Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật việt nam về kiểm soát tập trung kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.7 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THỊ HIỀN ANH

PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2012


1

ĐỊNH NGHĨA DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Nguyên nghĩa

CQLCT

Cục quản lý cạnh tranh



HĐCT

Hội đồng cạnh tranh

TTKT

Tập trung kinh tế

LCT

Luật cạnh tranh

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


2

MỤC LỤC
ĐỊNH NGHĨA VIẾT TẮT

1

MỤC LỤC

2

MỞ ĐẦU


4

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ PHÁP LUẬT

8

VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ

1.1. Những vấn đề lý luận chung về tập trung kinh tế ................................................................
8
1.1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của hành vi tập trung kinh tế ................................
8
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của hiện tượng tập trung kinh tế trên thế giới

10

và Việt Nam ................................................................................................................................
1.1.3. Các hình thức tập trung kinh tế ................................................................................................
12
1.2. Kiểm soát bằng pháp luật đối với tập trung kinh tế ................................................................
13
1.2.1. Các luận cứ cho việc kiểm soát bằng pháp luật đối với tập trung kinh tế ................................
13
1.2.2. Những yếu tố chi phối hoạt động về kiểm soát tập trung kinh tế ................................
15
1.2.3. Những nội dung cơ bản về pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở một

17


số nước trên thế giới và ở Việt Nam ................................................................................................
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG

22

KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

2.1. Các quy định về tập trung kinh tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam ................................
22
2.2. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế. ................................................................ 28
2.2.1.Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế ở một số nước trên thế giới................

28

2.2.2. Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật Việt Nam.................................

32

2.3. Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế ...............................................................

35

2.3.1.Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật của một số nước...........

36

2.3.2. Trình tự, thủ tục xem xét tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh Việt Nam

40


2.4. Tố tụng cạnh tranh..........................................................................................

42

2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế.................................................

44

2.6. Vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc kiểm soát các hành vi tập

46


3

trung kinh tế
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

48

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

3.1. Một số căn cứ cho việc đưa giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tập

48

trung kinh tế ở Việt Nam
3.2. Những giải pháp hoàn thiện và nâng cao kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt

50


Nam
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế

50

3.2.2. Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong kiểm soát tập

56

trung kinh tế
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế

61

3.2.4 Tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam

63

Kết luận

67
69

Tài liệu tham khảo
72
Phụ lục


4


MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Tập trung kinh tế là một hiện tượng bình thường trong đời sống kinh tế, là
hành vi của doanh nghiệp. Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường xuất
phát điểm từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một
số lượng chủ yếu thì việc các doanh nghiệp đó tìm cách liên kết, tập trung lại với
nhau là một điều tất yếu và rất cần thiết. Mặt khác, trong bối cảnh chúng ta đang
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, đã xuất hiện các công ty đa quốc gia, với tiềm
lực kinh tế mạnh mẽ các công ty đa quốc gia này đã, đang và sẽ tiến hành các vụ
tập trung kinh tế nhằm hình thành vị trí thống lĩnh vị trí độc quyền dẫn đến một bộ
phận doanh nghiệp Việt Nam bị loại khỏi thương trường, gây tác hại tiêu cực đến
nền kinh tế thị trường non trẻ Việt Nam. Rõ ràng các hành vi tập trung kinh tế có
các tác động khác nhau và tác động trực tiếp đến sự vận hành cuả thị trường – cần
thiết phải được pháp luật điều chỉnh. Nhận thức được tầm quan trọng của việc tập
trung kinh tế dẫn đến độc quyền nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ban
hành pháp luật để kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế.
Bài học đầu tiên đối với Việt Nam là học tập kinh nghiệm của các nước
có nền kinh tế thị trường trong việc kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế và phải
điều chỉnh, ban hành kịp thời các quy định pháp luật cụ thể về vấn đề này. Tuy
nhiên các quy định pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam còn mới
mẻ, khoa học pháp lý có ít những công trình nghiên cứu toàn diện, công phu. Vì
vậy tác giả đã mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Kiểm soát tập trung kinh
tế theo quy định của pháp luật Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện tượng tập trung kinh tế nói riêng và cạnh tranh nói chung đều được
các quốc gia trên thế giới quan tâm và kiểm soát bằng nhiều cách khác nhau như:
chính sách thuế, kiểm soát giá cả, quốc hữu hóa, ban hành các biện pháp khác
nhau trong đó việc các quốc gia ban hành pháp luật được xem là công cụ hữu hiệu
nhất.



5

Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004
và có hiệu lực từ ngày 1/7/2005. Đây cũng là lần đầu tiên vấn đề về kiểm soát tập
trung kinh tế mới được quy định một các có hệ thống. Do vậy dưới góc độ khoa
học pháp lý, công việc nghiên cứu về kiểm soát tập trung kinh tế mới chỉ dừng lại
trong một số bài viết cho các tạp chí, các báo điện tử hoặc với tính chất là một
chuyên đề trong đề tài khoa học cấp trường, cấp Bộ mà có chưa có công trình nào
khảo cứu chuyên sâu, được xem xét một cách hệ thống, toàn diện và cụ thể. Như
vậy, tính đến thời điểm mà tác giả lựa chọn và bảo vệ đề tài: “Kiểm soát tập trung
kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam” thì có thể được coi là vấn đề còn
mới ở Việt Nam. Điều đó cũng đồng nghĩa việc tác giả phải đối mặt, song hành
với nhiều cơ hội thách thức và khó khăn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất, nội dung của tập trung kinh tế
và pháp luật cạnh tranh kiểm soát hành vi tập trung kinh tế, từ đó đưa ra phương
hướng và các giải pháp khi xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật cạnh tranh điều chỉnh vấn đề này. Để đạt được mục đích trên, luận văn
đạt ra nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận cơ bản về tập trung kinh tế.
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hành vi tập trung kinh tế
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hành vi
tập trung kinh tế ở Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với pháp luật cạnh tranh ở
một số nước trên thế giới.
Đưa ra phương hướng và một số giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện pháp
luật về kiểm soát tập trung kinh tế để đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ với các quy
định của pháp luật hiện hành về cạnh tranh và hài hòa với pháp luật quốc tế



