quyền con
người được quan tâm, đặc biệt là cuộc đấu tranh giai cấp của người lao động
trên toàn thế giới nhằm mục đích giải phóng con người khỏi sự bóc lột. Hoạt
động buôn bán người chính thức bị coi là hành vi vi phạm pháp luật và cũng từ
1

. Nước Anh kỷ niệm 200 năm ngày ban hành Đạo luật cấm buôn bán người nô lệ và xóa bỏ chế độ nô lệ trên
nước Anh và các nước thuộc địa của Anh.


9

đây bắt đầu xuất hiện các quy định cấm buôn bán người (kể cả nô lệ da đen hay
nô lệ da trắng).
Ngày nay tình trạng buôn bán người là một vấn đề mang tính toàn cầu mà
hầu hết các quốc gia trên thế giới đang quyết tâm ngăn chặn, kiểm soát và làm
giảm thiểu hoạt động buôn bán người. Với nguồn lợi nhuận thu được từ hoạt
động buôn bán người rất lớn (chỉ đứng sau hoạt động buôn bán ma túy) đã khiến
cho các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia quan tâm và phát triển nhanh mạnh
trong thời gian qua. Bọn chúng lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin,

sự đi lại thuận tiện giữa các quốc gia hay giữa các khu vực để tiến hành hoạt
động buôn bán người và mở rộng địa bàn hoạt động. Tình trạng buôn bán người
diễn biến hết sức phức tạp nhất là các khu vực Châu Âu và Châu Á. Tại các
nước Châu Âu, tình trạng buôn bán người gắn liền với tình trạng nhập cư trái
phép. Mặc dù chính phủ các nước châu Âu đã kiên quyết đấu tranh chống lại
tình trạng này bằng các chế tài và các biện pháp rất nghiêm ngặt nhưng hiện
tượng đưa người nhập cư bất hợp pháp và buôn bán người qua biên giới vẫn
không giảm mà có xu hướng ngày càng gia tăng. Đặc biệt ở các nước Trung và
Đông Âu, phụ nữ và trẻ em chiếm phần lớn trong tổng số những người di cư ra
khỏi biên giới quốc gia và trở thành nạn nhân của bọn tội phạm buôn bán người
nhằm khai thác sức lao động, tình dục và cả việc bị lấy đi một hay các bộ phận
cơ thể. Bọn tội phạm chủ yếu buôn bán người từ các nước Ukraine, Belaruts,
Moldova, Bungaria, liên bang Nga …. sang các nước như Ba lan, Hunggary….
để đưa qua các nước thứ ba như Đức, Anh, Pháp, Hà Lan… Trong số đó,
Ukraine được xem là “nguồn hàng sống của Châu Âu”. Tại một số nước châu
Âu, thị trường tình dục rất phát triển và pháp luật của quốc gia đó coi đó như
một hoạt động thương mại đặc biệt. Vì vậy hoạt động khai thác tình dục đang có
xu thế gia tăng ở Châu Âu. Theo thống kê của Tổ chức cảnh sát toàn cầu
Interpol hàng năm có khoảng nửa triệu người nhập cư vào các nước khu vực
Châu Âu, trong số đó chỉ có 25% được giúp đỡ, còn lại họ đều là nạn nhân của
hoạt động buôn bán người.


10

Ở khu vực Châu Phi và Châu Mỹ, một thời gian dài bọn tội phạm buôn
bán người tiến hành hoạt động buôn bán người nhằm cung cấp cho thị trường
lao động là chính nhưng ngày nay mục đích bóc lột sức lao dộng không còn là
vấn đề chính mà chủ yếu việc buôn bán người phục vụ mục đích bóc lột tình
dục, lấy đi bộ phận cơ thể người nhằm thu lợi nhuận lớn. Vào cuối năm 2010

