Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Vấn đề hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.31 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ THU HƯƠNG

VẤN ĐỀ HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI
CON CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự

Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Hường

HÀ NỘI 2011


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo khoa sau
đại học - Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ em
trong suốt thời gian qua. Đặc biệt em trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc
nhất đến TS. Ngô Thị Hường - người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn này.


Đỗ Thị Thu Hương


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 3
3. Điểm mới của Luận văn ............................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................... 5
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 5
6. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 6
7. Kết cấu của luận văn ..............................................................................................6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CỦA
CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA THÀNH NIÊN ....................................... 7
1.1. KHÁI NIỆM HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON
CHƯA THÀNH NIÊN..................................................................................... 7
1.1.1. Quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên ................................. 7
1.1.1.1 Quyền của cha, mẹ ........................................................................ 7
1.1.1.2. Quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên ......................... 10
1.1.2. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên .................. 15
1.1.2.1. Khái niệm hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên......................................................................................................... 15
1.1.2.2. Quan điểm lập pháp của Việt Nam về hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên .............................................................. 20
1.2. KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA MẸ
ĐỐI VỚI CON CHƯA THÀNH NIÊN TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM . 21
1.2.1. Quy định của pháp luật về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên trước năm 1945 ................................................................ 21

1.2.2. Quy định của pháp luật về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên giai đoạn từ 1945 đến năm 1975 ...................................... 22
1.2.3. Quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
trong giai đoạn từ năm 1976 đến nay ......................................................... 24
Chương 2: HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 .. 26


2.1 CĂN CỨ HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA
THÀNH NIÊN ............................................................................................... 26
2.1.1 Cha, mẹ bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con ...................................................................... 27
2.1.2 Cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con........................................................... 28
2.1.3 Cha, mẹ có hành vi phá tán tài sản của con ...................................... 30
2.1.4 cha, mẹ có lối sống đồi trụy .............................................................. 31
2.1.5 Cha, mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội ............................................................................................ 32
2.2. THỦ TỤC HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON
CHƯA THÀNH NIÊN................................................................................... 32
2.2.1 Thẩm quyền giải quyết ....................................................................... 32
2.2.2. Người có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với
con chưa thành niên ................................................................................... 34
2.2.3 Thủ tục giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên .......................................................................................... 37
2.3. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA,
MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA THÀNH NIÊN ................................................... 39
2.3.1 Người cha, người mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên
không được trông nom, chăm sóc, giáo dục, quản lý tài sản riêng của con
và đại diện theo pháp luật đối với người con đó ......................................... 39

2.3.2 Người bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với con......................................................... 40
2.3.3 Cha, mẹ chỉ bị hạn chế một số quyền đối với con chưa thành niên
trong một thời gian nhất định ..................................................................... 41

Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HẠN CHẾ QUYỀN
CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA THÀNH NIÊN ............................ 43
3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH HẠN CHẾ QUYỀN CỦA
CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA THÀNH NIÊN ......................................... 43
3.1.1. Thực trạng giải quyết hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa


thành niên tại Toà án.................................................................................. 43
3.1.2. Nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức về hạn chế quyền của
cha, mẹ đối với con chưa thành niên .......................................................... 50
3.1.3. Cơ chế đảm bảo thực hiện quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên ............................................................................. 54
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA THÀNH
NIÊN ............................................................................................................. 57
KẾT LUẬN .............................................................................................. 65
PHỤ LỤC……………………………………………………………………………. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 72


1

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trẻ em là tương lai của đất nước. Từ khi sinh ra trẻ em cần nhận
được sự quan tâm, chăm sóc từ gia đình và xã hội. Các em cần được sống
trong môi trường phát triển lành mạnh và hài hoà cả về thể chất lẫn tinh
thần. Việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em không còn là việc làm
mang tính tự nhiên, mà trở thành trách nhiệm và nghĩa vụ của gia đình và
xã hội. Xuất phát từ quan điểm trên, đồng thời để có cơ sở thực hiện và bảo
vệ tốt quyền trẻ em, pháp luật quốc tế đã có những văn bản ghi nhận quyền
trẻ em như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã
hội và văn hoá, đặc biệt được quy định đầy đủ và bao quát nhất là Công
ước quốc tế về quyền trẻ em.
Ở Việt Nam, việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em là một trong
những truyền thống tốt đẹp, truyền thống này ngày càng được tôn trọng,
giữ gìn và phát huy. Việt Nam là một trong những nước tích cực tham gia
và phê chuẩn các công ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, trong đó có ý
nghĩa và đáng ghi nhận nhất là việc phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền
trẻ em vào năm 1990. Đồng thời, Việt Nam đã xây dựng các văn bản pháp
luật quy định về bảo vệ quyền trẻ em. Hiến pháp năm 1992 quy định: “trẻ
em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục” (Điều
65). “…Cha, mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt…”
(Điều 64)…. Những nguyên tắc hiến định về quyền trẻ em này được cụ thể
hoá trong những văn bản pháp luật, trong đó có Luật hôn nhân và gia đình.
Bảo vệ trẻ em và con chưa thành niên là một trong những nguyên tắc cơ