6

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Mặc dù người viết có tinh thần quyết tâm cao muốn tìm hiểu việc pháp luật
kiểm soát hành vi tập trung kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ pháp luật khác
nhau nhưng theo yêu cầu và giới hạn của luận văn tốt nghiệp cao học luật, người
viết không thể có tham vọng nghiên cứu sâu tất cả các vấn đề pháp luật liên quan
đến kiểm soát tập trung kinh tế mà chỉ ở một số các quy định trong Bộ luật dân sự,
luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật chứng khoán. Nhưng chủ yếu tác giả nghiên
cứu cụ thể và luật giải bằng hệ thống các quy phạm trong Luật cạnh tranh. Hy
vọng một ngày không xa tác giả sẽ được quay trở lại nghiên cứu đề tài mà mình
yêu thích này ở mức độ hoàn thiện, toàn diện hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa,
so sánh luật học kết hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác – Leenin về nhà nước và
pháp luật, đồng thời quán triệt sâu sắc các đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để
giải quyết những mục đích, nhiệm vụ do đề tài đặt ra.
6. Những kết quả nghiên cứu mới cuả luận văn
Luận văn đã lý giải được cơ sở khoa học về sự ra đời của tập trung kinh
tế, làm rõ đặc điểm pháp lý của tập trung kinh tế và ảnh hưởng của tập trung kinh
tế đến nền kinh tế.
Luận văn đã phân tích khá toàn diện quá trình kiểm soát tập trung kinh tế
theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam và pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế
giới.
Căn cứ vào yêu cầu thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
điều chỉnh pháp luật cạnh tranh trong quá trình kiểm soát các hành vi tập trung
kinh tế ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn


7

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chưong
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kiểm soát tập trung kinh tế và
kiểm soát bằng pháp luật đối với tập trung kinh tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát tập trung kinh tế ở Việt Nam.


8

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ
1.1 Những vấn đề lý luận chung về TTKT
1.1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của hành vi tập trung kinh tế
Trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý, khái niệm tập trung kinh tế
(TTKT) ở Việt Nam được bình luận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, có ba
cách tiếp cận cơ bản
Một là, với tư cách là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của
cấu trúc thị trường, TTKT trên thị trường được hiểu là quá trình mà số lượng các
doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi
sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp
trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất[1]. Cách nhìn nhận này đã làm rõ nguyên
nhân và ảnh hưởng của TTKT đối với cấu trúc thị trường cạnh tranh. Tuy nhiên,
dường như quan điểm trên đã coi hiện tượng tích tụ tư bản là một phần của khái

niệm TTKT
Hai là, với tư cách là hành vi của các doanh nghiệp, TTKT (còn gọi là tập
trung tư bản) được hiểu là tăng thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại hoặc một
tư bản này thu hút một tư bản khác. Khái niệm này đã không đưa ra các biểu hiện
cụ thể của TTKT, nhưng lại cho thấy bản chất và phương thức của hiện tượng.
Ba là, dưới góc độ pháp luật, Luật cạnh tranh năm 2004 không quy định thế
nào là TTKT mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là TTKT. Theo đó, Điều 3 khoản
3 khẳng định TTKT là hành vi hạn chế cạnh tranh; Điều 16 quy định TTKT là
hành vi của doanh nghiệp bao gồm: (i) sáp nhập doanh nghiệp; (ii) hợp nhất doanh
nghiệp; (iii) mua lại doanh nghiệp; (iv) liên doanh giữa các doanh nghiệp; (v) các
hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy cho dù được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, tập trung kinh
tế vẫn có các bản chất cơ bản sau:
Thứ nhất: Chủ thể của TTKT là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị
trường. Luật cạnh tranh quy định phạm vi của khái niệm doanh nghiệp bao gồm


9

các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường và hộ kinh doanh cá thể. Tuy
nhiên đối chiếu bốn hành vi tập trung kinh tế nói trên với các quy định của pháp
luật liên quan, có thể thấy rằng chủ thể của hành vi sáp nhập, hợp nhất chỉ có thể
là các loại hình công ty theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 ( Công ty Cổ
phần, công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên, công ty Hợp
danh), công ty nhà nước theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, các hợp tác
xã theo Luật hợp tác xã năm 2003. Như vậy có thể thấy rằng không phải mọi loại
hình doanh nghiệp đều có thể thực hiện các hình thức TTKT, mà mỗi loại hình
TTKT khác nhau sẽ có những giới hạn khác nhau về chủ thể tham gia.
Thứ hai, hình thức TTKT bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh
giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tham gia TTKT đã chủ động tích tụ các

nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực quản lý, tổ chức kinh
doanh… mà chúng đang nắm giữ riêng lẻ để hình thành một khối thống nhất hoặc
phối hợp hình thành các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế. Dấu hiệu này
giúp khoa học pháp lý phân biệt TTKT với việc tích tụ tư bản trong kinh tế học.
Tích tụ tư bản là tăng thêm tư bản dựa vào tích lũy giá trị thặng dư, biến một phần
giá trị thặng dư thành tư bản. Có thể thấy rằng, tích tụ tư bản là quá trình phát triển
nội sinh của một doanh nghiệp theo thời gian bằng kết quả kinh doanh. Một doanh
nghiệp có thể tích tụ tư bản để có được vị trí đáng kể trên thị trường, song để điều
đó xảy ra đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, TTKT cũng có dấu
hiệu của sự tích tụ nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi của doanh
nghiệp.
Thứ ba, TTKT đã hình thành nên doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng
hợp hoặc liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, từ đó làm thay đổi
cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường.


