Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.25 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO THỊ HUỆ

PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2012


BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Viết tắt

Tên đầy đủ

BLDS

Bộ luật dân sự


DOCDEX

Bản quy tắc giải quyết tranh chấp về tín dụng chứng từ

ISBP

Tập quán Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế trong kiểm tra tín
dụng chứng từ theo tín dụng chứng từ

L/C

Thư tín dụng

UCP

Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ

eUCP

Bản phụ trương UCP về xuất trình chứng từ điện tử

URR

Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên ngân hàng theo tín
dụng chứng từ


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU


Trang
1

Chương 1

4

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ

1.1. Khái quát chung về thanh toán tín dụng chứng từ

4

1.1.1 Khái niệm tín dụng chứng từ (L/C)

4

1.1.2. Phân loại tín dụng chứng từ

7

1.2. Pháp luật điều chỉnh thanh toán tín dụng chứng từ

11

1.2.1. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ thanh toán tín dụng chứng từ

11


1.2.2. Nội dung pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động thanh toán tín dụng

16

chứng từ
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THANH
TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở

22

VIỆT NAM

2.1. Điều kiện chủ thể đối với các ngân hàng thương mại khi tham gia

22

thanh toán tín dụng chứng từ
2.2. Quyền và nghĩa vụ của các ngân hàng thương mại trong thanh toán

24

tín dụng chứng từ
2.3. Thủ tục, trình tự thanh toán tín dụng chứng từ

26

2.3.1. Thủ tục, trình tự thanh toán tín dụng chứng từ trong nước

26

28
30

2.3.2. Thủ tục, trình tự thanh toán tín dụng chứng từ quốc tế
2.4. Các biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ của
ngân hàng thương mại ở Việt Nam
2.4.1. Các rủi ro thường gặp trong thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng

30

thương mại
2.4.2. Các biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ của

34

ngân hàng thương mại
2.5. Các biện pháp giải quyết tranh chấp trong thanh toán tín dụng chứng

38

từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
2.5.1. Các tranh chấp trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ

38


2.5.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động thanh toán tín

42


dụng
2.6. Đánh giá chung về hiệu quả thanh toán tín dụng chứng từ của các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam
2.7. Nguyên nhân của những hạn chế trong áp dụng pháp luật về thanh

47
52

toán tín dụng chứng từ
2.7.1. Nguyên nhân chủ quan

52

2.7.2. Nguyên nhân khách quan

53
Chương 3

56

KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh phương thức thanh

56

toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt


58

động thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại
3.3.1. Ổn định môi trường kinh tế

63
63

3.3.2. Giải pháp đối với các bên tham gia giao dịch thanh toán tín dụng chứng

63

3.3 Những kiến nghị khác

từ

KẾT LUẬN

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ thương
mại và giao lưu quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặt ra nhiều cơ hội và thách

thức mới đối với các ngân hàng thương mại đặc biệt là trong hoạt động thanh toán
quốc tế. Đây là một lĩnh vực gắn liền với hoạt động thương mại quốc tế với quy mô,
phạm vi rộng lớn, phức tạp liên quan đến nhiều chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Vì
vậy hoạt động thanh toán quốc tế không ngừng được đổi mới và hoàn thiện, với việc
đa dạng hóa các hình thức thanh toán trong đó có phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn trong thanh toán, tăng nhanh tốc độ vòng
quay vốn, đẩy mạnh hợp tác và phân công lao động quốc tế. Với những ưu điểm
vượt trội như trên, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho cả bên mua và bên bán do có sự
cam kết của ngân hàng nên phương thức tín dụng chứng từ ngày càng trở nên phổ
biến trong hoạt động thanh toán quốc tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như là
Việt Nam. Sự phát triển đó không chỉ bao gồm sự gia tăng nhanh chóng về số
lượng và giá trị các giao dịch, sự đa dạng hóa các chủ thể tham gia quan hệ thương
mại mà còn thể hiện ở chỗ nền thương mại Việt Nam ngày càng hòa nhập với nền
thương mại khu vực và thế giới. Cùng với thực tế đó, pháp luật điều chỉnh về tín
dụng chứng từ cũng ngày càng phát triển, tạo một hành lang pháp lý phù hợp với
tình hình thực tế và có xu hướng hội nhập với các thông lệ, tập quán thương mại
quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó các văn bản pháp luật hiện hành quy
định về thanh toán bằng thư tín dụng còn nhiều tồn tại. Các văn bản này mới chỉ
dừng lại ở việc định nghĩa thế nào là tín dụng chứng từ mà chưa tạo ra được một cơ
chế rạch ròi, rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên, các quy định rải rác ở các
văn bản pháp luật làm cho quá trình tìm hiểu pháp luật về thư tín dụng rất khó
khăn... Qua tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả nhận thấy cần có một công trình nghiên
cứu về pháp luật Việt Nam và những tập quán, thông lệ quốc tế đối với thư tín dụng
và việc áp dụng chúng trên thực tiễn. Với suy nghĩ như vậy, tác giả lựa chọn đề tài
“Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” làm luận văn cho mình. Việc chọn đề tài nghiên cứu này, trước hết, là một
nỗ lực nhằm có được một sự hiểu biết sâu hơn về pháp luật về thư tín dụng, và sau
đó là hy vọng được đóng góp một phần công sức của mình vào quá trình hoàn thiện
các quy định pháp luật của nước ta về tín dụng chứng từ.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn gần đây, những vấn đề liên quan đến tín dụng chứng từ
được nhiều luật gia, tác giả quan tâm và đầu tư nghiên cứu, tiêu biểu như: luận văn
Thạc sỹ Luật học năm 2001 về “Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng và một
số vấn đề thực tiễn” của tác giả Bùi Thị Thu Hiền; Cẩm nang giải quyết tranh chấp
trong thanh toán quốc tế bằng L/C” năm 2006 của tác giả PGS-TS Nguyễn Thị
Quy; “Cẩm nang thanh toán quốc tế bằng L/C” năm 2007 của tác giả PGS-TS
Nguyễn Văn Tiến; “Hướng dẫn đọc để hiểu UCP – DC 600” năm 2007 của tác giả
PGS – TS Võ Thanh Thu...
Ngoài ra còn phải kể đến các bài viết về tín dụng chứng từ được đăng trên
các tạp chí chuyên ngành như: “Thư tín dụng xác nhận không hủy ngang và những
biến thể của nó” (Nguyễn Hữu Đức - Tạp chí Ngân hàng số 11/2001); “Một số vấn
đề pháp lý liên quan đến giao dịch chứng từ tại Việt Nam” (Đặng Thị Nhàn - Tạp
chí Ngân hàng số chuyên đề số 2001); “Khi L/C được phát hành bởi tổ chức phi
ngân hàng” (Nguyễn Hữu Đức – Thông tin Vietcombank số 04/2006); “UCP 600
có gì mới” (Nguyễn Hữu Đức – Tạp chí ngân hàng số 14/2006); cùng nhiều bài viết
khác…
Các công trình nghiên cứu, bài viết, đề tài trên đây đã chỉ ra vai trò quan
trọng của tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế, tuy nhiên cùng với xu
hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, pháp luật về thư tín dụng cũng
có những bước phát triển mới cần được tổng hợp và nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu mà tác giả mong muốn đạt được trong luận văn này là một cái nhìn
khái quát về các quy định của pháp luật Việt Nam về tín dụng chứng từ, thực tiễn
áp dụng pháp luật ở các ngân hàng thương mại của Việt Nam và những tồn tại cần
khắc phục. Xuất phát từ mục tiêu này, nhiệm vụ khoa học của luận văn cụ thể tập

trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng chứng từ như: Khái
niệm, đặc trưng, phân loại, quy trình phát hành, thanh toán thư tín dụng, các chủ
thể tham gia trong hoạt động này;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong nước và những thông lệ, tập
quán quốc tế về tín dụng chứng từ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam;
- Trên cơ sở đó luận văn rút ra một số kiến nghị theo hướng hoàn thiện pháp
luật về tín dụng chứng từ tại Việt Nam.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


3
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu pháp luật điều
chỉnh hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam, xem xét thực trạng để từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp đối với phương
thức thanh toán này. Trước hết, pháp luật được nghiên cứu trong luận văn là pháp
luật Việt Nam về tín dụng chứng từ và hệ thống thông lệ, tập quán quốc tế được
Phòng thương mại quốc tế tập hợp trong Quy tắc và thực hành thống về tín dụng
chứng từ (các ấn phẩm UCP).
Với những hạn chế về mặt thời gian và dung lượng của một luận văn thạc sỹ,
trong luận văn này không hướng tới việc mô tả lại toàn bộ những nội dung điều
chỉnh của pháp luật hiện hành về thư tín dụng hay hướng tới phân tích vấn đề thanh
toán bằng tín dụng chứng từ dưới góc độ nghiệp vụ mà khái quát những nội dung
điều chỉnh và tập trung chủ yếu vào phân tích khía cạnh pháp lý của mối quan hệ
của các bên, đánh giá thực trạng áp dụng trên thực tiễn hiện nay còn vướng mắc để
từ đó mạnh dạn đưa ra một số đánh giá và những kiến nghị hoàn thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong việc nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp bình luận, phân tích, so
sánh, thống kê… nhằm giải quyết các yêu cầu của luận văn đặt ra. Ngoài ra, đề tài

được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế, đồng thời tác giả cũng có sự tham
khảo, kế thừa chọn lọc các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này nhằm
hoàn thành luận văn.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về thanh toán tín dụng chứng từ.
Chương 2. Thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về thanh toán tín dụng
chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Chương 3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh
toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


4
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ
1.1. Khái quát chung về thanh toán tín dụng chứng từ
1.1.1 Khái niệm tín dụng chứng từ (L/C)
Trong thời đại ngày nay, khi mà thế giới đang trở lên “phẳng” hơn, quan hệ
quốc tế giữa các nước cũng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính
trị, ngoại giao, văn hóa, khoa học kỹ thuật… trong đó quan hệ kinh tế chiếm vị trí
chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quá trình tiến
hành các hoạt động thương mại quốc tế dẫn đến nhu cầu chi trả, thanh toán giữa
các chủ thể ở các nước khác nhau và ngân hàng là cầu nối trung gian giữa các bên.
Tuy nhiên do tính rủi ro của những thương vụ buôn bán toàn cầu, trong hoạt động

thương mại quốc tế nói chung và hoạt động dịch vụ thanh toán qua ngân hàng nói
riêng đã làm xuất hiện những phương thức thanh toán hiệu quả như nhờ thu,
chuyển tiền, tín dụng chứng từ…Trong số đó, tín dụng chứng từ là phương thức
thanh toán được sử dụng phổ biến nhất “khoảng 11-15% giao dịch thương mại
quốc tế sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, với tổng trị giá hàng năm là một
nghìn tỷ đô la Mỹ” [16] bởi tính linh hoạt, bảo đảm an toàn cho giao dịch thương
mại quốc tế.
Tín dụng chứng từ được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Letter of
Credit (L/C), Credit, Document Credit. Khái niệm tín dụng chứng từ (hay thư tín
dụng) cũng được thể hiện dưới những góc độ khác nhau. Trong thực tiễn pháp lý,
tín dụng chứng từ được định nghĩa không hoàn toàn giống nhau giữa pháp luật
quốc gia và thông lệ quốc tế.
Căn cứ Điều 2 Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (viết
tắt là UCP 600) tín dụng chứng từ được hiểu là “một sự thỏa thuận bất kỳ, cho dù
được gọi tên hay mô tả thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không hủy
ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
Đây là định nghĩa khá toàn diện, phản ánh tính không hủy ngang của thư tín
dụng và sự cam kết của ngân hàng đối với thư tín dụng do mình phát hành.
Trong pháp luật Việt Nam tín dụng chứng từ được định nghĩa tại Điều 16
Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán
qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


5
có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh
toán (người xin mở thư tín dụng), theo đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người
sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để:
- Trả tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của
người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện

của thư tín dụng; hoặc
- Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo
lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận
được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín
dụng.”
Đây là định nghĩa trực tiếp về tín dụng chứng từ duy nhất trong hệ thống văn
bản pháp luật của Việt Nam. Định nghĩa này đã phản ánh được bản chất của tín
dụng chứng từ là cam kết của ngân hàng phát hành về việc trả tiền hoặc ủy nhiệm
ngân hàng khác trả tiền cho người thụ hưởng theo các điều kiện đã thỏa thuận với
người xin mở thư tín dụng. Định nghĩa cũng thể hiện được hai phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán trả ngay và phương thức thanh
toán trả chậm.
Như vậy cả hai định nghĩa trên đây, dù căn cứ và hướng tới những chuẩn
mực khác nhau trong thanh toán quốc tế nhưng đều làm rõ các vấn đề mang tính
bản chất của tín dụng chứng từ, đó là:
- Thứ nhất, tín dụng chứng từ là sự thỏa thuận giữa ngân hàng phát hành và
bên yêu cầu mở thư tín dụng.
Trong mối quan hệ này, mở thư tín dụng là việc cung ứng dịch vụ của ngân
hàng, theo đó ngân hàng phát hành L/C trên cơ sở xem xét hợp đồng mua bán hàng
hóa được ký giữa người yêu cầu mở và người thụ hưởng. Người yêu cầu mở L/C sẽ
phải ký quỹ khoản tiền mở L/C và trả phí dịch vụ. Việc phát hành thư tín dụng hay
không là kết quả của sự thỏa thuận giữa ngân hàng với người yêu cầu mở thư tín
dụng, thông qua việc ngân hàng thẩm định các điều kiện mở thư tín dụng. Khi sử
dụng thư tín dụng như một phương tiện thanh toán đồng nghĩa với việc người yêu
cầu mở thư tín dụng sử dụng một dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Đặc điểm này thể
hiện tính trung gian tích cực của ngân hàng trong thực hiện cung ứng dịch vụ.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam



6
- Thứ hai, tín dụng chứng từ là cam kết đơn phương của ngân hàng về việc
trả tiền cho bên thụ hưởng thư tín dụng.
Thư tín dụng là cam kết đơn phương của ngân hàng về việc trả tiền cho
người thụ hưởng thư tín dụng nghĩa là trong quan hệ với người bán, ngân hàng sẽ là
người trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng. Cam kết trả tiền của ngân hàng không
liên quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng và người yêu cầu mở thư tín dụng. Ngân
hàng phát hành L/C tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng từ một khoản tiền
được bên mua lưu ký hay ký quỹ trước tại ngân hàng khi bên bán xuất trình đầy đủ
các chứng từ hợp lệ. Về nguyên tắc chính ngân hàng sẽ là người trực tiếp thanh
toán tiền với bên bán, sau đó sẽ yêu cầu hoàn trả lại từ phía bên mua trên cơ sở số
tiền ký quỹ của bên mua khi mở thư tín dụng. Như vậy ngay cả khi người yêu cầu
mở thư tín dụng mất khả năng thanh toán thì nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng
vẫn không chấm dứt. Đây là điểm khác biệt so với phương thức thanh toán bằng
séc, bởi trong phương thức thanh toán bằng séc, ngân hàng chỉ đơn thuần trích tiền
trong tài khoản tiền gửi của khách hàng trả cho người thụ hưởng.
- Thứ ba, tín dụng chứng từ độc lập với hợp đồng cơ sở phát sinh ra nó.
Về bản chất, tín dụng chứng từ là một giao dịch hoàn toàn độc lập với hợp
đồng mua bán là cơ sở để hình thành giao dịch tín dụng chứng từ. Điều này thể
hiện ở chỗ, sau khi phát hành thư tín dụng hợp lệ, ngân hàng phát hành chỉ bị ràng
buộc với thư tín dụng do chính mình phát hành chứ không bị chi phối, liên quan
hoặc bị ràng buộc với các hợp đồng mua bán vốn là cơ sở để phát sinh nhu cầu phát
hành thư tín dụng, thậm chí ngay cả trong thư tín dụng có bất kỳ sự dẫn chiếu nào
đến hợp đồng đó. Trong quá trình thanh toán, ngân hàng chỉ cần dựa trên chứng từ,
hồ sơ hợp lệ được các bên xuất trình mà không cần phải dựa vào thực tế giao nhận
hàng hóa, tên hàng, số lượng, trọng lượng, chất lượng, trạng thái, bao bì, giá trị
hoặc sự hiện hữu của hàng hóa... Bởi quan hệ trong hợp đồng mua bán là quan hệ
giữa người bán và người mua còn quan hệ thanh toán theo thư tín dụng lại phát sinh
giữa ngân hàng phát hành với người thụ hưởng thư tín dụng (người bán). Nếu xảy
ra rủi ro thực tế về giao nhận hàng hóa, việc giải quyết sẽ do hai bên mua, bán thực

hiện theo điều kiện của hợp đồng, ngân hàng không phải chịu trách nhiệm về hàng
hóa. Đây chính là một điểm ưu việt mà các phương thức thanh toán quốc tế khác
không có nhằm hạn chế rủi ro đối với các ngân hàng thương mại trong giao dịch
bằng tín dụng chứng từ.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


7
1.1.2. Phân loại tín dụng chứng từ
Thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ có nhiều loại khác nhau và
được áp dụng tùy thuộc vào mối quan hệ, tín nhiệm giữa hai bên. Căn cứ vào các
quy định của “Các quy tắc và thực hành thống nhất thư tín dụng chứng từ” (UCP
600) của Phòng Thương mại Quốc tế, thư tín dụng có thể được phân biệt thành các
loại sau đây:
Bảng 1.1. Phân loại tín dụng chứng từ

Tín dụng chứng từ

Hiệu lực cam
kết
L/C không
hủy ngang
L/C hủy
ngang
L/C không hủy
ngang có xác
nhận
L/C không hủy
ngang, miễn truy đòi


Cách thức
thực hiện

Thời hạn
thực hiện

Phạm vi
thực hiện

L/C có thể
chuyển nhượng

L/C không thể
chuyển
nhượng

L/C kỳ hạn

L/C nội địa

L/C tuần hoàn

L/C dự phòng

L/C trả ngay

L/C quốc tế

L/C giáp lưng


L/C đối ứng

L/C nhiều kỳ
hạn thanh
toán

L/C điều khoản
đỏ

a. Phân loại căn cứ theo hiệu lực cam kết của ngân hàng
Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable Letter of Credit)
Thư tín dụng có thể hủy ngang là thư tín dụng mà sau khi được mở thì
người nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc
nào mà không cần báo trước cho người thụ hưởng (người bán) biết, với điều kiện
trước khi bên bán chuẩn bị giao hàng. Hình thức thư tín dụng này bị xem như là trái
ngược với tính an toàn của phương thức tín dụng chứng từ, bởi nó không đem lại
bất kỳ bảo đảm thanh toán nào cho người thụ hưởng. Vì lý do đó, hiện nay phần
lớn thư tín dụng trên thế giới là không hủy ngang. UCP 600 có hiệu lực ngày 01
tháng 7 năm 2007 đã loại trừ hoàn toàn thư tín dụng hủy ngang khỏi danh mục các
thư tín dụng có thể phát hành bởi ngân hàng trong thanh toán quốc tế.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


