Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.09 KB, 33 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
Trường Đại học Tài Chính – Marketing
Khoa Cơ Bản
---------------oOo---------------

Đề tài:

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Vũ Văn Quế
Nhóm thực hiện: Nhóm 10


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống Xã hội Chủ nghĩa lâm
vào khủng hoảng nghiêm trọng và dần bị sụp đổ. Bên cạnh đó, khoa học công
nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả quốc gia dân tộc với mức độ khác
nhau. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối
ngoại để phù hợp với tình hình mới. Trong bối cảnh quan hệ quốc tế chuyển từ
đối đầu sang đối ngoại, thế hai cực bị phá hoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa
dạng hóa, đa phương hóa trong quá trình toàn cầu hóa, phát triển và phụ thuộc
lẫn nhau. Việt Nam nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ASEAN
là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn
định. Là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và
chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép
khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
hòng phá hoại thành quả Cách mạng Việt Nam tiến lên. Bằng sự nhạy cảm
chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo Cách mạng, Đảng đề ra những giải pháp ngang


tầm với những biến đổi to lớn trong nước và thế giới, tiến hành tự đổi mới để
hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác
và phát triển.
Trên cơ sở đổi mới chính sách đối nội đã hình thành và phát triển chính
sách đối ngoại mới, giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ được sự ủng hộ của các dân
tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam. Chính vì thế sau hơn 20 năm
đổi mới thế và lực của nước ta đã tăng lên đáng kể, Việt Nam đã và đang hội tụ
đủ các điều kiện để đến 2020 trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.


Vì thế, nhóm quyết định thực hiện đề tài “Đường lối đối ngoại trong thời
kỳ đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
2. Mục đích của đề tài.
Đề tài được thực hiện nhằm nghiên cứu về hoàn cảnh lịch sử và quá trình
hình thành, nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế và một số
giải pháp cho quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ của đề tài.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. CHƯƠNG 1: Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1.1. Tình hình thế giới từ giữa thập kỉ 80 thế kỷ XX
+ Từ giữa thập kỷ 80, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc
gia,dân tộc.
+ Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Cuối thập kỷ
80 nhiều nước Xã hội chủ nghĩa sụp đổ, Đến năm 1991, Liên Xô tan rã. chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ
quốc tế.

+ Trong thời kỳ này, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh
chấp… vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hòa bình, hợp tác, phát
triển.


Xu thế toàn cầu hóa mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều
thách thức với các quốc gia trên thế giới.
1.1.2. Tình hình khu vực châu Á- Thái Bình Dương
Từ năm 1990, có nhiều chuyển biến mới. Trong khu vực tuy vẫn tồn tại
những bất ổn nhưng Châu Á – Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực
ổn định.Châu Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển
kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh
1.1.3. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam
Giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới
bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước. Tránh nguy cơ tụt
hậu về kinh tế.
1.2. Các giai đoạn hình, phát triển đường lối
1.2.1. Giai đoạn 1986- 1996 : Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế
Đại VI của Đảng nhận định : “Xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa
các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau cũng là những
điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”
Tháng 12-1988. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành.
Tháng 5-1988, Bộ chính trị ra nghị quyết 13 về nhiệm ụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới. Đề ra các chử trương kiên quyết chủ động
chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cung tồn
tại hòa bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học – kĩ thuật và xu
thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân



công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xóa bỏ
tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đại hội VII Đảng đề ra chủ trương “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi
với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau, trên
cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”. Với phương châm “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng động thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”.
Hội nghị lần ba BCHTW khóa VII(T6- 1992) nhấn mạnh yêu cầu đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ
sở đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường hạn chế đến mức
tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị giữ nhiệm kỳ khóa VII(1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ
và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa và đa
phương hóa quan hệ đối ngoại, trong phân công lao động quốc tế, kiên quyết
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
1.2.2. Giai đoạn 1996-2008: Bổ sung và phất triển đường lối đối
ngoại theo phương châm chủ đọng, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp
tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế.
Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.