10

1.1.2

Sự hình thành và phát triển của hiện tượng TTKT trên thế giới

và Việt Nam
* Nguyên nhân của hiện tượng TTKT
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Dưới sức ép của
cạnh tranh, các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
để tồn tại và phát triển. Một trong những cách để doanh nghiệp tồn tại và phát
triển là Tập trung kinh tế. Tập trung kinh tế bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ
bản sau:
Thứ nhất: Do tác động của cạnh tranh và nhu cầu chia sẻ rủi ro trong kinh

doanh
Cơ chế thị trường khiến các doanh nghiệp tự hoạch toán trong kinh doanh.
Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, vươn lên, phải cạnh
tranh với nhau. Cạnh tranh tác động tới tập trung kinh tế theo các hướng sau:
Các doanh nghiệp lớn sẽ tìm mọi cách thôn tính các doanh nghiệp nhỏ và vừa
để vươn tới hoặc củng cố vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của mình trên thị
trường. Nếu cạnh tranh không phân thắng bại thì một xu hướng là các doanh
nghiệp lớn sẽ sáp nhập hoặc hợp nhất lại với nhau.
Trước sức ép của cạnh tranh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa muốn tồn tại được
thì phải tìm cách liên kết, tập trung để phòng vệ và đứng vững. Do vậy đã thúc đẩy
quá trình TTKT
Như vậy TTKT vừa do sức ép của cạnh tranh, vừa là nhu cầu tất yếu của các
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Thứ hai, do sức ép của các cuộc khủng khoảng kinh tế
Nền sản xuất tư bản đã nổ ra rất nhiều các cuộc khủng khoảng kinh tế. Ví dụ
cuộc khủng khoảng năm 1920-1921,1929-1933,1937-1938…. Lịch sử đã chứng
minh mỗi khi xảy ra khủng khoảng thì các doanh nghiệp thường tập trung lại để
tìm kiếm cơ hội tồn tại. Do vậy khủng khoảng kinh tế đã thúc đẩy quá trình TTKT
phát triển.
Thứ ba, do nhu cầu phát triển kinh doanh từ thị trường.


11

Sự phát triển những ngành nghề kinh doanh mới và nhu cầu phát triển khoa
học kỹ thuật luôn đặt ra nhu cầu hợp tác trong kinh doanh. Có nhiều ngành nghề
kinh doanh cần nhiều vốn, nhà đầu tư đang có nhu cầu tham gia không thể đáp
ứng thì TTKT là một trong những cách thức hiệu quả giúp nhà đầu tư giải được
bài toán về vốn. Ngoài ra thực tế thị trường luôn nảy sinh nhiều nhu cầu phát triển
khoa học, công nghệ, kỹ thuật vượt quá năng lực của doanh nghiệp. Khi điều đó

xảy ra thì một trong những phương thức để các doanh nghiệp giải quyết là tập
trung các ngồn lực của họ với nhau bằng cách sáp nhập hoặc hợp nhất lại.
Ngoài những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến TTKT, còn một nhân tố ảnh
hưởng đến việc thúc đẩy quá trình TTKT phát triển là tín dụng. Thông qua hệ
thống tín dụng, tư bản tiền tệ và giá trị thặng dư được tập trung nhanh chóng thành
một giá trị đủ lớn để mở rộng sản xuất, kinh doanh mà trong điều kiện không có
tín dụng, mỗi nhà tư bản riêng biệt phải mất rất nhiều thời gian mới tích lũy và
phát triển được quy mô kinh doanh.
* Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động tập trung kinh tế
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển và đấy nhanh quá trình tích tụ, tập trung tư bản,
hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn. Qúa trình hợp nhất và sáp nhập phát triển
mạnh vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai khi các quốc gia có chính
sách khuyến khích việc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, mua lại cổ phần… nhằm
khôi phục kinh tế sau chiến tranh
Ở Mỹ nửa đầu thập kỷ 80 đã diễn ra hàng loạt các vụ hợp nhất. Bắt đầu từ
những công ty hoạt động trong ngành công nghiệp, sau đó lấn sang toàn bộ nền
kinh tế. Tính từ đầu những năm 90 đến nay, làn sóng hợp nhất các công ty lớn
diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Nếu như năm 1990, tổng số vụ sáp nhập trên
toàn thế giới là 11.300 vụ, với tổng giá trị khoảng 300 tỷ USD, thì đến năm 2006,
tổng giá trị các vụ mua bán và sáp nhập trên thế giới đã đạt 3.464 tỷ USD
Ở Châu Á, quá trình TTKT được phôi thai ngay trong thời kỳ thuộc
địa.TTKT được thực hiện không phải bằng các biện pháp cạnh tranh tự do mà chủ