cảnh sát Somali đã bắt giữ đường dây buôn bán nội tạng người xuyên quốc gia
chuyên cung cấp nội tạng người sang các nước châu Âu và Mỹ trong đó đối
tượng phạm tội chủ yếu là công dân của các nước Mỹ, Pháp và Trung Quốc.
Theo lời khai của các đối tượng thì bọn chúng đã tiến hành nhiều vụ và đưa
hàng chục nạn nhân được buôn bán qua một nước thứ ba và tiến hành rao bán
nội tạng cho những người cần mua với giá rất cao.
Ở khu vực Châu Á nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng, tình
trạng buôn bán người đang nổi lên đặc biệt là việc buôn bán phụ nữ và trẻ em
đang rất sôi động. Tại một số quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Phillipine, Việt
Nam, Myamar, Campuchia… Theo thống kê của UNICEF và các tổ chức quốc
tế khác thì Campuchia có khoảng 45.000 gái mại dâm nhưng phần lớn là người
Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan. Trong số đó có khoảng 12% là trẻ em (có cả
trẻ em trai và gái). Ở khu vực Đông Nam Á nạn buôn bán đàn ông diễn ra ít mà
nó chủ yếu diễn ra bởi các công ty môi giới lao động tổ chức đưa người đi xuất
khẩu lao động nhưng họ lại bị bóc lột sức lao động rất nặng nề. Còn một bộ
phận phụ nữ và trẻ em bị buôn bán sang một số nước Châu Âu và Châu Mỹ, Mỹ,
Hàn Quốc… với mục đích hôn nhân trái phép và cho nhận con nuôi bất hợp
pháp…Bọn tội phạm buôn bán người ngày càng sử dụng các thủ đoạn tinh vi và
lợi dụng những nước có nền kinh tế lạc hậu, nhận thức của người dân thấp đặc
biệt là người dân ở vùng nông thôn, miền núi.. để lừa gạt và hứa hẹn giúp họ tìm
việc ở nước ngoài có thu nhập cao hay kết hôn với những người giầu có. Khi đã
đưa được phụ nữ và trẻ em ra khỏi biên giới thì chúng bán ngay cho các nhà
chứa hoặc vận chuyển qua các nước khác tùy vào nhu cầu của từng nước.
Như vậy, tình hình buôn bán người ngày càng diễn biến phức tạp, nó đã
trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Để ngăn chặn tình


11

trạng này đòi hỏi các quốc gia ngoài các biện pháp cụ thể của mình thì vấn đề

hợp tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này là không thể thiếu, nhất là
trong bối cảnh bọn tội phạm xuyên quốc gia liên kết chặt chẽ trong hoạt động tội
phạm của mình và chúng đang ngày càng mở rộng địa bàn hoạt động trên khắp
các nơi, khắp các lục địa.
Lịch sử pháp luật quốc tế đã ghi nhận văn kiện pháp lý đầu tiên đề cập
đến vấn đề này là Nghị quyết hội nghị Viên năm 1815 về chống buôn bán người
da đen của Hội quốc liên. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của cộng đồng quốc tế
bảo vệ quyền của những người da đen, người nô lệ. Tuy nhiên, hoạt động buôn
bán người thu lợi nhuận cao và nó đáp ứng các nhu cầu của xã hội như lao động,
chiến binh, phục vụ… vì thế nạn buôn bán người vẫn không chấm dứt. Bị cấm
buôn bán nô lệ da đen, bọn tội phạm buôn người chuyển qua buôn bán người da
trắng, buôn bán phụ nữ và trẻ em. Chính vì vậy đã có một số văn bản được cộng
đồng quốc tế thông qua nhằm ngăn chặn tệ buôn bán người và bảo vệ quyền của
con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Trước năm 1945, Hội quốc liên đã thông qua các văn kiện pháp lý như:
Công ước về ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ(1910) và Tuyên ngôn Giơnevơ về
quyền trẻ em(1924). Sau đó hai năm, Công ước về nô lệ được ký tại Giơnevơ
(1926). Mặc dù những văn bản này còn có nhiều hạn chế nhưng nó là công cụ
hữu hiệu trong việc ngăn chặn, hạn chế và phòng chống hành vi buôn bán người
của bọn tội phạm trong thời kỳ đó.
Năm 1945, Liên hợp quốc thành lập, vấn đề ngăn ngừa, trấn áp tội phạm
buôn bán người và bảo vệ nạn nhân của việc buôn người cũng rất được cộng
đồng quốc tế quan tâm. Điều đó thể hiện qua việc Liên hợp quốc đã thông qua
một số văn bản pháp lý như: Công ước về trấn áp việc buôn bán người và khai
thác (bóc lột) tình dục người khác (1949), Công ước về đấu tranh chống buôn
bán người và hoạt động mại dâm (1950), Công ước về các quyền chính trị của
phụ nữ (1952), Công ước về loại bỏ hình thức phân biệt đối sử với phụ nữ
(1979)(Việt Nam là thành viên), Công ước về quyền trẻ em (1990) (Việt Nam là