2

bản của Luật, được cụ thể hoá bằng những quy định về nghĩa vụ của các
thành viên trong gia đình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng

cho con chưa thành niên. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004 đã quy định cụ thể các quyền cơ bản của trẻ em và trách nhiệm đảm
bảo các quyền trẻ em của gia đình, nhà trường và xã hội... Qua những quy
phạm pháp luật trên đã khẳng định bảo vệ quyền trẻ em là trách nhiệm của
gia đình, xã hội, mà trước tiên là trách nhiệm của chính cha, mẹ.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn không ít người cha, người mẹ thực hiện
việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục con chủ yếu là dựa trên bản năng, thực sự
chưa coi đó là nghĩa vụ pháp lý. Do đó quyền trẻ em nói chung và quyền của
con chưa thành niên nói riêng chưa được bảo đảm một cách tốt nhất. Số
lượng trẻ em không được cha, mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng rất lớn. Theo thống
kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2004 nước ta có 126.309
trẻ em bị khước từ bởi sự chăm sóc từ cha, mẹ đẻ của mình, 23.000 trẻ em
phải lao động, 20.000 trẻ em làm nghề mại dâm, 21.000 trẻ em đường phố,
13.000 trẻ em vi phạm pháp luật [4, tr12]. Chính vì vậy, bên cạnh việc quy
định nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con, pháp luật còn quy định biện pháp chế
tài đối với hành vi vi phạm, trong đó có biện pháp hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trên
cơ sở kế thừa những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã
quy định về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Tuy
vậy, quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên chưa
thực sự được áp dụng có hiệu quả. Nguyên nhân là do người dân chưa nhận
thức đúng và đầy đủ về quy định này. Mặt khác, pháp luật còn có những
khiếm khuyết, vướng mắc và thiếu cơ chế để thực hiện. Do đó, nghiên cứu
“Vấn đề hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Thông qua


3

việc nghiên cứu, có thể xác định được nguyên nhân dẫn tới việc áp dụng

những quy định này trong thực tế còn hạn chế, qua đó tìm ra những biện
pháp giải quyết để quy định này được áp dụng có hiệu quả hơn, bảo vệ tốt
nhất quyền của con chưa thành niên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là một chế
tài đối với cha, mẹ khi cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, phá tán tài sản của con, có
lối sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội... Đó là một biện pháp bảo vệ và tạo cho con chưa thành
niên có một môi trường sống tốt nhất. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam các
công trình nghiên cứu về vấn đề này chưa có nhiều. Xét dưới góc độ xã hội,
có nhiều công trình nghiên cứu khoa học và những chương trình hành động
để bảo vệ, chăm sóc trẻ em như các báo cáo chung phân tích tình hình trẻ
em các năm gần đây của tổ chức UNICEF Việt Nam. Ngoài ra còn có
những nghiên cứu về đối tượng trẻ em như trẻ em nghèo, trẻ em bị bạo lực,
trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị HIV, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt,…Tuy nhiên,
trong các báo cáo và các công trình nghiên cứu này chưa có những nghiên
cứu về trách nhiệm của cha, mẹ và hạn chế quyền của cha, mẹ khi cha, mẹ
để con mình lâm vào hoàn cảnh đó.
Xét dưới góc độ khoa học pháp lý cũng chưa có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này. Trong giáo trình giảng dạy Luật Hôn nhân và gia
đình của trường đại học, cũng như một số sách chuyên khảo và tham khảo
có đề cập tới vấn đề này như: “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam” của tác giả Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện do Nhà xuất bản Trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2002; “Bình luận khoa học Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia


4


năm 2004, Bộ Tư Pháp. Tuy nhiên, những tài liệu này mới đưa ra vài khía
cạnh như các trường hợp và hậu quả của việc hạn chế quyền của cha, mẹ
đối với con chưa thành niên mà chưa đi sâu phân tích vấn đề này. Các khoá
luận tốt nghiệp đại học và luận văn cao học cũng chưa có đề tài nào nghiên
cứu về vấn đề hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Một
số báo và tạp chí có đề cập tới hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên, nhưng không cụ thể và dưới dạng đưa thông tin về các vụ việc
mà không phân tích và nghiên cứu về các quy định của pháp luật.
Sách chuyên khảo: “Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Thị Hồi (chủ biên), Nhà xuất bản
Tư pháp (2009) có bài viết của Tiến sĩ Luật học Ngô Thị Hường: “Áp dụng
quy định về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong
Luật Hôn nhân và gia đình” đã đề cập đến thực trạng vi phạm nghĩa vụ của
cha, mẹ đối với con chưa thành niên và thực tiễn áp dụng quy định về hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Từ những khảo cứu
trên có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu về hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thanh niên là rất ít, có một số công trình đề cập tới vấn
đề này nhưng chưa nghiên cứu một cách toàn diện và đi sâu vào vấn đề
này.
3. Điểm mới của Luận văn
Là công trình khoa học nghiên cứu tuơng đối toàn diện cơ sở lý luận
và thực tiễn áp dụng quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luận văn có một số
đóng góp mới sau:
- Xây dựng khái niệm về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên;