8
Thư tín dụng không hủy ngang (Irrevocable Letter of Credit)
Thư tín dụng loại này sau khi đã được phát hành, ngân hàng phải cam kết
thực hiện theo đúng những điều khoản của nó, không được tự ý sửa đổi, hủy bỏ, trừ
khi có sự thỏa thuận nhất trí của các bên liên quan. Một L/C không ghi
“irrecocable” (có thể hủy ngang) thì vẫn được coi là không thể hủy ngang. Do ưu
điểm là quyền lợi của người thụ hưởng được đảm bảo nên loại L/C này đang được

sử dụng phổ biến trên thế giới.
Thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable Letter of
Credit)
Đây là loại thư tín dụng không hủy ngang được một ngân hàng có uy tín bảo
đảm trả tiền cho người thụ hưởng, theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng.
Bằng việc xác lập L/C, ngân hàng xác nhận tạo thêm một cam kết thanh toán một
cách độc lập đối với cam kết của ngân hàng phát hành để đảm bảo thực hiện cam
kết đó bất kể ngân hàng phát hành có thanh toán hay không. Ngân hàng xác nhận
có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành phải ký quỹ theo giá trị của thư tín dụng và
thu được một khoản phí xác nhận L/C.
Thư tín dụng không hủy ngang miễn truy đòi (Irrevocable without Recourse
Letter of Credit)
Là loại thư tín dụng không hủy ngang, mà sau khi người thụ hưởng đã được
trả tiền thì ngân hàng không có quyền đòi lại trong bất kỳ trường hợp nào. Như
vậy, quyền lợi của người thụ hưởng được đảm bảo tuyệt đối. Khi người sử dụng
thư tín dụng này, người bán phải ghi trên hối phiếu: “Miễn truy đòi người ký phát”,
đồng thời trong thư tín dụng cũng phải ghi như vậy.
b. Phân loại theo cách thức thực hiện
Thư tín dụng có thể chuyển nhượng (Transferable letter of credit)
Đây là L/C không thể hủy ngang, theo đó người thụ hưởng hiện hành có thể
yêu cầu ngân hàng mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện
L/C cho một hay nhiều người khác trong thời gian hiệu lực của thư tín dụng. Thư
tín dụng có thể chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần, chi phí chuyển
nhượng do người thụ hưởng đầu tiên chịu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Việc
chuyển nhượng chứng từ không có nghĩa là chuyển nhượng hợp đồng mua bán,
người thụ hưởng ban đầu vẫn chịu trách nhiệm về việc thực hiện các nghĩa vụ của
mình đối với người mua theo hợp đồng mua bán.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam



9
Thư tín dụng không thể chuyển nhượng (Nontransferable letter of credit)
Trong trường hợp thư tín dụng không quy định rõ là “transferable” (có thể
chuyển nhượng) thì thư tín dụng luôn được coi là không thể chuyển nhượng. Việc
một thư tín dụng không ghi là có thể chuyển nhượng sẽ không ảnh hưởng tới quyền
của người thụ hưởng chuyển nhượng mọi khoản tiền mà mình có thể có quyền
được hưởng theo thư tín dụng (Điều 39 UCP 600).
Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving letter of credit)
Là thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của
nó hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại có giá trị như cũ và vẫn tiếp tục được sử
dụng một cách tuần hoàn trong một thời hạn nhất định cho đến khi tổng giá trị hợp
đồng được thực hiện. Về lý thuyết, thư tín dụng tuần hoàn được chia làm hai loại:
- Thư tín dụng tuần hoàn có tích lũy là loại thư tín dụng cho phép chuyển giá
trị của thư tín dụng trước vào giá trị cho thư tín dụng sau, cứ như thế cho đến thư
tín dụng cuối cùng.
- Thư tín dụng tuần hoàn không tích lũy là loại thư tín dụng không cho phép
giá trị của thư tín dụng trước vào trị giá của thư tín dụng sau.
Trong quá trình thanh toán, L/C tuần hoàn cần ghi rõ ngày hết hiệu lực cuối
cùng, số lần tuần hoàn của thư tín dụng và là L/C tuần hoàn có tích lũy hay không.
Loại thư tín dụng này thường được dùng khi các bên tin cậy lẫn nhau, khi mua
hàng thường xuyên, định kỳ, khối lượng lớn và trong thời hạn dài. Việc sử dụng
thư tín dụng tuần hoàn có những thuận lợi đối bên mua như không bị ứ đọng vốn,
giảm được chi phí mở L/C nhiều lần. Còn đối với bên bán, họ không phải chờ đợi
L/C mới, đồng thời khi giao hàng có thể nhận được ngay tiền trong cùng một L/C.
Thư tín dụng dự phòng (Standby letter of credit)
Loại thư tín dụng này được sử dụng nhằm bảo đảm quyền lợi cho người mua
hàng trước nguy cơ vi phạm hợp đồng của người bán. Đây loại thư tín dụng được
mở theo yêu cầu của người thụ hưởng, trong đó quy định nghĩa vụ của ngân hàng
mở L/C cam kết sẽ thanh toán cho người yêu cầu mở thư tín dụng số tiền đã đặt
cọc, tiền ứng trước... trong trường hợp người thụ hưởng không hoàn thành nghĩa vụ

giao hàng mà L/C đã quy định, cũng như ngân hàng mở L/C sẽ bồi thường thiệt hại
do mình gây ra cho người mở L/C.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


10
Thư tín dụng giáp lưng (Back to back letter of credit)
Sau khi nhận được một thư tín dụng (gốc) của ngân hàng phát hành, người
thụ hưởng sử dụng thư tín dụng này để thế chấp mở một thư tín dụng khác cho
người thụ hưởng khác hưởng với nội dung tương tự như thư tín dụng ban đầu, thư
tín dụng mở sau gọi là thư tín dụng giáp lưng. Thư tín dụng giáp lưng không thể
chuyển nhượng.
Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal letter of credit)
Đây là loại L/C được phát hành theo yêu cầu của người bán cho người mua
thụ hưởng, tương ứng với L/C đã được người mua mở trước đó cho người thụ
hưởng là người bán. Để ràng buộc nghĩa vụ đối ứng người mua và người bán thì
L/C được phát hành cho người bán thụ hưởng (gọi là L/C mở trước) sẽ chỉ có hiệu
lực khi nào người bán đã mở ra một L/C đối ứng (gọi là L/C mở sau) cho người
mua thụ hưởng. Loại thư tín dụng này thường được sử dụng trong phương thức
hàng đổi hàng và trường hợp nhà cung cấp nguyên liệu và nhà gia công ở hai nước
khác nhau.
Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause letter of credit)
Thư tín dụng này có tên “Điều khoản đỏ” bởi vì điều khoản trong L/C được
viết bằng mực đỏ để lưu ý tính chất riêng của loại tín dụng này. Thực chất đây là
loại tín dụng ứng trước. Thư tín dụng này kèm theo một điều khoản đặc biệt ủy
nhiệm cho ngân hàng ứng trước tiền cho người hưởng trước khi họ xuất trình
chứng từ để mua hàng hóa, nguyên liệu sản xuất hàng hóa theo L/C đã mở. Tiền
ứng trước lấy từ tài khoản của người mở. Ngân hàng chỉ thực hiện các thủ tục theo
điều khoản của L/C mà không cam kết hoặc chịu trách nhiệm về số tiền đó.