12

thành viên). Công ước về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999) (Việt Nam là thành viên).
Mặc dù tất cả những văn kiện trên là sự cố gắng nỗ lực của cộng đồng
quốc tế trong việc phòng ngừa, ngăn chặn và bảo vệ nạn nhân của tội phạm buôn
bán người nhưng vẫn còn những hạn chế như các văn kiện đưa ra các biện pháp
nhằm bảo vệ quyền con người nhưng lại thiếu cơ chế thi hành pháp luật để truy
cứu và xử lý bọn tội phạm.
Nhận thức được tính nghiêm trọng của hành vi buôn bán người, năm 2000
Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia và các Nghị định thư bổ sung cho Công ước trong đó có Nghị định thư về
chống buôn bán người và Nghị định thư về chống đưa người nhập cư trái phép
bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không.
Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên hợp
quốc ghi nhận tội phạm có tổ chức là một loại tội phạm nghiêm trọng và đang là
vấn đề ngày càng bức xúc đối với mọi quốc gia. Sự ra đời của Công ước rất có ý
nghĩa, nó là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên về phòng chống tội phạm có tổ
chức. Chính vì vậy, mục đích của Công ước là khuyến khích và thúc đẩy hợp tác
quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Công
ước cùng với các Nghị định thư là công cụ pháp lý hữu hiệu để trang bị cho lực
lượng thi hành pháp luật, các cơ quan tư pháp trong quá trình đấu tranh với loại
tội phạm này. Công ước cũng cung cấp những định hướng trong việc phối kết
hợp các chính sách, lập pháp, quản lý và thực thi pháp luật trong đấu tranh
phòng chống tội phạm có tổ chức ở tầm quốc gia. Bên cạnh đó, Công ước cũng
góp phần tiêu chuẩn hóa các thuật ngữ và khái niệm về tội phạm có tổ chức như
“Tổ chức tội phạm”, đây là một định nghĩa lần đầu tiên được cộng đồng quốc tế
thừa nhận. Trong Công ước cũng quy định cụ thể về phòng ngừa, điều tra và
truy tố loại hành vi phạm tội này cũng như các tội phạm nghiêm trọng có yếu tố
xuyên quốc gia liên quan đến tổ chức tội phạm. Tinh thần chung của Công ước

là hợp tác quốc tế mà trong đó dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp là hai quy
định quan trọng trong quá trình hợp tác quốc tế. Công ước cũng đòi hỏi các quốc


13

gia thành viên phải có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ nhân chứng trước mối
đe dọa trả thù, bao gồm cả những biện pháp bảo vệ thân thể, thay đổi chỗ ở, bí
mật nhận dạng …. Công ước cũng kêu gọi các quốc gia cùng hợp tác hỗ trợ các
quốc gia khác trong đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức như: hợp tác hỗ
trợ về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, tài chính, pháp luật …
Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em là một nghị định thư quan trọng bổ sung cho Công ước
của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Nghị định thư
ra đời nhằm phòng ngừa và chống tội phạm buôn bán người và thúc đẩy hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực này vì nghị định thư đã xác định được những vấn đề liên
quan đến buôn bán người thường dẫn đến việc đối xử vô nhân đạo, hạ thấp(xúc
phạm) nhân phẩm và các hình thức bóc lột nguy hiểm khác đối với nạn nhân.
Cũng như trong Công ước, Nghị định thư đã cố gắng chuẩn hóa các khái niệm,
các quy định pháp lý và đưa ra các hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này mà
quốc gia thành viên nên làm để ngăn chặn loại tội phạm này. Nghị định thư đã
đưa ra định nghĩa về “Buôn bán người” với sự thống nhất và được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Nội dung của Nghị định thư bao gồm những quy định về việc
áp dụng các biện pháp phòng ngừa, điều tra và truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với các hành vi buôn bán người cũng như trong việc bảo vệ nạn nhân. Đồng
thời, Nghị định thư cũng bổ sung thiếu khuyết cho những văn kiện pháp lý trước
đây về cơ chế thi hành pháp luật để truy cứu và xử lý hành vi phạm tội buôn bán
người bằng việc xác định rõ các hành vi cần phải bị trừng trị, mức độ nghiêm
khắc của hình phạt và các biện pháp có hiệu quả nhằm phòng ngừa và chống
việc buôn bán người.

Cũng trong lĩnh vực phòng chống buôn bán người, Liên hợp quốc thông
qua Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, buôn
bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000 nhằm
nghiêm cấm hành vi buôn bán trẻ em kêu gọi các quốc gia tăng cường hợp tác
quốc tế và bảo vệ quyền trẻ em.