5


- Phân tích quan điểm của nhà lập pháp Việt Nam về hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
- Phân tích những điểm hợp lý và khiếm khuyết của quy định hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000;
- Phân tích thực trạng áp dụng quy định hạn chế quyền của cha, mẹ
đối với con chưa thành niên trong thực tiễn;
- Nêu một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp
luật về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên và thực tiễn
áp dụng các quy định này.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những vấn đề sau:
+ Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất liên quan
tới hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
+ Thứ hai, nội dung pháp luật hiện hành về hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên, các quy phạm chủ yếu được xem xét là
những quy phạm được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000 những quy phạm pháp luật có liên quan khác.
+ Thứ ba, nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ các quy định của pháp luật, từ
đó làm sáng tỏ bản chất pháp lý cũng như có những giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và cơ chế đảm bảo áp dụng có hiệu quả quy định hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong thực tế.


6


Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn là phân tích các quy định của
pháp luật hiện hành về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên, tìm hiểu và phân tích thực trạng áp dụng quy định này trong thực tiễn.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, giống
như các công trình nghiên cứu khoa học xã hội khác là dựa trên phương
pháp luận chủ nghĩa Mác Lênin, phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử làm cơ sở. Ngoài ra, phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê và khảo sát cũng được sử dụng để thực hiện đề
tài nghiên cứu.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn được xây dựng gồm: Lời nói đầu, 03 chương và kết luận:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hạn chế quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên
Chương 2. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Chương 3. Thực trạng áp dụng pháp luật và một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA,
MẸ ĐỐI VỚI CON CHƯA THÀNH NIÊN

1.1. KHÁI NIỆM HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON
CHƯA THÀNH NIÊN

1.1.1. Quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1.1.1.1 Quyền của cha, mẹ
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học: Quyền được hiểu
là: “Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm,
được đòi hỏi, những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm” [24, tr 815].
Cha được hiểu là “người đàn ông có con trong quan hệ với con” [24, tr
130]. Mẹ được hiểu là: “người đàn bà có con trong quan hệ với con…”[24,
tr 626]. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ thì quyền của cha, mẹ được hiểu là
những điều mà xã hội hoặc pháp luật công nhận cho một người được làm,
được hưởng trong mối quan hệ với con của mình.
Dưới góc độ luật học, quyền được hiểu là khả năng mà pháp luật cho
phép một chủ thể được thực hiện. Trong các quan hệ pháp luật khác nhau
thì chủ thể có những quyền khác nhau. Như vậy, nói đến quyền của cha, mẹ
là đặt trong mối quan hệ giữa cha, mẹ với con. Quyền của cha, mẹ chỉ phát
sinh khi quan hệ giữa cha, mẹ và con được xác lập. Chủ thể có quyền cha,
mẹ là cha, mẹ. “Quyền cha, mẹ gắn liền với tư cách cha hoặc mẹ mà người
có quyền đảm nhận trong quan hệ với người chịu sự chi phối của quyền
đó”[14, tr242]. Do vậy, quyền của cha, mẹ là khả năng mà cha, mẹ có được
các quyền đối với con của mình. Hơn nữa, quan hệ giữa cha, mẹ với con là
một quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Một trong những đặc trưng


8

của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là quyền của chủ thể bao giờ
cũng gắn liền với nghĩa vụ nên quyền của cha, mẹ cũng đồng thời là nghĩa
vụ của họ.
Quyền của cha, mẹ có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền của cha, mẹ gắn với tư cách của cha, mẹ
Trong gia đình có nhiều mối quan hệ, quyền của cha, mẹ chỉ phát