Hội nghị lần thứ tư BCHTW khóa VIII (tháng 12-1997) chỉ rõ: trên cơ sở
phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực
bên ngoài. Nghị quyết đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc

đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phất huy tối đa nguồn lực. Lần đầu tiên, Đảng
nêu rõ quan điểm về xây dựng nên kinh tế độc lập tự chủ.
Đại hội IX đã phát triển phương châm của đại hội VII là: “Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc
lập phát triển” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng động quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (T4-2006) nêu quan điểm: Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát
triển, chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế.
Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế”.


2. CHƯƠNG 2: Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
2.1.1. Mục tiêu nhiệm vụ đối ngoại
Đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới được Đảng ta khởi xướng từ năm
1986 và được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ đại hội. Trong các Văn kiện
đại hội toàn quốc của Đảng, đường lối đối ngoại được trình bày theo các nội
dung chính, bao gồm: mục tiêu, nhiệm vụ, đường lối, nguyên tắc và các định
hướng đối ngoại lớn. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã định
ra đường lối mới, kế thừa những nội dung cơ bản của đường lối đối ngoại được
thông qua tại các kỳ đại hội trước, đặc biệt là Đại hội XI, và có những bổ sung,
phát triển mới.
Mục tiêu: Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất

nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng
hợp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế
của Việt Nam trong quan hệ khu vực và quốc tế. Mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích
quốc gia, dân tộc” được nêu lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XI. Văn kiện
Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc
gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng
và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định: Thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi
ích dân tộc là đồng nhất; thứ hai, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được
xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và
cùng có lợi, không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; thứ ba, bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối


ngoại; thứ tư, mục tiêu của mọi hoạt động đối ngoại là phải bảo đảm một cách
tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc.
Nhiệm vụ: Giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung củanhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhiệm vụ đối ngoại là “Trên cơ sở vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát
triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế,
uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
2.1.2. Tư tưởng chỉ đạo:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ

vữngchắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo
khả năngcủa Việt Nam.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng
thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích
hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh bị đẩy
vào thế cô lập.
- Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị xã hội.


- Kết hợp đối ngoại của Đảng, đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc dân tộc;
bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Trên cơ sở thực hiện
các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính
sách phát triển kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà
nước.
- Giữ vững và tăng cưòng sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai
trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập kinh tế:
Các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn đối với quá trình hội nhập quốc
tế được nêu rõ hơn trong văn kiện Đại hội XII. Định hướng hội nhập quốc tế
được nêu trong Văn kiện Đại hội XI được Văn kiện Đại hội XII cụ thể hóa

bằng những quan điểm chỉ đạo cụ thể gồm:
Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và
cả hệ thống chính trị.
Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết
chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh
tranh của đất nước.


Thứ ba, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác
phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
Thứ tư, hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự
báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất
lợi.
Cụ thể, trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào quá trình
triển khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung vào
việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các
nước lớn có vai trò quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước, đưa
khuôn khổ đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa
bình của Liên hợp quốc, diễn tập chung và các hoạt động khác; và hội nhập
trong lĩnh vực văn hóa - xã hội tập trung vào việc áp dụng và tham gia xây
dựng các bộ tiêu chí phục vụ xây dựng nền kinh tế trí thức, con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác
đối ngoại đa phương, đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không
chỉ phải chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là vào quá
trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy
vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Định hướng này cũng chỉ rõ
các cơ chế đa phương được ưu tiên trong 5 năm tới là ASEAN và Liên hợp

quốc.