14

Ngoài ra còn một số văn kiện của Liên hợp quốc có liên quan như: Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước về Luật biển quốc tế
năm 1982....
Những nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm buôn bán người.
Ngoài những văn kiện quốc tế trên, vấn đề buôn bán người là mối quan
tâm chung của cả cộng đồng quốc tế. Đã có nhiều diễn đàn quốc tế được tổ chức
để cùng tìm ra các giải pháp, đưa ra các kinh nghiệm trong đấu tranh phòng
chống tội phạm buôn bán người của các quốc gia và cùng nhau xây dựng các
nguyên tắc, các kế hoạch hành động chung cho các quốc gia thành viên. Mặc dù
những tuyên bố chung của các diễn đàn này không mang tính chất bắt buộc
nhưng nó cung cấp cho các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan có liên
quan của các quốc gia những khuyến nghị về lập pháp cũng như những chính
sách hướng dẫn trong việc phối hợp hành động. Cụ thể là:
Hội nghị thế giới về chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại
được tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển năm 1996 có 122 đoàn đại diện chính
phủ các nước (Việt Nam có tham dự). Bản tuyên bố và chương trình hành động
được xây dựng trên tinh thần Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Các
văn kiện này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong việc xây
dựng một cơ chế “cộng đồng” và đưa ra yêu cầu các quốc gia phải hình sự hóa
các hành vi bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại và truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội này. Tuyên bố đưa ra chương trình hành
động giai đoạn 1996 – 2000, tập chung vào 5 lĩnh vực: phối hợp và hợp tác,
phòng ngừa, bảo vệ, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng, sự ttham gia của trẻ
em vào quá trình xây dựng các khuyến nghị có liên quan.
Năm 2001, Hội nghị thế giới về chống bóc lột tình dục trẻ em tại
Yokohama, Nhật Bản, hội nghị đánh giá kết quả thực hiện tuyên bố Stockhom
của các quốc gia và đưa ra một bản cam kết toàn cầu Yokohama.
Ngoài ra, Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc cũng ban hành
một bộ các nguyên tắc được khuyến nghị và hướng dẫn về quyền con người và


15

buôn bán người. Văn kiện này cung cấp những hướng dẫn rõ ràng và có hệ
thống trong công tác phòng ngừa và hình sự hóa các hành vi buôn bán người
trên phương diện bảo vệ quyền của nạn nhân.
1.1.2, Khái niệm về “Buôn bán người” trong các văn kiện quốc tế trước
năm 2000.
Trong Công ước về nô lệ được ký tại Giơnevơ năm 1926 của Hội quốc
liên, quyền không bị bắt giữ làm nô lệ trở thành một trong những quyền được
pháp điển hóa sớm nhất.
Tại điều 1 Công ước định nghĩa về nô lệ và buôn bán nô lệ:
1. Nô lệ là một quy chế hay tình trạng của một người bị người khác
thực thi một hay tất cả quyền sở hữu.
2. Buôn bán nô lệ bao gồm mọi hành vi liên quan đến việc bắt
được, giành được, chuyển nhượng một con người với ý định đưa người đó
vào tình trạng nô lệ; mọi hành vi liên quan đến việc giành một người nô
lệ với ý định bán hoặc trao đổi; mọi hành vi chuyển nhượng bằng cách
bán hay trao đổi một người nô lệ với ý định sẽ bán hoặc đổi chác và nói
chung,mọi hành vi buôn bán hoặc chuyên chở người nô lệ.2

- Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của Liên hợp
quốc đã ghi nhận các quyền cơ bản của con người trong đó có cả phụ nữ và trẻ
em. Điều 4 bản Tuyên ngôn ghi nhận: “Không ai bị giam giữ làm nô lệ hoặc bị
nô dịch. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ phải bị cấm dưới tất cả các hình thức.”3
- Ở Công ước năm 1949 của Liên Hợp Quốc về trấn áp việc buôn người
và khai thác (bóc lột) tình dục người khác đưa ra khái niệm buôn bán người là
hành vi mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm4. Như vậy hành vi buôn bán người
ở đây không bao gồm hành vi mua bán đàn ông và trẻ em.
- Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người
trong Công ước 105(1957):
2

.Công ước về nô lệ của Hội quốc liên ký tại Giơnevơ ngày 29/6/1926.
.Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của Liên hợp quốc
4
. Công ước năm 1949 của Liên Hợp Quốc về trấn áp việc buôn người và khai thác (bóc lột) tình dục người khác
3