12

yếu dựa vào các nguồn viện trợ, cho vay, đầu tư nước ngoài kết hợp với huy động
các nguồn lực trong nước.
Ở Việt Nam, hình thức TTKT đầu tiên xuất hiện là việc hình thành các tổng

công ty nhà nước theo quyết định số 90 và 91/TTg của thủ tướng chính phủ ngày
7/3/1994. Nhưng về bản chất đây là hành vi sáp nhập, liên minh theo thể thức
hành chính chứ không mang bản chất của hành vi sáp nhập, hợp nhất theo quy
định của hệ thống pháp luật cạnh tranh. Hiện nay phần lớn các công ty thuộc tổng
công ty nhà nước đều đã tiến hành cổ phần hóa.
Hiện nay, khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thì hình thức sáp nhập, hợp nhất ngày càng phổ biến. Trước khi có
Luật cạnh tranh, chúng ta đã giảm từ 13000 doanh nghiệp nhà nước xuống còn
3000 doanh nghiệp nhà nước thông qua việc hợp nhất các doanh nghiệp lại với
nhau. Nếu nhìn vào bên ngoài thì đó là hành vi TTKT, tuy hiên thời điểm đó chưa
có Luật cạnh tranh nên chưa thể xác định hành vi nào là TTKT, hành vi nào không
được TTKT. Kể từ khi Luật cạnh tranh 2004 ra đời, TTKT vẫn đang là xu thế của
các doanh nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo
Pricewaterhouse Cooper, hãng cung cấp dịch vụ tư vấn mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp hàng đầu thế giới thì riêng năm 2007, hoạt động mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp đã diến ra mạnh mẽ ở Việt Nam. Tổng giá trị của 113 vụ được công
bố trong năm đã đạt kỷ lục là 1,753 tỷ USD so với con số chỉ 38 vụ với tổng giá
trị là 299 triệu USD năm 2006 (báo cáo ttkt). 2010 đã có 345 vụ (gấp 9 lần) với
tổng giá trị gần 1,8 tỷ đô la Mỹ (gấp 17 lần).
1.1.3. Các hình thức Tập trung kinh tế
Dựa vào vị trí của các doanh nghiệp, TTKT được chia thành TTKT theo
chiều ngang, theo chiều dọc và theo đường chéo
TTKT theo chiều ngang là hợp nhất, sáp nhập. mua lại hoặc liên doanh giữa
các doanh nghiệp trong cùng thị trường liên quan (bao gồm thị trường địa lý liên
quan và thị trường sản phẩm liên quan).


13

Tập trung kinh tế theo chiều dọc: Là sự sáp nhập, hợp nhất, liên doanh, mua

lại giữa các doanh nghiệp có quan hệ người mua – người bán với nhau. Hình thức
này bao gồm các vụ tập trung kinh tế giữa các doanh nghiệp ở cấp độ khác nhau
trong cùng một chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm. Nói cách khác, các vụ việc
này phát sinh khi các doanh nghiệp đang hoặc sẽ có mối quan hệ mua - bán sản
phẩm thực hiện tập trung kinh tế, ví dụ, việc tập trung kinh tế giữa một công ty sản
xuất bánh và một công ty sản xuất bột mỳ, hoặc là giữa một doanh nghiệp bán
buôn và doanh nghiệp bán lẻ trong ngành công nghiệp may mặc.
Tập trung kinh tế theo đường chéo là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại liên
doanh giữa các doanh nghiệp không cùng hoạt động trên một thị trường sản phẩm
đồng thời không có mối quan hệ khách hàng với nhau.
1.2 Kiểm soát bằng pháp luật đối với Tập trung kinh tế
1.2.1 Các luận cứ cho việc kiểm soát bằng pháp luật đối với tập trung
kinh tế
* Luận cứ thứ nhất, cơ sơ kinh tế và pháp lý
Một là, do sức ép của cạnh tranh trong đời sống kinh doanh. Có hai mức độ
tập trung có thể xảy ra là: Các nhà kinh doanh tìm mọi cách với thời gian ngắn
nhất để có được vị trí cạnh tranh tối ưu trên thị trường; và các doanh nghiệp đang
yếu thế cần tập hợp thành liên minh hoặc đơn vị to lớn nhằm tìm kiếm cơ hội tồn
tại trước đối thủ lớn hơn đang chèn ép họ. Cả hai trường hợp nói trên đều dẫn đến
kết quả là các doanh nghiệp đang từ đối đầu trở thành những đơn vị liên kết và
không còn cạnh tranh với nhau nữa. Thành ra, sự TTKT bắt nguồn ở cạnh tranh
nhưng kết quả của nó lại là tiêu diệt cạnh tranh.
Hai là, do sức ép của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Lịch sử đã chứng minh
rằng, mỗi khi thị trường xảy ra khủng hoảng thì một trong những giải pháp hiệu
quả mà các doanh nghiệp thường sử dụng là tập trung lại để nương tựa vào nhau
hòng tìm kiếm cơ hội tồn tại.
Ba là, do nhu cầu phát triển năng lực kinh doanh của thị trường.