sinh khi một người có tư cách là cha hoặc mẹ, quyền này gắn liền với nhân
thân của người cha, người mẹ, không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân
của cha mẹ. Điều đó có nghĩa là giữa cha, mẹ có thể đang tồn tại quan hệ
hôn nhân hoặc không tồn tại hôn nhân hoặc cha, mẹ có thể đang sống
chung với nhau hoặc không sống chung với nhau. Đồng thời, quyền của
cha, mẹ tồn tại không phụ thuộc vào tính chất mối quan hệ giữa cha, mẹ
với con, có thể đó là con đẻ, con nuôi, con trong giá thú hay con ngoài giá
thú. Người con có sống chung với cha, mẹ hay không sống chung, một khi
có cơ sở pháp lý xác định được một người nào đó là cha và mẹ của đứa trẻ
thì phát sinh quyền của cha, mẹ đối với người con đó. Cha và mẹ là những
người thực hiện quyền cha, mẹ đối với con như nhau. Chỉ có cha, mẹ mới
có quyền cha mẹ, những thành viên khác trong gia đình như ông bà, cô, dì,
cậu, bác, anh, chị… không có quyền cha mẹ. Khi cha, mẹ không còn hoặc
không xác định được, thì quyền này cũng không chuyển giao cho nguời
khác được, mặc dù khi đó những người không phải là cha, mẹ cũng có thể
thực hiện một số quyền và nghĩa vụ tương tự như quyền của cha, mẹ như
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục… nhưng họ thực hiện những quyền này
với tư cách khác nhau như giữa ông bà với cháu, giữa anh chị em với
nhau…và những quyền đó không phải là quyền của cha, mẹ.


9

Thứ hai, quyền của cha, mẹ không phải là một quyền đơn thuần mà
bao gồm nhiều quyền và luôn gắn liền với nghĩa vụ
Quyền của cha, mẹ bao gồm nhiều quyền khác nhau. Theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền
thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để
con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người

con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Cha, mẹ không
được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con,
không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, không được
xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”
(Điều 34). "Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng
con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi
dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình" (
Điều 36). " Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều
kiện cho con học tập" (Điều 37). Ngoài ra, cha mẹ là người đại diện theo
pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác
đại diện theo pháp luật" ( Điều 39). Có thể thấy cha, mẹ có nhiều quyền
đối với con, bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Đồng thời, đó
không phải là những quyền đơn thuần, mà quyền luôn bao hàm cả nghĩa
vụ. Do đó Luật hôn nhân và gia đình đã sử dụng cụm từ “quyền và nghĩa
vụ” để thể hiện rõ sự gắn kết giữa quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, đó là hai
mặt không tách rời nhau khi cha mẹ thực hiện quyền đối với con.
Thứ ba, quyền của cha, mẹ được sử dụng trước hết vì lợi ích của con
Quyền của cha, mẹ bao gồm nhiều quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ


10

đối với con. Cha, mẹ thực hiện quyền của mình chính là đảm bảo quyền và
lợi ích của con. Chẳng hạn, pháp luật quy định cha, mẹ có quyền và nghĩa
vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị
tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình là đảm bảo lợi ích của con. Khi đó người con có
được những điều kiện vật chất để đảm bảo cho cuộc sống của mình. Tương
tự như vậy, khi cha, mẹ thực hiện những quyền và nghĩa vụ khác của mình

đối với con thì thông qua đó quyền và lợi ích hợp pháp của con sẽ được
đảm bảo, con được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của cha
mẹ và có được điều kiện sống tốt nhất để phát triển hài hoà cả về thể chất,
tinh thần và đạo đức. Đồng thời, pháp luật quy định quyền của cha, mẹ mới
có căn cứ pháp lý buộc cha, mẹ phải thực hiện những quyền và nghĩa vụ
đối với con, khi không thực hiện hoặc có sự vi phạm những nghĩa vụ đối
với con thì cha, mẹ sẽ bị áp dụng những chế tài nhất định.
Qua phân tích trên có thể hiểu quyền của cha, mẹ như sau: “Quyền
của cha, mẹ là một thuật ngữ pháp lý thể hiện tổng hợp các quyền và nghĩa
vụ của cha, mẹ đối với nhân thân và tài sản của con, được pháp luật quy
định nhằm bảo đảm tối đa lợi ích của con. Quyền và nghĩa vụ này gắn liền
với nhân thân của cha mẹ, không thể chuyển giao cho người khác.”
1.1.1.2. Quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Quyền của cha, mẹ có thể do cha, mẹ cùng thực hiện chung hoặc
cha, mẹ thực hiện riêng (như trường hợp cha mẹ ly hôn, trường hợp con
riêng). Nhưng dù cha, mẹ có thực hiện quyền cha, mẹ riêng hay chung thì
theo quy định của pháp luật hiện hành cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ như
nhau đối với con.
Quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên bao gồm quyền và