16

Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che
giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc dùng
những hình thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng
quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa nhận tiền
hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người mà
người đó đang có quyền kiểm soát một người khác nhằm mục đích bóc
lột. Việc bóc lột bao gồm tối thiểu: bóc lột làm nghề mại dâm hoặc các
hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ bắt buộc, tình
trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự nô lệ, khổ sai hay cắt đi những

bộ phận cơ thể.5
- Năm 1962, Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền ( UNHCP) và tổ chức
Liên minh toàn cầu chống mua bán phụ nữ(GAATW) đã cùng thống nhất và
đưa ra khái niệm về buôn bán người:
Tất cả mọi hành động và mưu toan hành động có liên quan đến việc
tuyển dụng, vận chuyển trong phạm vi quốc gia và xuyên biên giới, mua
bán, chuyển giao, tiếp nhận che giấu con người bằng cách lừa dối, ép
buộc(kể cả sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc lạm dụng thẩm quyền)
hoặc bắt buộc trừ nợ vì mục đích xếp đặt hoặc lưu giữ người đó, cho dù
trả tiền hay không, trong việc phục vụ(việc nhà, tình dục hoặc sinh sản),
trong lao động bắt buộc hoặc lao động trừ nợ, hoặc trong các điều kiện
tương tự như nô lệ, trong một cộng đồng, khác cộng đồng mà người đó đã
sống tại thời điểm trước khi bị lừa gạt, ép buộc hay gán nợ.6
- Năm 1972, Tổ chức di cư thế giới(IOM) và Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc(UNICEF) đưa ra khái niệm sau:
Buôn bán người là hành vi tuyển dụng, chuyển giao, che giấu hoặc
tiếp nhận người bằng cách đe dọa dùng vũ lực ép buộc, bắt cóc, lừa dối,
kể cả lạm dụng thẩm quyền, hay trừ nợ vì mục đích bố trí hay bắt buộc
người đó(dù có được trả tiền hay không) vào tình trạng lao động cưỡng
5

.Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người trong Công ước 105(1957)
. Năm 1962, Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền (UNHPC) và Tổ chức liên minh toàn cầu chống mua bán
phụ nữ(GAATW)
6


17

bức hoặc phải làm những công việc tương tự nô lệ trong một cộng đồng

khác mà người đó đã sống.7
Các khái niệm trên cơ bản đã miêu tả được các đặc điểm của hành vi buôn
bán người. Tuy nhiên, do chức năng và mục đích và nhiệm vụ của từng tổ chức
khác nhau nên khi ban hành các văn kiện và đưa ra định nghĩa về “Buôn bán
người” cũng khác nhau. Các khái niệm trên chỉ dừng lại ở những lĩnh vực cụ thể
ví dụ như trong Công ước về nô lệ, hành vi buôn bán người chỉ đề cập đến buôn
bán nô lệ mà không tiên lượng rằng sẽ có những người không phải là nô lệ vẫn
là nạn nhân của nạn buôn bán người. Hay trong Công ước năm 1949 của Liên
Hợp Quốc về trấn áp việc buôn người và khai thác (bóc lột) tình dục người khác
đã đưa ra khái niệm buôn bán người mà nạn nhân chỉ là phụ nữ và trẻ em còn
nạn nhân là đàn ông thì Công ước không đề cập tới. Trong định nghĩa của ILO,
buôn bán người được mô tả nhiều hơn ở khía cạnh bóc lột sức lao động và trong
định nghĩa của tổ chức nhân quyền thì xuất phát từ việc bảo vệ quyền con
người…….
Vì thế, trong suốt thời gian dài, dù đã có hàng loạt các văn kiện quốc tế
nêu ra các quy tắc, các biện pháp thiết thực để đấu tranh với việc bóc lột con
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em nhưng vẫn chưa có một văn kiện mang tính
toàn cầu nào xử lý các khía cạnh của việc buôn bán người. Năm 2000, Liên hợp
quốc thông qua Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các
nghị định thư bổ sung cho Công ước trong đó có Nghị định thư về phòng ngừa,
trấn áp và trừng trị buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Đây là văn bản
có ý nghĩa tiến bộ nhất cả về mặt chính trị lẫn pháp lý, nó là nền tảng cho việc
đấu tranh xóa bỏ việc buôn bán người.
1.1.3. Khái niệm “buôn bán người” trong Nghị định thư về chống buôn bán
người của Liên Hợp Quốc năm 2000.
Như đã nêu ở trên, Nghị định thư Phòng ngừa, trấn áp và trừng trị buôn
bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (gọi tắt là Nghị định thư về chống buôn
người – Tracfficking in persons ) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
7