14


Dưới góc độ pháp lý, TTKT được các doanh nghiệp thực hiện dựa trên những
nguyên tắc căn bản mà pháp luật đã thừa nhận, đó là:
Thứ nhất, quyền tự do kinh doanh mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật
thừa nhận đã tạo ra chủ quyền cho doanh nghiệp trước nhà nước và pháp luật. Chủ
quyền của doanh nghiệp được thể hiện cơ bản ở hai nội dung: doanh nghiệp có
quyền định đoạt các vấn đề phát sinh trong nội bộ như quy mô kinh doanh, ngành
nghề, kế hoạch và phương hướng kinh doanh, lao động…; Doanh nghiệp có quyền
tự do liên kết trong kinh doanh, theo đó, quyền tự do khế ước bao gồm sự tự chủ
trong việc liên kết đầu tư để mua doanh nghiệp khác hoặc liên minh góp vốn thành
lập các chủ thể kinh doanh mới.
Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp của tất cả các quốc gia đều đã trao cho
doanh nhân (trong đó có các doanh nghiệp) quyền được thay đổi quy mô theo nhu
cầu kinh doanh. Trên cơ sở đó, các biện pháp tổ chức lại như sáp nhập, hợp nhất,
chuyển đổi hình thức kinh doanh… được ghi nhận như là các biện pháp căn bản để
doanh nhân chủ động thích ứng với các biến động thị trường, phù hợp với năng
lực kinh doanh của mình.
* Luận cứ thứ hai là tác động của TTKT đối với nền kinh tế thị trường
Sự ra đời của Tập trung kinh tế có tác động tích nhất định tới nền kinh tế. tuy
nhiên sự tác động này được đánh giá theo hai hướng.
- Tích cực
Thứ nhất, TTKT tạo ra quy mô kinh doanh lớn (đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ), từ đó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho nền kinh
tế phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
Thứ hai, TTKT thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Cơ chế thị trường
với sự cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới
khoa học kỹ thuật, công nghệ. Việc này đỏi hỏi các doanh nghiệp phải có một tiềm
lực nhất định về tài chính. Do vậy trong những trường hợp nhất định, TTKT là
một trong những biện pháp giúp thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ.



15

Thứ ba, TTKT là một trong những cách thức giúp doanh nghiệp, đặc biệt là
những doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng vững trước sức ép cạnh tranh của cơ chế thị
trường.
-Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, TTKT cũng có những ảnh hưởng tiêu
cực sau:
Thứ nhất, tập trung kinh tế dẫn đến tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung tư
bản dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Như vậy TTKT là “cửa ngõ tạo ra
các doanh nghiệp có vị thế thống lĩnh và độc quyền. Độc quyền và thống lĩnh thị
trường ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, làm mất đi hoặc hạn chế quyền tự do
lựa chọn của khách hàng. Lưu ý rằng sức mạnh của một doanh nghiệp không chỉ
biểu hiện ở thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan mà doanh nghiệp
đó còn tạo ra rào cản đối với việc ra nhập thị trường khiến cho các doanh nghiệp
mới hoặc những doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường rất khó khăn trong
hoạt động kinh doanh cũng như trong việc gia nhập thị trường để thích ứng với giá
cả và các điều kiện canh tranh.
Thứ hai, nếu pháp luật không kiểm soát chặt chẽ, tập trung kinh tế sẽ dẫn đến
cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho các doanh nghiệp còn lại
Thứ ba, TTKT làm giảm các đối thủ cạnh tranh độc lập trên thị trường, từ đó
tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp còn lại tham gia vào các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh để chống lại sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình
thành sau các vụ TTKT.
Chính vì những tác động kép trên của TTKT đối với nền kinh tế mà pháp luật
của tất cả các quốc gia đều đặt ra vấn đề kiểm soát hành vi TTKT.
1.2.2. Những yếu tố chi phối hoạt động về kiểm soát tập trung kinh tế
- Thứ nhất là cơ chế quản lý kinh tế
Có chế quản lý kinh tế là khái niệm dùng để chỉ phương thức mà qua đó nhà
nước tác động vào nền kinh tế để định hướng nền kinh tế vận động theo các mục

tiêu đã định. Cơ chế quản lý kinh tế là phương thức tác động của nhà nước do vậy


16

nó mang yếu tố chủ quan. Cơ chế kinh tế là phương thức vận động của nền kinh
tế, mang tính khách quan.
Nền kinh tế được phân thành nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (nền kinh tế
mệnh lệnh), nền kinh tế thị trường tự do, nền kinh tế hỗn hợp vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản ký của nhà nước.
-Nền kinh tế mệnh lệnh là nền kinh tế mà ở đó chính phủ đề ra mọi quyết
định về sản xuất và tiêu thụ. Hay nói cách khác, cơ quan của chính phủ sẽ quyết
định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, tiêu thụ ra sao, sau đó phân công đến
từng doanh nghiệp, hộ gia đình. Do đó các chủ thể kinh doanh không cần phải
cạnh tranh với nhau vì nhà nước là người đứng ra lo mọi khâu trong quá trình sản
xuất, kinh doanh. Lãi nhà nước hưởng, lỗ nhà nước chịu. Sự cạnh tranh giữa các
chủ thể kinh doanh là hầu như không có. Do vậy chưa có nguyên nhân dẫn đến
hành vi tập trung kinh tế và cũng không có pháp luật điều chỉnh hành vi tập trung
kinh tế. nếu nhà nước quy định việc sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp, thì việc
sáp nhập, hợp nhất đó chỉ mang tính hành chính chứ chưa phải là hành vi tập trung
kinh tế.
- Nền kinh tế thị trường tự do là nền kinh tế mà ở đó nhà nước không trực
tiếp can thiệp vào. Thị trường tự do cho phép các chủ thể kinh doanh tự do theo
đưổi lợi ích riêng của mình, không có sự can thiệp nào của chính phủ
- Giữa nền kinh tế mệnh lệnh và nền kinh tế tự do là nền kinh tế hỗn hợp, tức
nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, khu vực kinh tế nhà nước và
kinh tế tư nhân cùng phối hợp để giải quyết các vấn đề về kinh tế. Kinh tế thị
trường có những đặc trưng cơ bản như mỗi chủ thể được tự do quyết định các vấn
đề trong kinh doanh, sản xuất và bán hàng theo nhu cầu thị trường, khách hàng là
thượng đế…Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau,

do vậy xuât hiện các hiện tượng tích tụ tư bản dẫn đến tập trung kinh tế. Như đã
phân tích ở trên, tập trung kinh tế có tác động hai mặt tới nền kinh tế. chính bởi
điều đó nên cần phải có sự kiểm soát, can thiệp nhất định từ nhà nước. Nhà nước
sẽ thông qua pháp luật để kiểm soat hành vi tập trung kinh tế. Khi các quốc gia