c. Phân loại theo thời hạn thực hiện tín dụng chứng từ
Thư tín dụng thanh toán ngay (At sight letter of credit)
Đây là loại tín dụng chứng từ không hủy ngang mà ngân hàng phát hành L/C
cam kết sẽ thanh toán tiền hàng cho người thụ hưởng, ngay khi nhận được bộ
chứng từ phù hợp với L/C trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. “Việc thanh
toán cho người thụ hưởng được ngân hàng thực hiện ngay trên cơ sở chứng từ được
xuất trình và được kiểm tra” [10, tr.17].
Thư tín dụng trả chậm (Usance letter of credit)
Đối với thư tín dụng loại này, ngân hàng phát hành hối phiếu cam kết sẽ
thanh toán tiền hàng cho người thụ hưởng L/C sau một thời gian nhất định đã được
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


11
quy định trong L/C nếu người thụ hưởng xuất trình đủ bộ chứng từ hợp lệ trong
thời hạn hiệu lực theo quy định của L/C.
Thư tín dụng nhiều kỳ hạn thanh toán (deferred payment lettter of credit)
hay thư tín dụng thanh toán hỗn hợp (mixed payment letter of credit)
Đây là loại thư tín dụng mà một phần giá trị phải thanh toán ngay phần còn
lại được cho trả chậm.
d. Phân loại theo phạm vi thực hiện tín dụng chứng từ
Thư tín dụng thanh toán nội địa: Là loại thư tín dụng mà giao dịch thanh
toán được xác lập, thực hiện và kết thúc trên lãnh thổ một quốc gia. Thư tín dụng
thanh toán nội địa được sử dụng để thực hiện thanh toán đối với những hợp đồng
mua bán trong nước.
Thư tín dụng thanh toán quốc tế: Là thư tín dụng mà các bên tham gia quá
trình mở, thanh toán thư tín dụng có trụ sở ở các quốc gia khác nhau. Thư tín dụng
thanh toán quốc tế được sử dụng để thực hiện thanh toán đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
Như vậy trên thực tế có nhiều loại tín dụng chứng từ khác nhau. Nhu cầu

giao dịch phát sinh ngày càng đa dạng nên các lại thư tín dụng cũng phải điều chỉnh
cho phù hợp, để có thể lựa chọn một L/C thích hợp cho giao dịch thanh toán của
mình, bên yêu cầu mở thư tín dụng cần phải nắm được các mặt mạnh và hạn chế
của mỗi loại L/C, đồng thời phải xác định được loại L/C nào phù hợp với giao dịch
thương mại của mình để từ đó đề nghị ngân hàng phát hành L/C cho người bán
hàng của mình. Tuy nhiên, ngân hàng có thể làm công tác tư vấn loại thư tín dụng
nào bảo vệ họ. Vai trò của ngân hàng tham gia trong phương thức này bắt đầu từ
việc tư vấn ký kết các điều khoản hợp đồng phát hành L/C cho đến khi tất toán. Có
như vậy mới có thể sử dụng L/C một cách hiệu quả và tránh được những rủi ro
không đáng có.
1.2. Pháp luật điều chỉnh thanh toán tín dụng chứng từ
1.2.1. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ thanh toán tín dụng chứng từ
Dù phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán có
nhiều ưu điểm nhưng không có nghĩa là nó hoàn toàn loại trừ mọi rủi ro đối với cả
bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ thanh toán bằng tín dụng chứng từ,
bởi vậy việc điều chỉnh bằng pháp luật với hoạt động này là thực sự cần thiết. Trên
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


12
thế giới, hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng ra đời rất sớm, cùng với nó pháp
luật thanh toán bằng thư tín dụng cũng ra đời và phát triển tương đối hoàn thiện, tạo
ra hành lang pháp lý cho hoạt động này. Tại Việt Nam, thư tín dụng xuất hiện trong
nền kinh tế từ những năm 50 của thế kỷ trước nhưng mới chỉ thực sự được chú ý và
điều chỉnh trong văn bản pháp luật trong những năm gần đây.
Chính vì vậy, hiện nay ở nước ta hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C chịu
sự điều chỉnh đồng thời của hai nguồn luật đó là: pháp luật quốc gia và các thông
lệ, tập quán quốc tế.
a. Pháp luật quốc gia
Nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng tín dụng chứng từ trong

hoạt động thanh toán quốc tế nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh
toán bằng L/C đã ra đời, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán bằng
thư tín dụng ở nước ta như:
Quyết định số 22/1994/QĐ-NH1 ngày 21/2/1994 ban hành thể lệ thanh toán
không dùng tiền mặt;
Thông tư số 08 của Ngân hàng nhà nước ngày 02/6/1994 hướng dẫn thể lệ
thanh toán không dùng tiền mặt;
Quyết định số 711/2001/QĐ – NHNN ngày 25/5/2001 về việc ban quy chế
mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm.
Đây là những văn bản đầu tiên có quy định trực tiếp việc về lĩnh vực thanh
toán bằng thư tín dụng. Tuy nhiên, những quy định này mới ở mức chung chung,
bó hẹp nghiệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng.
Cùng với các văn bản trên, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn
nhiều quyết định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về thanh toán tín dụng chứng
từ được ban hành như:
Quyết định số 226/2002/QĐ – NHNN ngày 26/3/2002 của Thống đốc ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán;
Quyết định số 1092/2002/QĐ – NHNN ngày 08/10/2002 ban hành thủ tục
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
Hai văn bản này đã khắc phục được nhiều nhược điểm trong Quyết định số
22 ngày 21/2/1994 và Thông tư số 08 của Ngân hàng nhà nước ngày 02/6/1994.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


13
Tuy nhiên, những văn bản này không phải là những văn bản riêng điều chỉnh hoạt
động thanh toán bằng thư tín dụng. Ngoài ra, hoạt động thanh toán tín dụng chứng
từ còn có sự điều chỉnh của các văn bản quy định pháp luật có liên quan như Luật
các công cụ chuyển nhượng 2005, Pháp lệnh ngoại hối 2005...