2.3. Kết quả và ý nghĩa của công tác đối ngoại thời kì hội nhập quốc tế ở
Việt Nam.
5 năm qua (2011 - 2015), chúng ta triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ XI trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, phức tạp và
khó lường hơn. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự kiến, một số đối tác
kinh tế lớn của chúng ta gặp khó khăn, giá cả một số mặt hàng, nhất là giá dầu,
giảm sâu. Cạnh tranh và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn diễn biến nhanh
chóng và phức tạp. Các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, khủng bố quốc tế
và bệnh dịch có xu hướng trầm trọng hơn. Một số vấn đề khu vực, nhất là tranh
chấp lãnh thổ, biển, đảo căng thẳng hơn giai đoạn trước.
Kiên định mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam XHCN giàu mạnh”, trên cơ sở thế và lực của đất nước từng bước
được nâng cao, phát huy các thành tựu đối ngoại trong 25 năm Đổi mới, công
tác đối ngoại năm năm qua tiếp tục đạt được nhiều thành tựu, trong đó nổi bật
là các thành tựu sau:
Thứ nhất, chúng ta đã giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định,
thuận lợi cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng đi vào chiều
sâu, thực chất, hiệu quả. Bên cạnh việc tiếp tục củng cố, phát triển quan hệ
đoàn kết đặc biệt với Lào, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện
với Campuchia, các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các nước
XHCN và bạn bè truyền thống, kết quả nổi bật của đối ngoại năm năm qua là
đã hoàn thành việc xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác với hầu hết các nước
có ảnh hưởng lớn ở khu vực và trên thế giới.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, chúng ta đã thiết lập thêm quan hệ đối tác
chiến lược với tám nước trong tổng số 15 nước đối tác chiến lược đã được xây
dựng trong 15 năm qua, nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện hoặc sâu



rộng với hai nước, lập quan hệ đối tác toàn diện với ba nước trong tổng số 10
nước đối tác toàn diện, trong đó có cả năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc. Được xây dựng trên nền tảng quan hệ bình đẳng, tôn
trọng luật pháp quốc tế, thể chế chính trị, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, các khuôn khổ đó đã đưa quan hệ của
ta với các đối tác, nhất là các đối tác hàng đầu như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga,
Nhật Bản, EU, các nước cùng trong Cộng đồng ASEAN… đi vào khuôn khổ
ổn định, đồng thời mang lại ngày càng nhiều lợi ích về kinh tế, thương mại,
đầu tư, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa…
Quan hệ với các đối tác hàng đầu không chỉ phát triển mạnh trên kênh
Nhà nước, Chính phủ, mà còn được đẩy mạnh trên cả kênh Đảng, Quốc hội.
Thứ hai, công tác đối ngoại đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Năm năm qua, chúng ta ngày càng chủ
động, tích cực trong việc đàm phán và ký kết các Khu vực mậu dịch tự do
(FTA), hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ta
đã hoàn thành ba FTA song phương với các đối tác quan trọng, bao gồm FTA
với Hàn Quốc, FTA với Liên minh kinh tế Á - Âu và FTA với Liên hiệp châu
Âu. Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết và tham gia 11 FTA khu vực và song
phương, trong đó có sáu FTA trong khuôn khổ hợp tác ASEAN. Đặc biệt, đối
với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam đã tích cực triển khai các
biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC.
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thành viên có tỷ lệ
thực hiện cao nhất các biện pháp trong Lộ trình Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Tháng 10/2015, ta đã cùng các nước thành viên kết thúc đàm phán Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ta cũng tiếp tục đàm phán Hiệp định
Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm đạt được một thỏa thuận kinh
tế toàn diện, phù hợp điều kiện của Việt Nam và các nước ASEAN. Ở cấp độ



toàn cầu, tại Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tháng
12/2013, Việt Nam đã cùng với các thành viên WTO thông qua Gói cam kết
thương mại Bali, khai thông bế tắc trong đàm phán trong khuôn khổ WTO đã
kéo dài nhiều năm.
Cho đến giữa năm 2015, ta có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 224
quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút trên 250 tỷ USD FDI. Trong 5 năm qua,
chúng ta đã vận động được thêm 36 đối tác mới, nâng tổng số đối tác chính
thức công nhận quy chế kinh tế thị trường ở nước ta lên 59. Những hoạt động
kinh tế đối ngoại này đã đóng góp tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa
thị trường xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư, ODA, thu hút khách du lịch,
đấu tranh chống những hành động gian lận thương mại, áp đặt các rào cản
thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và nhà nước ta.
Thứ ba, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ
vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Năm năm qua,
công tác biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia đều có tiến triển. Với
Trung Quốc, hai bên đã ký Hiệp định quy chế tàu thuyền đi lại tại khu vực tự
do đi lại ở cửa sông Bắc Luân và Hiệp định khai thác và bảo vệ tài nguyên du
lịch khu vực thác Bản Giốc. Chúng ta đã chủ động và tích cực duy trì đàm
phán về vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm
và bàn bạc về hợp tác cùng phát triển. Hai bên đã đạt được “Thỏa thuận về
những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”.
Ngày 19/12/2015, hai bên đã khởi động khảo sát chung tại một số khu
vực thỏa thuận ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, chuẩn bị triển khai một số dự án về hợp
tác ít nhạy cảm trên biển để thực hiện mục tiêu phân định và hợp tác cùng phát
triển tại vùng biển này. Với Lào, hai bên hoàn thành dự án tăng dày tôn tạo hệ
thống mốc giới, đạt được nhiều thỏa thuận trong việc phát triển đường biên
giới hòa bình, hữu nghị. Với Campuchia hai bên đã hợp tác tốt giữ gìn an ninh,