11

nghĩa vụ nhân thân, quyền và nghĩa vụ tài sản:
Thứ nhất, đối với con chưa thành niên, cha, mẹ có quyền quyết định
chế độ pháp lý về nhân thân của con
Về nguyên tắc, cha, mẹ có quyền đặt họ tên cho con. Dân tộc và
quốc tịch của con được xác định theo dân tộc và quốc tịch của cha hoặc của
mẹ. Theo quy định của pháp luật hiện hành, cha, mẹ chính là người có
quyền và nghĩa vụ khai sinh cho con. Nơi cư trú của con chưa thành niên là

nơi cư trú của cha, mẹ.
Thứ hai, cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương, trông nom, chăm
sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con
Thực chất, quyền và nghĩa vụ yêu thương con mang tính chất tự nhiên
hơn là một nghĩa vụ pháp lý, nhưng cha, mẹ dành tình thương yêu cho con và
phải thể hiện tình yêu thương của mình để con có thể cảm nhận được.
Quyền và nghĩa vụ trông nom con chưa thành niên, “trông nom” ở
đây “không chỉ được hiểu như là sự trông giữ vật chất mà trước hết là tập
hợp các biện pháp mà cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ thực hiện nhằm đặt
con dưới sự kiểm soát của mình và sự kiểm soát đó là cần thiết cho việc
nuôi dạy con có hiệu quả”[ 14, tr246]. Có quan điểm khác cho rằng “ trông
nom tức là quản lý, giữ gìn con, không để con bị những người khác xâm
hại hoặc không để con bị rơi vào tình thế nguy hiểm đến sức khoẻ, tính
mạng”[13, tr8]. Có thể, thấy rằng hai quan điểm gần như có điểm chung là
coi sự trông nom của cha, mẹ không phải là sự coi giữ, quản lý con như
một vật. Cha, mẹ phải đảm bảo cho con có một điều kiện sống an toàn, có
những biện pháp bảo vệ cho con, để con không bị rơi vào những tình trạng
nguy hiểm và tổn thương tới thể chất cũng như tinh thần, đồng thời phải tạo
cho con có không gian để sống và vui chơi, phát triển bình thường. Cha,


12

mẹ có quyền và nghĩa vụ trông nom con và quyết định những biện pháp để
quản lý, bảo vệ con. Hơn nữa, trong cuộc sống có rất nhiều nguy hiểm có
thể ảnh hưởng tới sức khoẻ, tính mạng, tinh thần của con chưa thành niên.
Do vậy, cha, mẹ phải nhận biết được những nguy hiểm có khả năng xảy ra
đối với con để có những biện pháp bảo vệ, trông nom con tránh khỏi những
nguy hiểm đó. Đồng thời, cha, mẹ không được từ chối việc trông nom và
bỏ mặc con chưa thành niên. Có như vậy, con chưa thành niên mới được

bảo vệ một cách tốt nhất.
Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc con, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của con. Quyền chăm sóc con là một quyền quan trọng, nó là
quyền cơ sở vì cha, mẹ có quyền chăm sóc con thì mới có thể trông nom
con, thể hiện tình yêu thương đối với con, gần gũi con… qua đó nhận biết
được tâm tư, nguyện vọng của con. Có như vậy cha, mẹ mới thực hiện tốt
quyền của cha, mẹ đối với con. Không ai có quyền được ngăn cản cha, mẹ
chăm sóc con. Cha, mẹ cũng không được từ bỏ nghĩa vụ chăm sóc con.
Đồng thời, cha, mẹ phải hiểu rõ chăm sóc con tức là chăm lo từ điều kiện
vật chất, sức khoẻ, tinh thần cho con, quan tâm con, tạo cho con có điều
kiện phát triển bình thường. Thực hiện quyền chăm sóc con chính là thực
hiện tổng hợp các quyền cha, mẹ khác chứ không đơn thuần chỉ là cung cấp
vật chất đảm bảo cuộc sống cho con. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con là một mặt cha, mẹ trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với
con. Mặt khác, khi quyền và lợi ích của con bị người khác xâm phạm thì
cha, mẹ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích cho con.
Thứ ba, cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ giáo dục con
Giáo dục được hiểu là “tập hợp các biện pháp mà cha, mẹ có quyền
và có nghĩa vụ thực hiện nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển lành mạnh
của con về trí tuệ, tài năng và nhân cách” [14, tr248]. Quyền giáo dục con


13

được thể hiện trong việc cha, mẹ giáo dục đạo đức cho con. Cha, mẹ dạy
con từ những tuổi đầu tiên và làm gương tốt trong cuộc sống cho con, tạo
điều kiện cho con được sống trong môi trường đầm ấm, hoà thuận, tình
người. Cha, mẹ dạy dỗ, uốn nắn để con phát triển tốt về nhân cách. Đồng
thời với giáo dục đạo đức, thì cha, mẹ phải cho con được đến trường, được
tiếp cận những nguồn thông tin tri thức khoa học và xã hội, để con phát