Tóm lại, cùng việc mở rộng quan hệ ngoại thương, việc thanh toán bằng L/C
ngày càng phổ biến. Pháp luật Việt Nam về tín dụng chứng từ cũng ngày càng được
hoàn thiện theo hướng đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đất nước và phù hợp
hơn với thông lệ, tập quán quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán tín dụng chứng
từ vẫn chịu sự điều chỉnh chủ yếu của tập quán, thông lệ quốc tế.
b. Thông lệ, tập quán quốc tế
Ngoài pháp luật quốc gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng
từ còn chịu sự điều chỉnh đồng thời bởi các thông lệ và tập quán thương mại quốc
tế. Ở nước ta, pháp luật thừa nhận việc áp dụng quy định của thông lệ và tập quán
quốc tế trong lĩnh vực tín dụng chứng từ. Điều 19 Quyết định số 226/2002/QĐ –
NHNN ngày 26/3/2002 về ban hành Quy chế thanh toán qua các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán quy định: “Thanh toán bằng thư tín dụng: Việc mở, phát hành,
sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền, nghĩa vụ . . .
của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng thực hiện theo các quy tắc
chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại quốc tế ICC ban hành, do các
bên tham gia thanh toán thoả thuận áp dụng và theo quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam”. Căn cứ vào quy định trên thì các bên tham gia hoạt động thanh
toán bằng thư tín dụng được phép thỏa thuận và áp dụng tâp quán quốc tế. Văn bản
quan trọng nhất hiện nay về thanh toán bằng thư tín dụng chính là Quy tắc và thực
hành thống nhất về tín dung chứng từ.
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Customs
and Practice for Documentary Credit- UCPDC- gọi tắt là UCP).
UCP là một tập hợp các nguyên tắc và tập quán quốc tế được Phòng thương
mại Quốc tế (International Chamber of Commerce- ICC) soạn thảo và phát hành,
quy định quyền hạn, trách nhiệm của các bên liên quan trong giao dịch tín dụng
chứng từ với điều kiện thư tín dụng có dẫn chiếu theo UCP. Bản UCP đầu tiên số
82, năm 1933 được Hội nghị ICC lần thứ 7 tại Viene thông qua và công bố. Sau đó,
nó đã được ICC chỉnh sửa và bổ xung qua 6 lần vào các năm: 1951 (UCP 151),
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam



14
1964 (UCP 222), 1974 (UCP 290), 1983 (UCP 400), 1993 (UCP 500) và mới đây
là UCP 600 có hiệu lực từ 1/7/2007. Các bản UCP sửa đổi sau không hủy bỏ các
UCP trước đó, vì vậy 7 ấn phẩm UCP ban hành ở các năm khác nhau đều có giá trị
trong thanh toán tín dụng chứng từ. Áp dụng UCP nào do các bên tham gia quyết
định và phải dẫn chiếu vào thư tín dụng.
Không chỉ chịu sự điều chỉnh của UCP mà hoạt động thanh toán tín dụng
chứng từ của ngân hàng thương mại còn chịu sự điều chỉnh của các thông lệ, tập
quán khác như:
Tập quán Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế trong kiểm tra tín dụng chứng từ
theo thư tín dụng (Internationl Standard Banhking Practice Under doccumentary
Credit – viết tắt là ISBP
ISBP cũng là một tập quán ngân hàng quốc tế được các chủ thể tham gia vào
phương thức thanh toán quốc tế sử dụng nhiều bởi ISBP không sửa đổi hay mâu
thuẫn với UCP mà tập quán giải thích một cách chi tiết, rõ ràng hơn các quy tắc của
UCP và cách áp dụng trong giao dịch hàng ngày của phương thức thanh toán bằng
L/C. Thông qua việc sử dụng ISBP, những người kiểm tra chứng từ, đặc biệt là các
ngân hàng phát hành L/C sẽ có tiếng nói chung hơn với các đồng nghiệp trên toàn
thế giới. Phiên bản ISBP mới nhất dùng để giải thích cho UCP 600 là ISBP 681.
Bản phụ trương UCP về xuất trình chứng từ điện tử (Supplement To The
Uniform customs and Practice for Documantary Credit For Electronic
presentation – viết tắt là eUCP)
Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, các giao dịch điện tử ngày
càng trở nên phổ biến với việc điện tử hóa các chứng từ nói chung và chứng từ
thanh toán nói riêng, điều này nảy sinh nhu cầu có một tiêu chuẩn quốc tế điều
chỉnh việc sử dụng các chứng từ điện tử trong thanh toán quốc tế. Ủy ban ngân
hàng của ICC đã thành lập tổ công tác gồm các chuyên gia về UCP, thương mại
điện tử, luật, vận tải, bảo hiểm...để soạn thảo các quy định bổ sung cho UCP. Vào
ngày 01 tháng 04 năm 2002, bản phụ trương của UCP 500 ra đời với tên gọi là

eUCP điều chỉnh việc xuất trình chứng từ điện tử trong thanh toán quốc tế. Với bản
UCP 600 thì ta có bản phụ trương là eUCP1.1. Trên thực tế, eUCP không thể thay
thế cho UCP mà là bộ phận bổ sung của UCP, việc áp dụng eUCP chỉ có hiệu lực
khi trong L/C cho phép xuất trình chứng từ điện tử.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


15
Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên ngân hàng theo L/C (Uniform Rules For
bank – to – bank Reimbursemants Under Doccumentary-viết tắt là URR)
Quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng URR bao gồm các
quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo tín dụng chứng từ.
URR áp dụng cho tất cả các giao dịch hoàn trả giữa các ngân hàng. Quy tắc này
ràng buộc các bên tham gia trừ khi có sự thỏa thuận rõ ràng khác trong ủy quyền
hoàn trả. Ngân hàng phát hành L/C có trách nhiệm quy định trong thư tín dụng là:
“Yêu cầu hoàn trả tuân thủ URR 525”. Trong việc hoàn trả hành động theo chỉ thị
hoặc theo sự ủy quyền của ngân hàng phát hành. Quy tắc này không bị loại bỏ hoặc
thay đổi giữa các điều khoản của UCP. Để phù hợp với thực tiễn ứng dụng, một số
điều khoản của URR 525 không còn phù hợp với UCP 600, cho nên vào tháng
4/2008 Ủy ban ngân hàng ICC đã quyết định dự thảo bản URR 725 để thay thế cho
URR 525 và từ ngày 01/10/2008 thì URR 725 bắt đầu có hiệu lực áp dụng.
Quy tắc quốc tế về thư tín dụng dự phòng (ISP98)
Khác với UCP là áp dụng cho tất cả các loại thư tín dụng, tập quán thư tín
dụng dự phòng – ISP98 chỉ dùng cho loại thư tín dụng dự phòng và thường áp dụng
ở thị trường Mỹ.
Như vậy, ta thấy rằng trong tất cả các văn bản trên thì UCP là văn bản phổ
biến nhất còn các văn bản khác có tính chất giải thích và làm rõ việc áp dụng và
thực hiện UCP.
Do có nhiều nguồn luật cũng tham gia điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng
tín dụng chứng từ nên có một nguyên tắc về trình tự ưu tiên theo thứ tự ưu tiên theo

thứ tự giảm dần về mặt pháp lí là công ước quốc tế và luật quốc tế, luật quốc gia,
thông lệ và tập quán quốc tế. Tuy nhiên, nếu có sự mâu thuẫn giữa các nguồn luật
thì luật quốc gia cũng được ưu tiên vượt lên trên về tính chất pháp lý đối với thông
lệ và tập quán quốc tế. Điều đó có nghĩa rằng: nếu trong việc áp dụng UCP mà nội
dung của UCP có sự xung đột với pháp luật quốc gia, thì luật quốc gia được ưu tiên
áp dụng, tức là trong những trường hợp đó luật Việt Nam sẽ được áp dụng điều
chỉnh. Điều này cũng được quy định cụ thể tại Điều 3 BLDS 2005: “…tập quán và
quy định tương tự pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong
Bộ luật này”.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