trật tự và giải quyết ổn thỏa các vấn đề phát sinh ở khu vực biên giới; tiếp tục

công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (hiện đã đạt hơn 80%).
Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, công tác đối ngoại đã
thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sử
dụng linh hoạt, triệt để các biện pháp chính trị - ngoại giao, mọi kênh đối thoại,
tiếp xúc ở các cấp độ song phương và đa phương, khu vực và quốc tế, kiên
quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời chủ động tranh
thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khôi phục lòng tin, thúc đẩy hợp tác hữu
nghị, nỗ lực đối thoại nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề
Biển Đông. Chúng ta đã tranh thủ được công luận quốc tế lên tiếng ủng hộ lập
trường chính nghĩa của Việt Nam, bác bỏ các yêu sách vô lý, phản đối các hành
động đơn phương thay đổi nguyên trạng, vi phạm luật pháp quốc tế, nhằm duy
trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển
Đông và khu vực. Trong những năm qua, vấn đề Biển Đông là chủ đề được
quan tâm và nêu trong nhiều Tuyên bố, văn kiện của nhiều tổ chức, diễn đàn đa
phương như ASEAN, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Nhóm nước G-7,
EU…
Đối với các thế lực lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để
can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước, chúng ta đã sử dụng nhiều biện
pháp, kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa, bảo vệ
hệ giá trị Việt Nam. Năm năm qua, chúng ta đã chủ động tổ chức các cuộc đối
thoại với các nước, các tổ chức quốc tế về các vấn đề này. Chúng ta cũng đã
tăng cường công tác thông tin cho cộng đồng quốc tế về thực tế quá trình xây
dựng và triển khai chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh
vực này. Công tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật
trong việc đẩy lùi và vô hiệu hóa các âm mưu và hành động chống phá Đảng
và Nhà nước ta trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Năm năm qua,
nhiều hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm chia sẻ thông


tin, tăng cường năng lực xây dựng và thực thi pháp luật cũng được mở ra, tạo

cơ sở cho các đối tác hiểu rõ hơn những chuyển biến về chính sách và thực thi
chính sách ở Việt Nam.
Thứ tư, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông qua việc nâng tầm
đối ngoại đa phương từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng,
định hình luật chơi chung”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược
về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần “thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Việt Nam đóng góp nhiều sáng kiến
quan trọng tại các diễn đàn đa phương có tầm ảnh hưởng lớn như ASEAN,
Liên Hợp Quốc, APEC, ASEM, hợp tác tiểu vùng Mê Công… Vị thế của đất
nước được nâng lên đáng kể với việc chúng ta đăng cai thành công Đại hội
đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132, đóng góp cho Liên Hợp
Quốc trong việc xây dựng và triển khai Chương trình nghị sự phát triển bền
vững sau năm 2015, được các nước tin cậy bầu với số phiếu cao vào Hội đồng
nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban kinh tế - xã hội Liên
Hợp Quốc nhiệm kỳ 2016-2018, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO nhiệm
kỳ 2013-2017, lần đầu tiên tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp
Quốc (PKO).
Công tác đối ngoại đạt được những thành tựu kể trên là nhờ đường lối
đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Những
thành tựu quan trọng này còn là kết quả của sức mạnh đoàn kết dân tộc, nỗ lực
phấn đấu, sáng tạo của các cán bộ làm công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước,
Quốc hội và đối ngoại nhân dân; sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành
và địa phương; sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả các bài học lớn còn nguyên giá
trị thời đại của ngoại giao Việt Nam hiện đại, đó là kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược với
phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.