17

xây dựng hệ thống pháp luật phải dựa vào các điều kiện kinh tế xã hội mới đảm
bảo hiệu quả thực thi pháp luật
- Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có những điểm khác cơ bản so với nền
kinh tế thị trường ở các nước khác. Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết của nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, pháp luật về điều chỉnh hoạt động tập
trung kinh tế ở Việt Nam sẽ phải tính đến các đặc thù riêng về kinh tế, chính trị, xã
hội... cụ thể trong từng thời kỳ.
- Thứ hai, là xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay, toàn
cầu hóa là một xu thế lớn của nền kinh tế thế giới. Đối với quá trình tập trung kinh
tế, toàn cầu hóa bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Cuộc
cách mạng công nghiệp hiện đại đã làm thay đổi về chất của lực lượng sản xuất.
Từ đó xuất hiện ngày càng nhiều làn sóng sáp nhập, hợp nhất.
Bên cạnh xu thế toàn cầu hóa còn có xu thế khác diễn ra trong phạm vi hẹp
hơn, đó là xu thế khu vực hóa… Khu vực hóa là sự liên minh, liên kết giữa các
quốc gia có những tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán… để nâng cao khả
năng cạnh tranh thông qua các biện pháp khác nhau, trong đó có các hành vi mua
bán, sáp nhập, hợp nhất, liên doanh giữa các doanh nghiệp
Như vậy. toàn cầu hóa và khu vực hóa đã loại trừ dần sự khép kín trong một
quốc gia và hướng tới một thế giới mở, có sự gắn bó, liên kết giữa các nước với
nhau, đặc biệt là về kinh tế. Do đó, đối với mỗi một quốc gia, việc xây dựng hệ
thống pháp luật phải tương thích và có sự đồng nhất nhất định với pháp luật của

các nước khác và các điều ước quốc tế.
1.2.3 Những nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh
tế ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam.
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là một
trong những nguyên nhân nảy sinh tập trung kinh tế, nhưng tập trung kinh tế lại
dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh. Do vậy các nước đều có những quy định nhằm kiểm
soát hành vi tập trung kinh tế.


18

Ở Châu Âu, điều 3 Quy chế 139/2004 định nghĩa hoạt động tập trung kinh tế
thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế ‘là hoạt động sáp nhập, hợp nhất và các
hình thức khác mà qua đó một hoặc nhiều doanh nghiệp làm thay đổi lâu dài cơ
cấu quyền kiểm toàn toàn bộ hoặc một phần của một hay nhiều doanh nghiệp
khác”. Một số hoạt động mua cổ phần do các tổ chức tín dụng, ngân hàng hoặc
công ty bảo hiểm không thuộc phạm vi áp dụng Quy chế 139/2004. Việc mua lại
tạm thời một số cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán (phải bán lại
trong thời hạn một năm kể từ ngày mua) không bị coi là hoạt động tập trung kinh
tế với điều kiện đây là một trong những hoạt động thường xuyên của tổ chức tài
chính và tổ chức tài chính không thực hiện quyền bỏ phiếu phát sinh từ số cổ phần
mà họ nắm giữ để xác định chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp liên quan.[35]
Trong hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế, duy trì và bảo vệ cạnh tranh là
yêu cầu quan trọng hàng đầu. Đối với Liên minh châu Âu đây là tiêu chí duy nhất
quyết định việc có cho phép hay không cho phép thực hiện dự án tập trung kinh tế.
Nếu hoạt động tập trung kinh tế không làm hạn chế một cách đáng kể cạnh tranh
thực tế trên thị trường, đặc biệt nếu nó không tạo ra hoặc không củng cố vị trí
thống lĩnh thì phải được coi là phù hợp. Một dự án tập trung kinh tế kéo theo việc
hình thành vị trí thống lĩnh vẫn có thể được coi là phù hợp khi tất cả đều cho thấy
vị trí thống lĩnh này chỉ là tạm thời và sẽ nhanh chóng biến mất vì sẽ có những đối

thủ cạnh tranh lớn gia nhập thị trường . Quan điểm này cũng giống với quan điểm
chung ở Mỹ, theo đó không cần thiết phải xử lý những doanh nghiệp chiếm vị trí
thống lĩnh thị trường có thể bị giành giật. Có rất ít khác biệt giữa tiêu chí “giảm
sút đáng kể cạnh tranh” trong pháp luật Mỹ với tiêu chí “hạn chế đáng kể cạnh
tranh” trong pháp luật của Liên minh châu Âu. Uỷ ban châu Âu đã soạn thảo Điều
2 của Quy chế 139/2004 theo hướng xích gần hơn với tiêu chí của Mỹ, theo đó thủ
tục kiểm soát không chỉ áp dụng đối với những dự án tập trung kinh tế tạo ra hoặc
tăng cường vị trí thống lĩnh mà còn đối với các dự án gây cản trở đáng kể đến
cạnh tranh.