16
1.2.2. Nội dung pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động thanh toán tín
dụng chứng từ.
a. Chủ thể trong thanh toán tín dụng chứng từ
Trong quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng, có hai loại chủ thể tham gia, đó
là bên cung ứng dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ và bên sử dụng dịch vụ thanh
toán tín dụng chứng từ.
Bên cung ứng dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ
Chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ gồm các ngân hàng
thành lập và hoạt động theo Luật tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có đủ điều
kiện, trong đó ngân hàng là chủ thể chủ yếu thực hiện thanh toán tín dụng chứng từ.
Theo quy định, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng bao
gồm:
Ngân hàng phát hành tín dụng chứng từ (opening bank; issuing bank): Là
ngân hàng thực hiện phát hành L/C theo đơn của người yêu cầu mở thư tín dụng.
Ngân hàng phát hành thường được bên xuất khẩu và nhập khẩu thỏa thuận và quy
định trong hợp đồng, nếu chưa có quy định trước người nhập khẩu có quyền lựa

chọn.
Ngân hàng thông báo (advising bank): thường là ngân hàng đại lý hay một
chi nhánh của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu. Khi nhận được điện
thông báo L/C của ngân hàng phát hành L/C, ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội
dung L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. Ngân hàng
thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó, chứ không chịu
trách nhiệm phải dịch, diễn giải từ chuyên môn ra tiếng địa phương.
Ngân hàng xác nhận (Confirming bank): Là ngân hàng được ngân hàng phát
hành yêu cầu đứng ra xác nhận L/C trong trường hợp nhà xuất khẩu muốn có sự
đảm bảo chắc chắn của L/C bằng thủ tục xác nhận. Thông thường, đó là một ngân
hàng lớn có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế, đôi khi đó chính là
ngân hàng thông báo.
Ngân hàng chỉ định (Nominated Bank): Là ngân hàng xác nhận hoặc ngân
hàng nào đó được ngân hàng phát hành ủy nhiệm để khi nhận được bộ chứng từ
xuất trình phù hợp với những quy định trong L/C thì thanh toán cho người thụ
hưởng, chấp nhận hối phiếu kỳ hạn, chiết khấu hối phiếu hoặc bộ chứng từ, hoặc
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


17
chịu trách nhiệm trả chậm giá trị của L/C. Ngân hàng chỉ định cũng có trách nhiệm
kiểm tra bộ chứng từ của người thụ hưởng gửi đến như ngân hàng phát hành.
Bên sử dụng dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ
Chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ là tổ chức, cá nhân
bao gồm: người yêu cầu mở thư tín dụng và người thụ hưởng
Người yêu cầu mở thư tín dụng (Applicant for letter of credit): là bên mà thư
tín dụng phát hành theo yêu cầu của họ. Trong thương mại quốc tế, người yêu cầu
thường là người nhập khẩu hoặc nhà nhập khẩu ủy thác cho một người khác yêu
cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một L/C và có trách nhiệm pháp lý về việc
ngân hàng phát hành trả tiền cho người thụ hưởng L/C. Người yêu cầu mở L/C còn

có tên gọi khác như: người mua (buyer), người nhập khẩu (importer), người mở
L/C (opener), người trả tiền (accounter), người ủy thác (principal).
Người thụ hưởng thư tín dụng (Beneficiary of letter of credit): Là bên được
hưởng số tiền thanh toán hay sở hữu hối phiếu đã chấp nhận thanh toán theo L/C
Tùy hoàn cảnh cụ thể mà Người thụ hưởng có thể có những tên gọi khác nhau như:
người bán (seller), nhà xuất khẩu (exporter), hay bất cứ người nào mà người hưởng
lợi chỉ định.
b. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong thanh toán tín dụng chứng
từ
Hiện nay ở nước ta chưa có quy định cụ thể về vấn đề này mà chỉ dừng lại ở
chỗ quy định chung về quyền và nghĩa vụ của các bên trong thanh toán theo quy
định tại Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán. Theo đó:
Quyền của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
+ Quy định phí dịch vụ thanh toán đối với dịch vụ thanh toán mà mình cung
cấp, các biện pháp bảo mật, phòng chống gian lận đảm bảo an toàn trong thanh
toán, đóng tài khoản khi tài khoản không hoạt động trong thời hạn dài và số dư thấp
dưới mức quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, quy định về hạn mức
thấu chi và các quy định khác không trái pháp luật.
+ Yêu cầu người sử dụng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin có liên quan
khi sử dụng dịch vụ thanh toán và trong quá trình sử dụng dịch vụ thanh toán.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


18
+ Từ chối cung cấp dịch vụ thanh toán khi người sử dụng dịch vụ thanh toán
không đáp ứng đầy đủ các điều kiện để sử dụng dịch vụ thanh toán, không tuân thủ
quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc vi phạm các thoả thuận
khác.

Nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
+ Thực hiện giao dịch thanh toán kịp thời, an toàn theo yêu cầu của người sử
dụng dịch vụ thanh toán, niêm yết công khai về phí dịch vụ thanh toán giữ bí mật
các thông tin liên quan đến tài khoản thanh toán của người sử dụng dịch vụ thanh
toán, trừ các trường hợp được pháp luật quy định, giải quyết hoặc trả lời các khiếu
nại của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong phạm vi quyền hạn của mình;
+ Từ chối thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất
hợp pháp;
+ Không được che dấu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về người sử
dụng dịch vụ thanh toán, số tiền thanh toán và các thông tin có liên quan khác đối
với các giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp.
+ Cung cấp thông tin cho chủ tài khoản; Báo cáo Ngân hàng Nhà nước [4].
Quyền của người sử dụng dịch vụ thanh toán
+ Thoả thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán về hạn mức thấu chi
và các thoả thuận khác không trái pháp luật.
+ Yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin.
+ Khiếu nại và đòi bồi thường thiệt hại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
khi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: thực hiện giao dịch thanh toán chậm so
với thoả thuận; không thực hiện giao dịch thanh toán hoặc thực hiện giao dịch
thanh toán không đúng số tiền, người được thụ hưởng theo yêu cầu của lệnh thanh
toán đó; thu phí dịch vụ thanh toán không theo loại phí hoặc mức phí mà tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán đã công bố và các vi phạm khác.
Nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ thanh toán
+ Trả phí dịch vụ thanh toán cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; hoàn
trả đầy đủ, đúng hạn số tiền thấu chi trên tài khoản thanh toán (nếu có thoả thuận)
và tiền lãi tính trên số tiền thấu chi đó theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán và thực hiện đầy đủ các quy định khác của tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán.
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam



19
+ Hoàn trả tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trong trường hợp thụ hưởng
số tiền không có căn cứ pháp luật thông qua giao dịch thanh toán do tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán thực hiện [4].
c) Thủ tục phát hành, thanh toán tín dụng chứng từ
Đối với giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ trong nước
Thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng nội địa, được quy định tại Quyết định
số 1092 ngày 08/10/2002 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước. Theo quy định này,
thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng gồm những bước sau:
Bước một, bên trả tiền khi có nhu cầu thanh toán bằng thư tín dụng lập giấy
mở thư tín dụng nộp vào ngân hàng phục vụ mình theo mẫu do ngân hàng quy
định.
Bước hai, ngân hàng phục vụ người trả tiền kiểm tra xem xét tính hợp lệ của
đơn xin mở thư tín dụng và quyết định chấp nhận hay từ chối mở thư tín dụng. Nếu
không mở thư tín dụng, ngân hàng phải hoàn trả lại cho khách hàng giấy tờ và kèm
theo văn bản trả lời ghi rõ lý do từ chối mở. Nếu đồng ý mở, ngân hàng hàng mở
thư tín dụng phải gửi ngay thông báo về thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ người
thụ hưởng để thông báo cho người thụ hưởng.
Bước ba, ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng sau khi nhận được giấy mở thư
tín dụng do ngân hàng mở gửi đến thì tiến hành kiểm tra thủ tục mở thư tín dụng và
thông báo cho người thụ hưởng biết.
Bước bốn, bên thụ hưởng sau khi nhận được giấy mở thư tín dụng, tiến hàng
đối chiếu với hợp đồng hay đơn đặt hàng nếu đúng thì giao hàng và yêu cầu người
nhận hàng ký vào hóa đơn hay chứng từ giao hàng. Căn cứ vào hóa đơn, chứng từ
giao hàng, người thụ hưởng lập bốn liên bảng hóa đơn chứng từ giao hàng theo
mẫu nộp vào ngân hàng phục vụ mình để thanh toán tiền bán hàng.
Bước năm, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng kiểm tra chứng từ, nếu phù
hợp thì thanh toán cho người thụ hưởng.
Bước sáu, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng gửi hóa đơn chứng từ giao

hàng tới ngân hàng mở để được thanh toán.
Bước bảy, ngân hàng phục vụ bên trả tiền tất toán tín dụng.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


20
Đối với giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ quốc tế
Đối với hoạt động thanh toán tín dụng quốc tế, quy trình thanh toán thư tín
dụng theo UCP có tính chặt chẽ hơn quy trình thanh toán theo pháp luật Việt Nam,
ở mỗi khâu, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đều rõ ràng, cụ thể:
Sơ đồ 1.2: Quy trình thanh toán tín dụng chứng từ theo UCP 600

Người thụ
hưởng L/C
(4) Thông báo LC

(6’) Bộ chứng từ
(7) Thanh

Ngân hàng thông
báo

(6) Bộ
chứng
từ

toán

Ngân hàng chuyển

chứng từ
(6’) Bộ chứng từ

(3) Phát hành LC

Ngân hàng phát
hành
(1) Hợp đồng
ngoại thương

(2) Đơn mở LC

(8) Đòi tiền

(5) Giao hàng

Người yêu
cầu mở L/C
Chú giải:
Bước một, hai bên mua, bán ký kết hợp đồng với điều khoản áp dụng
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ theo UCP
Bước hai, người yêu cầu mở L/C làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân
hàng phục vụ mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người thụ hưởng. Đơn này
được lập theo mẫu thống nhất do ngân hàng phát hành, với nội dung đề nghị ngân
hàng mở L/C cho người thụ hưởng là bên bán trên cơ sở hơp đồng đã ký.
Bước ba, căn cứ vào đơn xin mở L/C, nếu đồng ý, ngân hàng phát hành mở
L/C và thông qua ngân hàng đại lý để thông báo cho người thụ hưởng.
Bước bốn, ngân hàng thông báo thông báo L/C bằng văn bản cho người thụ
hưởng. Việc thông báo này được thực hiện nguyên văn đúng như nội dung của L/C
đã phát hành mà không được phép thêm, bớt bất cứ điều khoản nào.

Bước năm, bên thụ hưởng L/C kiểm tra các nội dung, điều kiện và điều
khoản của L/C, nếu phù hợp với hợp đồng đã ký thì tiến hành thực hiện hợp đồng
với bên mua theo thỏa thuận, nếu không phù hợp thì đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C
Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


21
cho hợp với hợp đồng.
Bước sáu, sau khi giao hàng, người thụ hưởng lập bộ chứng từ hàng hoá,
chứng từ thanh toán theo yêu cầu L/C xuất trình (thông qua ngân hàng thông báo)
cho ngân hàng phát hành để yêu cầu thanh toán trong thời gian L/C đang có hiệu
lực.
Bước bảy, sau khi nhận được bộ chứng từ do người thụ hưởng xuất trình,
ngân hàng phát hành (hoặc ngân hàng được ủy nhiệm thanh toán) kiểm tra bộ
chứng từ thanh toán (công việc này được tiến hành trong thời hạn xác định mà theo
UCP 500 là 7 ngày, theo UCP 600 là 5 ngày làm việc tiếp theo ngày xuất trình), nếu
phù hợp với quy định trong L/C thì tiến hành thanh toán hoặc chấp nhận thanh
toán. Nếu ngân hàng thấy không phù hợp thì sẽ tiến hành từ chối thanh toán và trả
lại hồ sơ cho người xuất khẩu.
Bước tám, ngân hàng phát hành giao lại bộ chứng từ thanh toán cho người
mở và yêu cầu thanh toán các khoản tiền cho mình, bao gồm: toàn bộ số tiền được
thanh toán theo L/C, phí dịch vụ phát hành và thanh toán L/C và các khoản tiền
phạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có). Người mở kiểm tra bộ chứng từ ngân hàng
chuyển cho, nếu thấy phù hợp thì chấp nhận hoàn trả, nếu không thấy phù hợp thì
từ chối thanh toán.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận văn đã nêu một cách khái quát về vấn đề mang tính lý
luận của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ như khái niệm, nguồn luật điều
chỉnh quan hệ thanh toán tín dụng chứng từ và nội dung pháp luật hiện hành điều

chỉnh hoạt động này. Từ đó có thể thấy những những ưu điểm vượt trội của phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ so với các phương thức thanh toán quốc tế khác,
nó dung hòa được lợi ích giữa các bên, và ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế
giới. Đây là tiền đề để tác giả phân tích cụ thể thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp
luật trong về thanh toán tín dụng chứng từ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam tại Chương 2.

Đào Thị Huệ - Pháp luật về thanh toán tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam


×