Đại hội Đảng lần thứ XII sẽ thông qua những định hướng và nhiệm vụ
chính cho công tác đối ngoại trong 5 năm tới. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại

là duy trì môi trường an ninh và tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại, đưa
hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu và củng cố vững chắc vị thế của Việt Nam
trong cộng đồng khu vực và quốc tế. Đây là những nhiệm vụ quan trọng đối
với toàn Đảng và toàn dân ta. Việc hoàn thành các nhiệm vụ trên có thể gặp
nhiều khó khăn, thách thức hơn khi bối cảnh khu vực và thế giới vẫn tiếp tục
phức tạp và chuyển biến rất nhanh.
Với thế và lực của đất nước sau 30 năm Đổi mới và kiên định phục vụ
lợi ích quốc gia dân tộc, dựa vào nền tảng tư tưởng hòa hiếu của dân tộc xây
dựng sự đồng lòng nhất trí trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, và luôn
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại, công tác đối ngoại Việt Nam sẽ
ngày càng phát triển mạnh và thích ứng nhanh trước những biến chuyển của
tình hình, tiếp tục đóng vai trò là mặt trận hàng đầu trong việc giữ vững môi
trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Ngoài ra, Năm 2015 - Năm có ý nghĩa to lớn và quan trọng, năm cuối
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 đã khép
lại. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm 2015 là cơ sở và động lực
cho việc xây dựng và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016,
năm đầu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ


Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với
năm 2014, trong đó quý I tăng 6,12%; quý II tăng 6,47%; quý III tăng 6,87%;
quý IV tăng 7,01%. Mức tăng trưởng năm nay cao hơn mục tiêu 6,2% đề ra và


cao hơn mức tăng của các năm từ 2011-2014[1], cho thấy nền kinh tế phục hồi

rõ nét. Trong mức tăng 6,68% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014, đóng góp 0,4
điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
9,64%, cao hơn nhiều mức tăng 6,42% của năm trước, đóng góp 3,2 điểm phần
trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm.
Quy mô nền kinh tế năm nay theo giá hiện hành đạt 4192,9 nghìn tỷ
đồng; GDP bình quân đầu người năm 2015 ước tính đạt 45,7 triệu đồng, tương
đương 2109 USD, tăng 57 USD so với năm 2014. Cơ cấu nền kinh tế năm nay
tiếp tục có sự chuyển dịch nhưng tốc độ chậm, trong đó khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 17,00%; khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 33,25%; khu vực dịch vụ chiếm 39,73% (thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản
phẩm là 10,02%). Cơ cấu tương ứng của năm 2014 là: 17,70%; 33,21%;
39,04% (thuế là 10,05%).
Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2015, tiêu dùng cuối cùng tăng 9,12%
so với năm 2014, đóng góp 10,66 điểm phần trăm vào mức tăng chung; tích
lũy tài sản tăng 9,04%, đóng góp 4,64 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ làm giảm 8,62 điểm phần trăm của mức tăng trưởng
chung.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước các năm 2013, 2014 và 2015

Tốc độ tăng so với năm trước

Đóng góp của các khu

(%)

vực vào tăng trưởng
năm 2015

Năm


Năm

Năm

2013

2014

2015

(Điểm phần trăm)


Tổng số

5,42

5,98

6,68

6,68

2,63

3,44

2,41


0,40

xây dựng

5,08

6,42

9,64

3,20

Dịch vụ

6,72

6,16

6,33

2,43

6,42

7,93

5,54

0,65


Nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản
Công nghiệp và

Thuế sản phẩm
trừ trợ cấp sp


Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

-

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Mười Một năm nay đạt
13.894 triệu USD, thấp hơn 406 triệu USD so với số ước tính, trong đó gạo
thấp hơn 77 triệu USD; thủy sản và dầu thô cùng thấp hơn 49 triệu USD; gỗ và
sản phẩm gỗ thấp hơn 22 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn
16 triệu USD; rau quả thấp hơn 15 triệu USD; hạt điều thấp hơn 12 triệu USD;
cà phê thấp hơn 11 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 14,20 tỷ
USD, tăng 2,2% so với tháng trước,do một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng
như: Hàng dệt may tăng 17%; giày dép tăng 8,7%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng
10,4%; dầu thô tăng 47%, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,1 tỷ USD,
tăng 5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,1 tỷ USD,
tăng 1,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng


Mười Hai tăng 10,4%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu
thô) tăng 18,3%; khu vực kinh tế trong nước giảm 5,2%. Một số mặt hàng có

kim ngạch tăng so với cùng kỳ: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 35,3%;
điện tử, máy tính và linh kiện tăng 39%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
khác tăng 15,8%; đáng chú ý là một số mặt hàng nông sản tăng cả về lượng và
kim ngạch so với cùng kỳ: Hạt điều tăng 23% về lượng và tăng 32,4% về kim
ngạch; hạt tiêu tăng 45% và tăng 67,1%; gạo tăng 146% và tăng 120,7%.
Tính chung cả năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 162,4
tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2014 mức tăng thấp nhất trong 5 năm qua[11].
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa năm nay giảm 3,8% nên loại trừ yếu tố giá, kim
ngạch xuất khẩu năm nay tăng 12,4% (Năm 2014 chỉ số giá xuất khẩu tăng
0,79%, loại trừ yếu tố giá kim ngạch xuất khẩu tăng 12,9%). Kim ngạch xuất
khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước tính đạt 115,1 tỷ USD, tăng 13,8%
so với năm trước, chiếm tỷ trọng 70,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu,
đóng góp 9,3 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng xuất khẩu chung. Nếu
không kể dầu thô, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 111,3 tỷ USD, tăng
18,5%. Khu vực trong nước ước tính đạt 47,3 tỷ USD, giảm 3,5% so với năm
trước (sau 5 năm tăng trưởng liên tục), làm giảm 1,2 điểm phần trăm của mức
tăng trưởng xuất khẩu năm 2015.
-

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Mười Một năm
nay đạt 13631 triệu USD, thấp hơn 869triệu USD so với số ước tính, trong đó
điện tử máy tính và linh kiện thấp hơn 207 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng
cụ phụ tùng khác thấp hơn 204 triệu USD; phương tiện vận tải khác và phụ
tùng thấp hơn 199 triệu USD; điện thoại các loại và linh kiện thấp hơn 120
triệu USD; sắt thép thấp hơn 36 triệu USD; vải thấp hơn 30 triệu USD.


Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 14,50 tỷ

USD, tăng 6,4% so với tháng trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 8,5 tỷ USD, tăng 7,5%; khu vực trong nước đạt 6 tỷ USD, tăng 4,8%.
Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng như: Thức ăn gia súc và nguyên
phụ liệu tăng 36,9%; máy móc, thiết bị và dụng cụ tăng 13,9%; chất dẻo tăng
9,2%; vải tăng 3,3%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập
khẩu tháng Mười Hai tăng 5,2%, trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 8,3%; khu vực kinh tế trong nước tăng 1%. Kim ngạch nhập khẩu một số
mặt hàng phục vụ hoạt động sản xuất, gia công lắp giáp tăng so với cùng kỳ
như: Sản phẩm chất dẻo tăng 21,1%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng
tăng 9,1%; vải tăng 11,9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 3,9%.
Tính chung cả năm 2015, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt
165,6 tỷ USD, tăng 12% so với năm trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đạt 98 tỷ USD, tăng 16,4%; khu vực kinh tế trong nước đạt 67,6 tỷ
USD, tăng 6,3%. Nếu loại trừ yếu tố giá (Chỉ số giá nhập khẩu giảm 5,8%),
kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2015 tăng 18,9%, cao hơn mức tăng
13,2% của năm 2014 khi loại trừ yếu tố giá (Chỉ số giá nhập khẩu năm 2014
giảm 1,02%). Giá nhập khẩu một số mặt hàng giảm mạnh so với năm trước:
Xăng dầu giảm 40,4%; sắt thép giảm 15,6%; chất dẻo giảm 13%; phân bón
giảm 14,1%.
-

Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Năm 2015 xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 11,2 tỷ USD, tăng 2,1% so với
năm 2014, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch ước tính đạt 7,3 tỷ USD, chiếm
65% tổng kim ngạch và giảm 0,4% so với năm 2014.