. Năm 1972, Tổ chức di cư thế giới(IOM) và Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc(UNICEF)


18

ngày 15/11/2000, có hiệu lực ngày 25/12/2003 đến nay đã có 115 phê chuẩn.
Nghị định thư chuẩn hóa khái niệm về hành vi “buôn người”, là khung pháp lý
chuẩn mực để các quốc gia có thể dựa vào nó để xây dựng các văn bản pháp lý
của quốc gia về chống buôn bán người và với mục đích kêu gọi các quốc gia
tăng cường hợp tác quốc tế để ngăn ngừa và đấu tranh chống việc buôn bán
người trong đó đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bảo vệ, hỗ trợ các nạn nhân của việc
buôn bán người cùng với sự tôn trọng tối đa quyền của họ và thúc đẩy hợp tác
quốc tế giữa các quốc gia là thành viên để thực hiện mục tiêu này.
Tại điều 3 của Nghị định thư đưa ra khái niệm về hành vi “Buôn người”
như sau:
a, “Việc buôn bán người” này sẽ có nghĩa là việc mua, vận chuyển,
chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách
sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt
cóc, lừa gạt, man trá hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương
hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của
một người kiểm soát đối với những người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao
gồm ít nhất việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức
bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dích vụ cưỡng bức, nô
lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc việc lấy đi các bộ
phận cơ thể;
b, Việc một nạn nhân của việc buôn bán người chấp nhận sự bóc
lột chủ ý được nêu ra trong Khoản a của Điều này sẽ là không thích hợp
nếu bất kỳ một cách thức nào được nêu trong Khoản a đã sử dụng.
c, Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa
trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là “buôn bán người” ngay cả khi việc này

được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ một cách thức nào được nói đến
trong Khoản a Điều này;8

8

Nghị định thư phòng ngừa trấn áp và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em(2000) bổ sung cho
Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (2000) của Liên hợp quốc .


19

Định nghĩa này khắc phục được những hạn chế của các quan niệm về buôn bán
người trong các văn kiện quốc tế trước đây và hành vi buôn bán người đã được mô tả
đầy đủ về mục đích, hành vi, thủ đoạn của hoạt động buôn bán người, cụ thể là:
Thứ nhất là mục đích của hành vi buôn bán người là bóc lột hoặc lạm dụng,
bao gồm: bóc lột sức lao động, bóc lột tình dục, khổ sai, nô lệ, hay các hình thức tương
tự nô lê, lấy các bộ phận cơ thể… và lạm dụng tình thế dễ tổn thương của nạn nhân để
nhằm mục đích thu lợi nhuận từ hành vi phạm tội đó.
Thứ hai là phương thức thực hiện hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực,
bắt cóc, lừa gạt, cưỡng ép hay lạm dụng quyền lực.
Thứ ba là hành vi phạm tội: tuyển mộ, mua, vận chuyển, chuyển giao, che
giấu, chứa chấp để chuyển giao…
Nạn nhân: theo Điều 3 Nghị định thư Chống buôn bán người thì nạn nhân là
bất kỳ người nào như phụ nữ, trẻ em, nam giới, kể cả người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất.
Trẻ em: theo Khoản d Điều 3 thì trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi. Việc
quy định độ tuổi “trẻ em” của Liên Hợp Quốc là 18 tuổi nhưng trong luật thực định của
mỗi quốc gia lại quy định độ tuổi trẻ em khác nhau, có sự khác biệt này là do văn hóa xã
hội, sự phát triển về thể chất khác nhau, độ tuổi kết hôn khác nhau, ….
Như vậy, theo Khoản b, c của Điều này thì riêng hành vi phạm tội xảy ra với

người chưa thành niên và người có nhược điểm về thể chất thì không cần xét đến yếu tố
thủ đoạn, chỉ cần có hành vi và mục đích là đủ dấu hiệu cấu thành tội buôn bán người.
Liên quan đến việc buôn bán trẻ em, Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho
Công ước về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu
dâm trẻ em năm 2000, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 25/5/2000
theo nghị quyết A – RES – 54 – 263. Có hiệu lực ngày 28/01/2002, Việt Nam cũng là
thành viên của Nghị định thư năm 2001 cũng quy định:
“ Điều 2 :
a, Buôn bán trẻ em có nghĩa là bất kỳ hành động giao dịch nào mà qua đó
trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người khác để lấy tiền
hay đồ vật gì khác.