triển tốt về tri thức và sự hiểu biết về thế giới xung quanh, về cuộc sống xã
hội. Ngoài ra, cha, mẹ định hướng, tư vấn cho con lựa chọn nghề nghiệp
trong tương lai. Cha, mẹ tạo điều kiện cho con phát triển năng khiếu của
mình và tôn trọng sự lựa chọn nghề nghiệp của con. Giáo dục con là một
quyền quan trọng và cần thiết của cha, mẹ. Cha, mẹ thực hiện tốt quyền này
sẽ tạo điều kiện cho con chưa thành niên có những nền tảng tốt để phát
triển hài hoà trí tuệ và nhân cách. Có như vậy, con mới trở thành người con
hiếu thảo, công dân tốt, người có ích cho xã hội.
Thứ tư, cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha, mẹ
có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành
niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình (Điều 36). Nuôi dưỡng là việc cha, mẹ
đảm bảo các điều kiện vật chất để cho con phát triển về thể lực, sức khoẻ
và trí tuệ. Khi con được sinh ra thì cha, mẹ chính là người trước tiên có
quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Nuôi dưỡng con chưa thành niên là
nghĩa vụ pháp lý của cha, mẹ. Cha, mẹ dù trong hoàn cảnh nào cũng phải
thực hiện việc nuôi dưỡng con. Cha, mẹ phải thực hiện việc nuôi dưỡng
con bằng tất cả khả năng và sự cố gắng của mình, để tạo ra được những
điều kiện vật chất cần thiết nhất đảm bảo cho cuộc sống của con chưa thành
niên. Trong trường hợp khó khăn, cha, mẹ có thể nhờ sự giúp đỡ của người


14

khác, của nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con chưa
thành niên không thể thực hiện bằng nghĩa vụ khác. Đối với trường hợp
cha, mẹ ly hôn, người cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi con chưa
thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì thực

hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng bằng phương thức khác, đó là cấp dưỡng cho con
[15, Điều 56].
Thứ năm, cha, mẹ có quyền quản lý tài sản riêng của con
Pháp luật Việt Nam quy định con có quyền có tài sản riêng. Tuy
nhiên, đối với con chưa thành niên thì khả năng quản lý, giữ gìn và định
đoạt tài sản riêng đó có thể bị hạn chế. Do vậy, Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: Cha, mẹ có quyền quản lý tài sản riêng của con dưới
15 tuổi hoặc con mất năng lực hành vi dân sự. Cha, mẹ cũng có thể uỷ
quyền cho người khác quản lý tài sản của con. Cha, mẹ không quản lý tài
sản riêng của con trong trường hợp người tặng cho tài sản hoặc người để lại
tài sản thừa kế theo di chúc cho người con chỉ định người khác quản lý tài
sản đó hoặc những trường hợp khác theo quy định của pháp luật (Điều 45).
Đồng thời, khi quản lý tài sản riêng của con chưa đủ 15 tuổi, thì cha, mẹ
cũng có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con và có hỏi ý kiến của
con nếu con đủ 9 tuổi trở lên (Điều 46). Như vậy, cha, mẹ có quyền quản lý
tài sản riêng của con dưới 15 tuổi và vì lợi ích của con thì có quyền định
đoạt tài sản đó. Tuy nhiên, đây không phải là một quyền đơn thuần, mà
song song với quyền quản lý tài sản của con thì cha, mẹ cũng phải có nghĩa
vụ giữ gìn, bảo quản và sử dụng hợp lý tài sản riêng của con, quyền quản lý
tài sản của con chưa thành niên của cha, mẹ bị giới hạn bởi lợi ích của con
và nguyện vọng của con.


15

Ngoài những quyền trên, cha, mẹ còn có nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại do con chưa thành niên gây ra cho người khác
Cha, mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra theo
quy định của pháp luật dân sự, cụ thể là theo Điều 606 Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định: con chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại thì cha, mẹ

phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nếu tài sản của cha, mẹ không có đủ mà
con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu. Con chưa thành niên đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản riêng của mình, không đủ tài
sản để bồi thường thì cha, mẹ mới phải bồi thường phần còn thiếu.
Như vậy, quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên thể hiện
trong các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Cha, mẹ thực hiện quyền
của cha, mẹ trên nguyên tắc trực tiếp, chủ động và tích cực. Đồng thời, cha,
mẹ không được phân biệt đối xử giữa con trai, con gái, con đẻ, con nuôi,
con trong giá thú và con ngoài giá thú. Cha, mẹ cần đối xử với các con là
như nhau trên cơ sở chú ý tới độ tuổi, giới tính, tâm lý của con mà thể hiện
sự chăm sóc, yêu thương, nuôi dưỡng cho phù hợp.
1.1.2. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1.1.2.1. Khái niệm hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên
Trong cuộc sống, bên cạnh những người cha, người mẹ luôn dành
tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chu đáo,
thì cũng có những người cha, người mẹ không làm tốt quyền và nghĩa vụ
của mình đối với con, thậm chí còn có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền
lợi của con hoặc có lối sống đồi truỵ; xúi giục, ép buộc con làm những việc
trái pháp luật, trái đạo đức xã hội ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển


16

của con. Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích của con chưa thành niên,
pháp luật quy định biện pháp chế tài khi cha, mẹ có hành vi vi phạm quyền
của con hoặc khi cha, mẹ có lối sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm
những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội ảnh hưởng nghiêm trọng tới
sự phát triển của con. Trong những biện pháp chế tài đó, có việc hạn chế

quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Hầu hết pháp luật các nước đều có quy định hạn chế một số hoặc
tước toàn bộ quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên khi cha, mẹ có
hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đối với con chưa thành niên hoặc
khi cha, mẹ có lối sống đồi trụy làm ảnh hưởng tới cuộc sống của con chưa
thành niên. Chẳng hạn như Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp có quy định:
“Cha, mẹ có thể bị “tước toàn bộ” quyền của mình đối với con bằng quyết
định nêu trong bản án hình sự nếu bị kết án là thủ phạm, đồng phạm hoặc
tòng phạm gây ra trọng tội hoặc khinh tội đối với nhân thân của con hoặc
là đồng phạm hay tòng phạm cùng con gây ra trọng tội hoặc khinh tội”
(Điều 378). Ngoài ra “...cha, mẹ cũng có thể bị tước toàn bộ quyền của
mình đối với con nếu gây nguy hiểm đến sự an toàn, sức khoẻ hoặc nhân
phẩm của con bằng việc đối xử không tốt với con hoặc thường xuyên say
rượu hoặc sử dụng chất ma tuý hoặc có phẩm hạnh xấu hoặc có hành vi
trái pháp luật hoặc thiếu chăm sóc, hướng dẫn con” [3, Điều 378-1, Mục
IV- chương I- Thiên IX, quyển thứ nhất].
Pháp luật Việt Nam quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên. Điều 41 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
hạn chế một số quyền của cha mẹ khi “cha, mẹ đã bị kết án về một trong
các tội cố ý xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con; vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
phá tán tài sản của con; có lối sống đồi trụy, xúi giục, ép buộc con làm


17

những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội..”. Từ điển Luật học giải
thích: " Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là: giới
hạn của pháp luật nhằm không cho cha, mẹ thực hiện một số quyền đối với
con chưa thành niên trong một thời hạn nhất định. Xuất phát từ nguyên tắc

bảo vệ quyền lợi của trẻ em, pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đã
quy định việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong
một số trường hợp và trong thời gian nhất định, đây là biện pháp chế tài
của pháp Luật Hôn nhân và gia đình áp dụng đối với cha, mẹ không thực
hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với con chưa thành niên có hành vi xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của người con”[5, tr 317].
Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên có một số
đặc điểm sau:
Thứ nhất, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là
một biện pháp chế tài của Luật hôn nhân và gia đình.
Pháp luật quy định cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ thương yêu, chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, làm gương tốt cho con về mọi mặt. Khi cha,
mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đối với con chưa thành niên
hoặc có lối sống đồi trụy;... thì cha, mẹ sẽ bị áp dụng chế tài đối với hành vi
vi phạm, đó là bị hạn chế một số quyền đối với con chưa thành niên. Như
vậy, có thể thấy hạn chế quyền của cha, mẹ là một chế tài mà pháp luật quy
định để áp dụng đối với cha, mẹ thông qua một quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là Toà án. Khi cha, mẹ bị Toà án ra quyết định hạn chế
quyền thì cha, mẹ không được thực hiện một số quyền nhất định như:
Không được quản lý tài sản riêng của con, chăm sóc, giáo dục, đại diện cho
con chưa thành niên trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hạn chế
quyền của cha, mẹ thể hiện thái độ của nhà nước trong việc bảo vệ quyền


18

lợi của con chưa thành niên.
Thứ hai, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là
một biện pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên.
Về mặt sinh học con chưa thành niên còn đang trong độ tuổi hình

thành, phát triển về thể chất và nhân cách. Vì vậy, các em cần được sống
trong một môi trường an toàn, lành mạnh có sự chăm sóc, giáo dục, nuôi
dưỡng của cha mẹ. Tuy nhiên, khi cha, mẹ có những hành vi xâm phạm
nghiêm trọng quyền và lợi ích của con chưa thành niên, môi trường sống
của con không còn được an toàn thì hạn chế quyền của cha, mẹ là cần thiết.
Khi hạn chế một số quyền của cha, mẹ sẽ ngăn chặn được những
hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của con, đồng
thời có thể ngăn chặn những yếu tố có thể ảnh hưởng gián tiếp tới sự phát
triển của con chưa thành niên. Tuy nhiên, theo các chuyên gia tâm lý, đối
với con chưa thành niên mà được sống trong tình yêu thương, chăm sóc của
cha, mẹ vẫn là môi trường sống lý tưởng nhất để các em phát triển tốt tâm
sinh lý. Nên việc hạn chế quyền của cha, mẹ như thế nào, trong thời gian
bao lâu cũng cần phải có sự cân nhắc để bảo vệ quyền lợi tốt nhất của các
con chưa thành niên.
Thứ ba, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên chỉ
làm hạn chế một số quyền của cha, mẹ chứ không làm chấm dứt mối quan
hệ giữa cha, mẹ và con.
Khi cha, mẹ bị Toà án ra quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên thì họ sẽ không được thực hiện một số quyền đối
với con của mình, chẳng hạn như không được chăm sóc, giáo dục, quản lý
tài sản riêng của con, đại diện theo pháp luật cho con… Cha, mẹ chỉ không
được thực hiện một số quyền này trong một khoảng thời gian nhất định,