Nhập khẩu dịch vụ năm nay ước tính đạt 15,5 tỷ USD, tăng 6,9% so với
năm trước, trong đó chủ yếu vẫn là nhập khẩu dịch vụ vận tải và bảo hiểm

hàng nhập khẩu với 9 tỷ USD, chiếm 58%.
Nhập siêu dịch vụ năm 2015 ước tính 4,3 tỷ USD, tăng 16% so với năm
2014. Như vậy, cân đối thương mại hàng hóa và dịch vụ năm 2015 ước tính
xuất siêu 1,5 tỷ USD, giảm 77% so với năm 2014, trong đó hàng hóa xuất siêu
5,8 tỷ USD, dịch vụ nhập siêu 4,3 tỷ USD.


3. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP QUỐC TẾ Ở VN HIỆN NAY
3.1. Những tồn tại và thách thức của đối ngoại Việt Nam hiện nay
Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như những năm
tới không chỉ có thời cơ và thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều thách
thức lớn. Do đó, chúng ta cũng cần luôn nhận thức rõ những thách thức mà
nước ta phải đối mặt để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục hữu hiệu.
- Thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là
một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều
yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh
tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn
nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh... Cho
nên nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước và cả trên
trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên
bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do thực hiện những cam kết của một thành viên
WTO, nhất là việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về
kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hoá và
dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận
tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp... vì vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng
phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong
hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng đòi
hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,... Về cơ chế
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương

mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói
quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.


- Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang
phát triển khác, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương
mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư... chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải
chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các
nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn
khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước
này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB,
WTO... Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần
vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối
với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây
là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự
cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục
trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt
đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta, các cam kết mở cửa thị
trường của ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các
nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam, trong khi đó, ta chưa thiết
kế được những biện pháp bảo hộ phù hợp với cam kết quốc tế để bảo hộ sản
xuất trong nước.
- Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế
toàn cầu hoá đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện
chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân
phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp
được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân
cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu
hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức

ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu
vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã hội,


đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự
chưa phù hợp của nhiều chính sách... Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội
có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội
cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.
- Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ
an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp
hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ
phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...); cục diện an ninh
luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần
phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an
ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách
hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính
tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như
tình hình chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời
sống chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế
vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời
cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực,
hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế
giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị- xã hội. Trên lĩnh vực văn
hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị ngoại
lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn
hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Chưa bao
giờ văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ
nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy
cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.

- Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta
cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân


tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị,
vai trò của nhà nước... Đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên
giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy
các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc
gia, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc
tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền"... Hội nhập quốc tế đối với
nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình"
của các thế lực chống đối trên nhiều lĩnh vực.
- Ngoài ra, trong một thời gian dài trước khi Chính phủ ban hành Chiến
lược tham gia các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đến năm 2020, việc tham
gia các FTA chưa thực sự chủ động và mới chỉ tập trung vào các lợi ích mang
tính ngắn hạn như cắt giảm thuế quan, mà chưa chú trọng đúng mức đến các
mục tiêu dài hạn như nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng tăng trưởng, cải
cách môi trường, thể chế trong nước, công tác phối hợp về hội nhập giữa các
bộ, ngành, giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương, doanh nghiệp
chưa tốt. Nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được xử lý đặc biệt là trong
lĩnh vực nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh, phát triển đồng bộ
các yếu tố kinh tế thị trường
3.2. Một số giải pháp
Để chủ động hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả, trong thời gian tới
cần chú ý thực hiện những giải pháp sau:
- Các chính sách đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trong hội nhập:
Chính phủ cần thực hiện các chính sách trong khuôn khổ các hiệp định thương
mại cho phép để hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia chuỗi hàng hóa và dịch vụ
xuất khẩu nhằm chủ động tổ chức sản xuất những hàng hóa và dịch vụ xuất

khẩu chủ lực, phát triển thị trường xuất khẩu chủ yếu. Đồng thời, nhanh chóng


×