20

b, Mại dâm trẻ em là việc sử dụng trẻ em trong các hoạt động tình dục để
lấy tiền hay đồ vật dưới bất kỳ hình thức nào.
c, Văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em nghĩa là bất kỳ sự trình bày nào, dù
bằng phương tiện gì, về trẻ em đang tham gia vào hoạt động tình dục một cách
rõ ràng, thật sự hoặc mô phỏng, hay bất cứ sự trình bày nào về những bộ phận
sinh dục của trẻ em cho các mục đích tình dục ”.9
Như vậy, Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em,
buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000 cũng có
quan điểm tương đồng với Nghị định thư về phòng chống buôn bán người năm 2000
của Liên hợp quốc.
Bên cạnh việc phê chuẩn Nghị định thư chống buôn người, Liên hợp quốc còn
thông qua Nghị định thư về phòng chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ,
đường biển và đường không bổ sung cho Công ước về phòng chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia (gọi tắt là Nghị định thư về chống đưa người nhập cư bất hợp pháp
– Smuggling of migrants). Mục đích của Nghị định thư này là tăng cường phòng ngừa,

điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nhập cư bất hợp pháp cũng như
việc bảo vệ các nạn nhân.
Mặc dù hai Nghị định thư này có những quan điểm giống nhau nhưng giữa hành
vi buôn bán người và đưa người di cư trái phép có những điểm khác nhau, phân biệt hai
hành vi phạm tội này với mục đích định tội danh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân.
Trên thực tế có những nạn nhân của việc đưa người di cư trái phép sẽ trở thành
nạn nhân của buôn bán người vì sau khi đưa người nhập cư trái phép, họ lại bị bọn tội
phạm lừa gạt để bóc lột sức lao dộng hay bóc lột tình dục hay mang bán để kiếm lợi.
Chính vì vậy, việc xác định nạn nhân của tội phạm buôn bán người và tội phạm của đưa
người di cư trái phép để bảo đảm quyền lợi cho các nạn nhân là rất cần thiết.
1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN BÁN
NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ .

9

, Nghị định thư Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000.


21

Trong chương trình hành động của cộng đồng quốc tế về phòng chống tội
phạm xuyên quốc gia có tổ chức nói chung và tội phạm buôn bán người nói
riêng thì mục tiêu phòng chống và ngăn ngừa tội phạm được đặt ra đầu tiên.
Trong điều 9 của Nghị định thư về chống buôn bán người quy định rằng các
quốc gia thành viên sẽ phải đề ra các chính sách tổng thể, các chương trình và
các biện pháp để ngăn ngừa và chống việc buôn bán người và bảo vệ các nạn
nhân của việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em để họ không bị trở
thành nạn nhân của tội phạm buôn bán người một lần nữa. Các chính sách,
chương trình và các biện pháp mà Nghị định thư nói đến là: pháp luật, kinh tế,

xã hội, … Nghị định thư đưa ra những quy định cơ bản về hợp tác giữa các quốc
gia thành viên trong phòng ngừa, điều tra và truy cứu trách nhiệm hình sự cũng
như bảo vệ nạn nhân.
1.2.1. Hình sự hóa các hành vi liên quan đến tội phạm buôn bán người.
Với mục đích hình sự hóa các hành vi buôn bán người nhằm truy nã và
trừng phạt những kẻ buôn bán người quốc tế như đã nêu trong Điều 3 Nghị định
thư về Chống buôn bán người, thì còn một số hành vi mà nạn nhân của việc
buôn bán người thường gặp phải như: hiếp dâm, cưỡng bức lao động, cưỡng bức
kết hôn, hành hạ, tra tấn, gây thương tích, giết người, bắt cóc, giam giữ trái pháp
luật. chiếm đoạt giấy tờ tùy thân…Việc xác định rõ các hành vi liên quan đến tội
danh bảo đảm cho sự công bằng trong xét sử và bảo vệ được hết mọi quyền lợi
cho nạn nhân.
Trong điều 5 Nghị định thư về chống buôn bán người quy định:
“ Hình sự hóa :
1.Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng những biện pháp lập pháp và
các biện pháp khác khi cần thiết để quy định những hành vi nếu tại điều 3
Nghị định thư này là những vi phạm hình sự khi những hành vi này được
thực hiện có chủ ý.
2.Mỗi quốc gia thành viên cũng sẽ áp dụng những biện pháp lập
pháp và các biện pháp khác để coi những hành vi sau đây là vi phạm hình
sự:


22

a, Việc cố gắng thực hiện một hành vi phạm tội được quy định theo
khoản 1 của điều này, tuân theo các khái niệm cơ bản trong hệ thống
pháp luật của quốc gia đó.
b, Việc tham gia như là một đồng phạm trong một hành vi phạm tội
theo quy định tại khoản 1 điều này; và

c, Việc tổ chức hay chỉ đạo những người khác tham gia vào một
hành vi phạm tội được quy định tại khoản 1của điều này”.
Như vậy, theo quy định tại điều 5 Nghị định thư đòi hỏi các quốc gia
thành viên áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp khác khi cần thiết
để hình sự hóa các hành vi được quy định tại điều 3 của Nghị định thư như:
tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người… với cách thức
bắt cóc, cưỡng ép, sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt… để đạt được
mục đích bóc lột tình dục, bóc lột sức lao dộng, lấy đi bộ phận cơ thể… Tất cả
các hành vi phạm tội trên được thực hiện bởi lỗi cố ý để đạt được mục đích thu
lợi nhuận từ hoạt động buôn bán người.
Trong khoản 2 điểm b, c nêu rõ về hành vi phạm tội có tính chất đồng
phạm và có tổ chức, đây cũng là một yếu tố của tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia đã được quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia.
Các biện pháp khác mà Nghị định thư đã nêu ra như là: biện pháp kinh tế,
hành chính, dân sự, xã hội, giáo dục, …..
Trong Nghị định thư chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ,
đường biển và đường không cũng đòi hỏi các quốc gia phải hình sự hóa các
hành vi đưa người di cư trái phép và các hành vi các liên quan thông qua các
biện pháp lập pháp và các biện pháp khác.
Trong điều 3 Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước của
Liên hợp quốc về quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa
phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000 và Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn
cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999 cũng yêu cầu các
quốc gia thành viên phải hình sự hóa các hành vi phạm tội đối với trẻ em, cho dù


23

hành vi phạm tội đó được thực hiện ở bất cứ đâu, dưới mọi hình thức đối với trẻ

em. Và hình phạt cho hành vi phạm tội này phải thật nghiêm khắc.
Việc hình sự hóa những hành vi liên quan đến hoạt động buôn bán người
để trừng trị hành vi phạm tội ở các Nghị định thư nói riêng và trong Công ước
của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nói chung là rất
rõ ràng nhằm trừng phạt, ngăn chặn những hành vi xâm hại tới sức khỏe, tính
mạng và nhân phẩm của con người. Tinh thần chung đó của cộng đồng quốc tế
cần phải được nội luật hóa vào các văn bản pháp luật trong mỗi quốc gia. Đó
vừa là trách nhiệm và cũng là nghĩa vụ mà các quốc gia thành viên phải thực
hiện.
1.2.2. Thực hiện thẩm quyền tài phán ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Tội phạm buôn bán người thường là có tổ chức và hành vi buôn bán người
xảy ra cả ở trong nước và ngoài vùng lãnh thổ của quốc gia. Vì thế việc phân
định thẩm quyền tài phán ngoài lãnh thổ là rất cần thiết để ngăn chặn hành vi
phạm tội và hành vi lẩn tránh pháp luật của bọn tội phạm. Trong Công ước của
Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia buộc mỗi thành
viên xác lập quyền tài phán đối với các tội phạm được quy định trong Công ước
cả khi các hành vi phạm tội này được thực hiện trên lãnh thổ của mình và hành
vi phạm tội đó xảy ra ở ngoài lãnh thổ nhưng lại xâm hại đến công dân của quốc
gia mình.
Trong Nghị định thư về chống buôn bán người không có điều khoản nào
quy định thẩm quyền tài phán ngoài lãnh thổ nhưng trong Công ước của Liên
hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia buộc mỗi thành viên xác
lập quyền tài phán đối với các tội phạm được quy định trong Công ước và các
hành vi phạm tội này thực hiện trên lãnh thổ quốc gia mình. Ngoài ra, các quốc
gia thành viên có thể xác lập quyền tài phán đối với các vi phạm thực hiện ngoài
lành thổ trong các trường hợp sau:
- Hành vi phạm tội được thực hiện nhằm chống lại công dân của quốc gia
thành viên đó.
- Hành vi phạm tội đó do công dân của quốc gia thành viên đó thực hiện .



×