19

Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế là thủ tục tiền kiểm chứ không mang tính
chất hậu kiểm nên cơ quan thực hiện thủ tục kiểm soát phải tính đến những hành
vi hạn chế cạnh tranh có nguy cơ xảy ra. Điều 4 Quy chế 139/2004 quy định mọi
dự án tập trung kinh tế thuộc phạm vi áp dụng thủ tục kiểm soát của Liên minh
châu Âu đều phải được thông báo trước. Hồ sơ thông báo phải được lập theo mẫu
và nộp cho Uỷ ban châu Âu ngay sau khi các bên giao kết với nhau về việc tập
trung kinh tế - ngay sau khi ký thoả thuận liên kết, thoả thuận mua quyền kiểm
soát. Quy chế không quy định thời hạn thực hiện nghĩa vụ thông báo nhưng các
doanh nghiệp thông báo càng sớm thì càng có lợi. Theo thông lệ, tốt nhất nên có
thông báo sơ bộ ngay sau khi các bên thống nhất được với nhau về việc thông báo
cho Uỷ ban về ý định của họ. Điều này cho phép bảo đảm có được hồ sơ đầy đủ
khi thông báo chính thức và Uỷ ban có thể đảm bảo được thời hạn xem xét, thạm
chí bắt đầu tiến hành ngay việc hỏi ý kiến của các bên thứ ba về dự án kinh tế nếu
các bên thông báo sơ bộ đồng ý. Thông báo về dự án tập trung kinh tế được công
bố công khai để các bên thứ ba có liên quan trình bày ý kiến.
Tiêu chí doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản chưa được quy định trong Quy
chế 139/2004 nhưng đã trở thành quen thuộc trong thực tiễn giải quyết các vụ tập

trung kinh tế ở Mỹ (người ta gọi đây là tiêu chí “falling company defense”). Toà
án Công lý Liên minh châu Âu đã khuyến khích Uỷ ban châu Âu áp dụng tiêu chí
này, cho rằng hoàn toàn có thể cho phép hình thành vị trí thống lĩnh nếu như
doanh nghiệp tham gia vào dự án tập trung kinh tế đang ở trong tình trạng mất khả
năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp mục tiêu (doanh nghiệp bị nắm quyền kiểm
soát) có nguy cơ bị phá sản trong khi không có lời dạm mua nào ít gây tổn hại hơn
đối với cạnh tranh, hoạt động tập trung kinh tế trở nên dễ chấp nhận hơn so với sự
suy thoái cơ cấu cạnh tranh trên thị trường.
Trong một số lĩnh vực, sự phát triển của tập trung kinh tế trong một thời điểm
nhất định có thể gây nguy cơ đặc biệt. Vì vậy ở từng nước trong Liên minh châu
Âu có những quy định riêng về thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế, ví dụ ở Pháp có


20

những quy định riêng về kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực báo chí, thông
tin nghe nhìn, điện ảnh, ngân hàng.
Việc kiểm soát tập trung kinh tế chỉ đạt hiệu quả khi cơ quan kiểm soát tập
trung kinh tế có quyền mặc nhiên can thiệp chứ không phải đợi có đơn khởi kiện
mới can thiệp và yêu cầu của thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế là không được
chịu ảnh hưởng của những đánh giá chủ quan hoặc mamg màu sắc chính trị
Liên bang Nga không có khái niệm riêng về tập trung kinh tế, theo Luật
cạnh tranh và hạn chế độc quyền trên thị trường hàng hóa năm 1991, sửa đổi năm
2002 thì nhà nước thực hiện việc kiểm soát các hành vi sau;
- Kiểm soát việc thành lập, tổ chức lại và giải thể các tổ chức kinh tế khác và
các liên hiệp gồm:
+ Thành lập, sáp nhập, hợp nhất, liên minh các tổ chức kinh tế
+Sáp nhập, hợp nhất các tổ chức kinh tế mà tổng giá trị tài sản của năm tài
chính gần nhất vượt quá 200.000 lần mức lương tối thiểu
- Kiểm soát việc thực hiện pháp luật chống độc quyền trong các trường hợp

sau:
- Khi góp vốn hoặc mua cổ phần có quyền biểu quyết chiếm trên 20% vốn
điều lệ của các tổ chức kinh tế
- Nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản của một chủ thể kinh
doanh khác nếu giá trị tài sản giao dịch vượt quá 10% tổng giá trị tài sản của chủ
thể kinh doanh đó
+ Nhận các quyền cho phép chủ thể kinh doanh đó thực hiện chức năng điều
hành doanh nghiệp.
Ở Nga hệ thống pháp luật của nhà nước kiểm soát về tập trung kinh tế trên thị
trường hàng hóa gồm hai bộ phận:
- Giám sát việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các tổ chức thương mại và phi
thương mại
- Kiểm soát việc chống độc quyền trong việc mua cổ phần, góp vốn vào vốn
điều lệ của các tổ chức thương mại và trong các trường hợp khác.


21

Hai nội dung trên được quy định tại điều 17,18 Luật liên bang về cạnh tranh
trên thị trường hàng hóa ngày22/3/1991
-Pháp luật Liên Bang Nga tiếp cận khái niệm tập trung kinh tế theo hướng
liệt kê. Tập trung kinh tế được hiểu là hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua cổ phần,
góp vốn vào doanh nghiệp, nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản và các
quyền khác cho phép điều hành doanh nghiệp khi những hành vi đó vượt quá
ngưỡng quy định của pháp luật. Pháp luật Nga kiểm soát những hành vi trên vì đó
là những hành vi có nguy cơ dẫn đến lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
-Tại Việt Nam quan điểm về tập trung kinh tế được thể hiện trong các văn
kiện của Đảng “Hình thành một tổ chưc kinh tế tập trung với mục đích tích tụ, tập
trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới” và sau đó được thể
chế hóa trong các van bản hiện hành sau:

- Bộ luật Dân sự năm 2005
- Luật cạnh tranh 2004
- Luật doanh nghiệp 2005
- Luật đầu tư năm 2005
- Nghị định số 116/2005 NĐ- CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy định
chi tiết một số điều của Luật cạnh tranh