19

chứ không kéo dài mãi mãi và không làm chấm dứt mối quan hệ giữa cha,
mẹ với con. Khi hết thời hạn hạn chế đó, cha, mẹ lại được thực hiện các
quyền của mình đối với con chưa thành niên.
Hạn chế quyền của cha, mẹ không làm chấm dứt quan hệ giữa cha,

mẹ với con được xuất phát từ cơ sở thực tiễn và pháp luật. Cơ sở thực tiễn
cho thấy, mối quan hệ giữa cha, mẹ với con là mối quan hệ thiêng liêng,
cha, mẹ chính là người sinh ra con; cha, mẹ và con cùng huyết thống nên
giữa cha, mẹ với con được gắn kết với nhau dựa trên “sợi dây vô hình” khó
lý giải cụ thể được, do vậy giữa cha, mẹ và con được gắn kết bởi tình cảm,
bởi sự yêu thương, bởi sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Do vậy mà cha, mẹ
với con có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó sâu sắc, khó có thể chia cắt. Cơ sở
pháp luật cho thấy quan hệ giữa cha, mẹ và con chỉ chấm dứt khi một bên
chết. Chính vì vậy, quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên của Toà án không làm chấm dứt quan hệ giữa cha, mẹ với con.
Như vậy, trên cơ sở phân tích những đặc điểm về hạn chế quyền của
cha, mẹ đối với con chưa thành niên, có thể đưa ra định nghĩa hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau: “Hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là một biện pháp chế tài được thể
hiện bằng quyết định của Toà án khi cha, mẹ có hành vi xâm phạm nghiêm
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, khi cha, mẹ có
lối sống đồi trụy hoặc xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội. Quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên không làm chấm dứt mối quan hệ giữa cha, mẹ và con mà chỉ
không cho cha, mẹ thực hiện một số quyền đối với con chưa thành niên
trong một thời hạn nhất định”.


20

1.1.2.2. Quan điểm lập pháp của Việt Nam về hạn chế quyền của
cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Các nhà lập pháp trên thế giới đều chú ý tới việc bảo vệ quyền của
con chưa thành niên trước những hành vi xâm phạm nghiêm trọng của cha
mẹ. Tuy nhiên, có những biện pháp xử lý khác nhau khi cha, mẹ có hành vi

vi phạm đối với con chưa thành niên. Hình thức xử lý nặng nhất là tước
toàn bộ quyền của cha, mẹ, đối với con chưa thành niên. Biện pháp này
nhằm tách hoàn toàn con chưa thành niên ra khỏi cha, mẹ; cha, mẹ sẽ
không được tiếp xúc với con, không được nuôi dưỡng chăm sóc, thể hiện
sự yêu thương với con, giữa cha, mẹ với con không được sống chung với
nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Tiếp theo là biện pháp hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Đây là biện pháp không
nhằm tách hoàn toàn con ra khỏi cha, mẹ mà cha, mẹ; cha, mẹ vẫn được
tiếp xúc với con, vẫn có thể sống cùng con, tuy nhiên cha, mẹ không được
thực hiện một số quyền nhất định đối với con chưa thành niên. Nhiều nước
có cả quy định tước toàn bộ quyền của cha, mẹ và hạn chế quyền của cha,
mẹ như Pháp, Ba Lan và một số nước phương Tây khác.
Đối với Việt Nam, xuất phát từ truyền thống văn hoá của một nước
phương đông, sự gắn kết và truyền thống yêu thương, chăm sóc của cha,
mẹ đối với con là rất lớn. Hơn nữa quan niệm trung hiếu, gia trưởng đã tồn
tại sâu trong tiềm thức của người dân, cha, mẹ luôn có quyền đối với con
cái, nhất là khi con chưa thành niên luôn sống chung với cha mẹ. Chính vì
vậy, quan điểm của nhà lập pháp Việt Nam coi hạn chế quyền của cha, mẹ
đối với con chưa thành niên là một trong những biện pháp bảo vệ quyền lợi
của con chưa thành niên nhưng chỉ hạn chế quyền của cha, mẹ trong những
trường hợp thật sự cần thiết và mang tính mền dẻo, theo phương châm lấy
giáo dục làm chính. Kể từ khi hình thành quy định hạn chế quyền của cha,


×