22

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG
KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Các quy định về tập trung kinh tế trong hệ thống pháp luật Việt
Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều luật và văn bản dưới luật có
các quy đinh liên quan đến tập trung kinh tế (xem phụ lục 1)
* Bộ luật dân sự
Điều 94, 95 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về hợp nhất và sáp nhập pháp
nhân, theo đó các pháp nhân cùng loại có thể hợp nhất thành một pháp nhân mới
hoặc một pháp nhân có thể được sáp nhập vào một pháp nhân khác cùng loại theo
quy định của điều lệ, theo thỏa thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Sau khi hợp nhất, các pháp nhân cũ chấm dứt; các quyền, nghĩa vụ dân sự
của các pháp nhân cũ được chuyển giao cho pháp nhân mới. Sau khi sáp nhập,
pháp nhân được sáp nhập chấm dứt; các quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân
được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập
* Luật Doanh nghiệp
Với vai trò là luật tổ chức và thiết lập mô hình hoạt động cho các loại hinh
doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến tập
trung kinh tế, cụ thể là các nội dung sau:

Các quy định trong Luật Doanh nghiệp có thể được sử dụng làm căn cứ
pháp lý để làm rõ khái niệm và phạm vi của các hoạt động tập trung kinh tế.
Chẳng hạn để xác định khái niệm mua lại doanh nghiệp, khi thực thi cơ quan quản
lý cạnh tranh có thể dẫn chiếu đến Luật Doanh nghiệp. Vấn đề mấu chốt để xác
định việc mua lại là quyền chi phối và kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại, theo đó,
nếu việc mua tài sản chưa đủ tạo nên quyền chi phối, kiểm soát doanh nghiệp bị
mua lại thì chưa cấu thành hiện tượng tập trung kinh tế. Pháp luật cạnh tranh xác
định hai trường hợp tạo nên quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp khác là:


23

-Dành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ chiếm
được 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị
-Dành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát ở mức mà
theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để
doanh nghiệp mua lại chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh
nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp bị kiểm soát.
Trong trường hợp thứ nhất, căn cứ xác định đã được Luật Canh tranh định
lượng theo số phiếu hoặc giá trị biểu quyết tại cơ quan lãnh đạo, quản lý cao nhất
của doanh nghiệp. Xong để xác định trường hợp thứ hai cần dẫn chiếu đến những
quy định tương ứng về quyết định những chính sách tài chính, kinh doanh trong
pháp luật về doanh nghiệp. Tùy theo hình thức tổ chức của doanh nghiệp bị mua
lại mà mức vốn đủ chi phối các vấn đề nói trên là khác nhau. Pháp luật về doanh
nghiệp có vai trò làm rõ hơn những vấn đề mà Luật Cạnh tranh chưa quy định chi
tiết về các hành vi tập trung kinh tế.
Các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký kinh doanh, tổ chức lại doanh
nghiệp, chuyển nhượng vốn góp, mua bán cổ phần trong pháp luật về doanh
nghiệp. Với nhiệm vụ bảo đảm quyền tự do kinh doanh và thiết lập trật tự trong

việc thực hiện quyền kinh doanh, các chế định nói trên đảm bảo quyền quản lý nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh trên thị trường. Quan hệ giữa các thủ tục kiểm
soát trong Luật Canh tranh và các thủ tục về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh
nghiệp được xác định như sau
-Nếu tập trung kinh tế thuộc nhóm không chịu sự kiểm soát của Luật Cạnh
tranh thì chỉ phải làm các thủ tục về đăng ký kinh doanh, chuyển nhượng vốn, mua
bán cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp mà không phải thực hiện bất cứ thủ tục
gì tại cơ quan cạnh tranh;
-Nếu tập trung kinh tế thuộc nhóm phải thông báo thì trước khi tiến hành các
thủ tục tại cơ quan đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp tham gia tập trung phải
làm thủ tục thông báo lại cơ quan quản lý cạnh tranh. Chỉ khi nào có trả lời của cơ


24

quan này khẳng định dự án tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm thì
các doanh nghiệp mới được thực hiện các thủ tục về sáp nhập, mua lại hoặc liên
doanh theo pháp luật doanh nghiệp
-Nếu thuộc trường hợp bị cấm, đương nhiên không được tiến hành bất cứ thủ
tục gì trừ trường hợp được miễn trừ.
-Luật doanh nghiệp còn có các quy định có thể hỗ trợ cho quá trình kiểm soát
tập trung kinh tế , bao gồm:
Các quy định về nghĩa vụ thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn của công
ty trách nhiêm hữu hạn, thông báo tiến độ góp vốn cổ phần của công ty cổ phần;
Nghĩa vụ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc có cổ đông sở hữu
từ 5% tổng số cổ phần trở lên..Những quy định trên không chỉ tạo điều kiện cho
quản lý doanh nghiệp hiệu quả mà còn có thể cung cấp nhiều thông tin cần thiết để
xác minh hiện tượng tập trung kinh tế được thuận tiện, nhanh chóng
* Luật cạnh tranh
Theo Điều 16 Luật Canh tranh do Quốc hội ban hành ngày 3/12/2004 và có

hiệu lực kể từ ngày 1/7/2005 thì Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao
gồm:
- Sáp nhập doanh nghiệp
- Hợp nhất doanh nghiệp
- Mua lại doanh nghiệp
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp
- Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật
Điều 17 Luật Cạnh tranh nêu ra khái niệm về các hình thức tập trung kinh tế
như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp
khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.


×